Miệng Taran trễ xuống. Trước khi cậu kịp trả lời, ba mụ phù thuỷ đã vây quanh nhóm bạn và dẫn họ vào căn nhà tranh. Lấy làm lạ, cậu quay sang Fflewddur, giờ mặt anh đã bớt tái vì Orddu đã thôi không còn nhắc đến chuyện cóc nhái nữa. “Dallben bé nhỏ ư?” Taran thì thào. “Cả đời tôi chưa bao giờ nghe ai nói về thầy ấy như vậy cả. Liệu chúng ta có đang nói về cùng một Dallben không nhỉ?” “Tôi không biết.” chàng ca sĩ thì thào đáp lại. “Nhưng nếu họ nghĩ vậy thì, Belin vĩ đại, đừng có nói với họ khác đi!” Trong nhà, lăng xăng hối hả chạy đi chạy lại một cách vui sướng, nhưng thực ra chẳng làm được gì mấy, ba mụ phù thuỷ vội vã dọn dẹp lại gian buồng. Orwen, với vẻ vui mừng và phấn khích rõ rành rành, đem ra mấy chiếc ghế ọp ẹp; Orgoch dọn đống bát đĩa trên bàn bằng cách quét chúng xuống sàn; Orddu thì chắp hai tay vào nhau và nhìn nhóm bạn mỉm cười. “Ta không bao giờ có thể nghĩ đến chuyện này.” mụ mở đầu. “Ồ, không, không, được, vịt con của ta!” Mụ vội kêu lên với Eilonwy, cô đã đến gần cái khung cửi và vừa cúi xuống để xem miếng vải. “Không được đụng vào đâu nhé. Sẽ bị châm đau lắm đấy. Nó toàn gai tầm ma cả thôi. Lại đây, ngồi với chúng ta đi, ngoan nào.” Bất kể sự đón chào nồng nhiệt bất ngờ này, Taran vẫn liếc nhìn ba mụ phù thuỷ vẻ lo lắng. Cả gian buồng khiến cậu có những linh tính kỳ dị mà cậu không thể nắm bắt được, chúng trượt ra khỏi đầu cậu như những chiếc bóng. Gurgi và chàng ca sĩ thì trái lại, tỏ ra hết sức sung sướng trước diễn biến lạ lùng của sự việc, và bắt đầu ngốn ngấu một cách ngon lành các món ăn được bày trên bàn. Taran nhìn Eilonwy vẻ dò hỏi. Cô đã đoán được ý nghĩ của cậu. “Đừng sợ thức ăn.” Cô che tay lên miệng nói. “Tất cả đều ổn, không có độc hay bị bỏ bùa đâu. Tôi biết mà. Tôi đã học được cách kiểm tra thức ăn hồi còn ở với Achren và học để trở thành một nữ pháp sư. Chỉ việc…” “Nào, con sẻ non của ta,” Orddu ngắt lời, “con phải kể cho chúng ta tất cả về Dallben bé nhỏ thân yêu đấy nhé. Giờ nó đang làm gì? Nó vẫn còn giữ cuốn Sách về Bộ Ba chứ?” “À… vâng, thầy ấy vẫn giữ.” Taran nói, với một chút bối rối, và bắt đầu tự hỏi không biết có phải ba mụ phù thuỷ này biết về Dallben nhiều hơn cậu hay không. “Con chim cổ đỏ bé nhỏ tội nghiệp,” Orddu nhận xét, “và cuốn sách ấy thì mới nặng ghê gớm làm sao. Ta lấy làm ngạc nhiên là nó có đủ sức để giở những trang giấy đó.” “Ờ… như bà biết đấy,” Taran nói, vẫn còn bối rối, “cụ Dallben mà chúng tôi biết, cụ ấy không còn bé nhỏ nữa đâu. Ý tôi là… cụ ấy đã khá già rồi.” “Khá già ư?” Fflewddur bật ra. “Cụ ấy đã ba trăm tám mươi tuổi rồi còn gì nữa! Chính Coll đã nói cho tôi biết.” “Nó đúng là một thằng bé đáng yêu, ngoan ngoãn,” Orwen thở dài. “với cặp má hồng hào và những ngón tay mũm mĩm.” “Tôi thích trẻ con lắm.” Orgoch nói, chép môi. “Tóc cụ ấy đã bạc nhiều lắm rồi.” Taran tiếp, cậu không thể bắt mình tin rằng ba bà già cổ quái này đang nói về người thầy già lão của cậu. Cái ý nghĩ về thầy Dallben uyên bác mà cũng đã từng có cặp má hồng hào và những ngón tay mũm mĩm vượt quá trí tưởng tượng của cậu. “Cụ ấy có cả một bộ râu nữa.” cậu nói thêm. “Một bộ râu ư?” Orddu kêu lên. “Bé Dallben thì làm gì với một bộ râu kia chứ? Sao nó lại muốn có một thứ như thế nhỉ? Đúng là một con nòng nọc nhỏ dễ thương!” “Chúng ta tìm thấy nó trên đầm lầy một sáng nọ.” Orwen kể. “Chỉ có một mình trong cái giỏ to tướng đan bằng cành liễu. Thật dễ thương không lời nào tả hết. Tất nhiên là Orgoch đã…” Nghe vậy, Orgoch thốt ra một tiếng kêu bực dọc và mắt mụ loé lên dưới bóng che của chiếc mũ trùm. “Thôi nào, Orgoch thân mến, đừng có tỏ ra khó chịu như thế.” Orddu nói. “Ở đây chúng ta đều là bạn cả; chúng ta có thể nói đến những chuyện đó được mà. Thôi, ta sẽ nói thế này để không chạm đến lòng tự ái của Orgoch. Bà ấy đã không muốn giữ thằng bé. Không giữ nó theo cách bình thường ấy mà. Nhưng chúng ta thì muốn. Và thế là chúng ta đã đem con chim non tội nghiệp ấy về căn nhà tranh.” “Nó lớn mới nhanh chứ.” Orwen nói. “Chỉ trong thoáng chốc nó đã chập chững đi lại, rồi bi bô nói, rồi đi lo việc vặt cho chúng ta. Tốt bụng và ngoan ngoãn biết bao. Đúng là một niềm vui hoàn hảo. Và con nói là nó có râu à?” Mụ lắc đầu. “Lạ quá nhỉ. Nó moi đâu ra được một bộ râu chứ?” “Phải, nó đúng là một con sẻ non đáng yêu.” Orddu tiếp. “Nhưng rồi,” mụ nói với một nụ cười buồn bã, “đã xảy ra một tai nạn đáng buồn. Sáng hôm ấy chúng ta đang nấu các loại thảo mộc để pha chế một thứ biệt dược.” “Và Dallben,” Orwen thở dài, “bé Dallben đáng yêu giúp chúng ta khuấy nồi. Đó là một trong những việc tử tế, chu đáo nó vẫn thường hay làm. Nhưng khi cái nồi sôi lên, một ít thuốc đã sủi bọt và bắn ra ngoài.” “Nó đã làm bỏng những ngón tay nhỏ nhắn, tội nghiệp của thằng bé.” Orddu nói thêm. “Nhưng nó không khóc, không hề. Nó chỉ cho tay vào miệng mút, con sáo nhỏ mới dũng cảm làm sao. Tất nhiên, một ít thuốc vẫn còn dính trên đó và nó đã nuốt phải.” “Vừa nuốt chỗ thuốc ấy vào,” Orwen giải thích, “thì nó liền biết hết mọi điều mà chúng ta biết. Đó là một thần dược, các con hiểu chứ, một công thức để nấu ra học vấn.” “Sau đó,” Orddu nói tiếp, “thì không thể giữ nó ở lại với chúng ta được nữa. Mọi chuyện sẽ không bao giờ còn được như trước nữa; không, không bao giờ, không thể có nhiều người biết nhiều thứ đến thế ở chung dưới một mái nhà được. Nhất là khi thằng bé đã đoán được một vài điều Orgoch vẫn nung nấu trong đầu. Vậy là chúng ta phải để cho nó đi – nghĩa là thật sự thả cho nó đi ấy. Đến lúc này thì Orgoch lại là người muốn giữ nó lại, theo cách riêng của bà ấy, và ta nghĩ thằng bé sẽ không thích thế đâu.” “Lẽ ra nó đã có thể là một thằng bé nhỏ nhắn ngon lành biết bao.” Orgoch lẩm bẩm. “Ta phải nói là chúng ta đã đối xử với nó hết sức tử tế.” Orddu nói tiếp. “Chúng ta đã cho phép nó được chọn đem theo một cây đàn hạc, một thanh gươm, hoặc là cuốn Sách về Bộ Ba. Nếu nó chọn cây đàn hạc thì nó đã có thể trở thành ca sĩ nổi tiếng nhất trên đời; chọn thanh gươm thì chú vịt con thân yêu ấy đã có thể thống trị xứ Prydain. Ấy vậy mà,” Orddu nói, “nó lại chọn cuốn Sách về Bộ Ba. Nói thật là chúng ta cũng vui như thằng bé thôi, vì cuốn sách nặng trịch, mốc meo và chẳng làm được gì hơn ngoài hút bụi. Thế là thằng bé lên đường chu du thế giới. Và đó là lần cuối cùng chúng ta còn nhìn thấy nó.” “Cũng may mà bé Dallben đáng yêu không có mặt ở đây.” Fflewddur bật cười với Taran. “Lời miêu tả của họ chẳng khớp chút nào. Tôi e là họ sẽ bị sốc đấy.” Từ nãy đến giờ, trong khi Orddu kể chuyện, Taran vẫn lặng im, tự hỏi không biết làm thế nào để có đủ can đảm nhắc đến chiếc vạc. “Dallben đã là thầy của tôi từ khi tôi có thể nhớ mọi việc.” cuối cùng cậu nói, quyết định rằng cách tốt nhất là tỏ ra thành thật - nhất là khi những mụ phù thuỷ này lại đoán được khi nào cậu nói dối. “Nếu các bà cũng yêu quý thầy ấy như tôi thì…” “Chúng ta rất yêu nó, thằng bé dễ thương ấy,” Orddu nói. “Điều đó thì con có thể chắc chắn.” “Nếu vậy thì xin các bà hãy giúp chúng tôi thực hiện những mong ước của thầy ấy và cũng là mong ước của Gwydion, ông hoàng dòng họ Don.” Taran nói tiếp. Cậu giải thích điều đã diễn ra ở hội nghị, điều họ đã khám phá được ở Hắc Môn và từ Gwystyl. Cậu nói về việc đem chiếc vạc về Caer Dallben cấp bách ra sao, và cũng hỏi xem họ có nhìn thấy Ellidyr không. Orddu lắc đầu. “Một người con trai của Pen – Llarcau à? Không, vịt con của ta, không có ai như thế ở quanh đây cả. Nếu hắn có tới khu đầm lầy thì chắc chắn chúng ta đã thấy hắn rồi.” “Từ những đầm lầy trên đỉnh đồi chúng ta có một tầm nhìn rất đẹp.” Orwen xen vào, nhiệt tình đến nỗi chuỗi hạt của mụ nảy lên kêu lách cách. “Các con phải lên đó ngắm nhìn mới được. Thật ra, các con hoàn toàn có thể tự do ở lại lâu chừng nào các con muốn.” mụ sốt sắng nói thêm. “Từ khi bé Dallben bỏ đi và lại còn kiếm được cho mình một bộ râu thì chỗ này không còn vui vẻ như trước nữa. Chúng ta sẽ không biến các con thành cóc đâu, trừ khi các con khăng khăng cố nài.” “Hãy ở lại đi.” Orgoch khàn khàn nói với một cái liếc mắt ranh mãnh. “Sứ mệnh của chúng tôi là đi tìm chiếc vạc.” Taran nhấn mạnh, cố tình bỏ qua lời nói của Orgoch. “Theo những gì Gwystyl cho chúng tôi biết thì…” “Con nói là con quạ của hắn cho các con biết mà, con cừu non của ta.” Orddu ngắt lời. “Đừng bao giờ tin lời một con quạ.” “Doli người Mỹ Tộc đã tin nó.” Taran nói. “Giờ các bà lại nói rằng các bà không có chiếc vạc sao? Tôi xin thay mặt chính thầy Dallben hỏi điều này.” “Vạc ấy ư?” Orddu đáp. “Sao, trời ạ, chúng ta có hàng tá ấy chứ! Vạc này, nồi này, ấm này… chúng ta gần như không thể biết hết được nữa.” “Tôi nói đến chiếc vạc của Annuvin kia.” Taran kiên quyết nói, “chiếc vạc của Arawn và những tên chiến binh bất tử của hắn.” “Ồ”,” Orddu nói, cất tiếng cười vui vẻ, “hẳn con định nói đến Vạc Tái Sinh.” “Tôi không biết tên của nó,” Taran nói, “nhưng đó có lẽ đúng là cái vạc chúng tôi đang tìm kiếm.” “Con có chắc là con không thích lấy những chiếc vạc khác không?” Orwen hỏi. “Chúng đẹp hơn cái vạc cũ kỹ đó nhiều. Và tiện lợi hơn nữa. Các con thì cần gì đến bọn lính Vạc Dầu cơ chứ? Chúng chỉ gây phiền toái mà thôi. Chúng ta có thể cho các con một cái ấm nấu được những loại thuốc ngủ hiệu nghiệm nhất trên đời, hoặc là một thứ bột rắc lên cây thuỷ tiên hoa vàng để làm cái màu vàng đáng ghét ấy biến đi.” “Chúng tôi chỉ quan tâm đến chiếc Vạc Tái Sinh thôi.” Taran khăng khăng nói, chắc chắn rằng đó chính là chiếc vạc của Arawn. “Các bà không muốn cho tôi biết sự thật sao? Chiếc vạc có ở đây không?” “Tất nhiên là nó ở đây rồi.” Orddu đáp. “Tại sao lại không chứ, vì nó thuộc về chúng ta cơ mà? Và vốn đã luôn thuộc về chúng ta.” “Của các bà?” Taran kêu lên, “Vậy là Arawn đã lấy cắp nó từ tay các bà sao?” “Lấy cắp ấy à?” Orddu đáp. “Không hẳn là vậy. Không, chúng ta không thể nói là nó đã bị lấy cắp được.” “Nhưng các bà không thể trao nó cho Arawn được,” Eilonwy kêu lên. “nếu biết trước hắn định dùng nó để làm gì!” “Ngay cả Arawn cũng phải được ban cho một cơ hội chứ.” Orddu bao dung nói. “Rồi một ngày, các con sẽ hiểu tại sao. Bởi vì mọi thứ đều có số phận định sẵn cho nó cả; từ những chiếc vạc to dùng xấu xí cho đến những chú vịt con tội nghiệp, và cả chúng ta cũng có số phận của mình nữa. Thêm vào đó, Arawn đã trả giá đắt để được dùng nó, rất đắt đấy, các con có thể chắc chắn về điều đó. Chi tiết của chuyện này thì, vịt con của ta, là một việc riêng tư không liên quan gì đến con cả. Nhưng dù sao, chiếc vạc cũng không thể mãi mãi thuộc về hắn được.” “Arawn đã thề sẽ sớm trả lại nó.” Orwen nói. “Nhưng khi đến thời hạn thì hắn lại không thèm giữ lời, điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên.” “Chúng ta nhẹ dạ quá.” Orgoch lẩm bẩm. “Và vì hắn không chịu trả nó lại,” Orddu nói, “nên chúng ta còn có thể làm gì khác được nữa? Chúng ta đã đi lấy lại nó.” “Ôi Belin vĩ đại!” Chàng ca sĩ kêu lớn. “Ba bà dám vào tận trong lòng Annuvin để lôi cái vạc ra sao? Các bà đã làm cách nào vậy?” Orddu mỉm cười. “Có rất nhiều cách, con chim sẻ tò mò của ta ạ. Chúng ta có thể làm cho Annuvin chìm ngập trong làn nước đen sì và đẩy cái vạc trôi ra. Chúng ta có thể đánh thuốc mê bọn lính canh. Hoặc chúng ta cũng có thể tự biến mình thành… thôi, không quan trọng, chỉ cần biết là chúng ta có thể dùng rất nhiều cách. Dù sao thì chiếc vạc cũng đã ở đây rồi. Và,” mụ phù thuỷ nói tiếp, “nó sẽ ở lại đây. Không, không.” mụ nói, đưa tay lên chặn Taran lại. “Ta có thể thấy con rất muốn có nó, nhưng điều đó là không thể được. Nó quá nguy hiểm với những chú gà nhép lang thang như các con. Trời ạ, chúng ta sẽ lo lắng đến mất ngủ mất. Không, không, thậm chí là bé Dallben cũng không được. Thật ra,” Orddu nói tiếp, “các con thà làm cóc còn an toàn hơn là dính đến cái Vạc Tái Sinh ấy.” Mụ lắc đầu. “Hay hơn nữa, chúng ta có thể biến các con thành chim và để các con bay về Caer Dallben ngay lập tức. Quả thực là không được.” mụ nói tiếp, đứng lên khỏi bàn và nắm lấy vai Taran. “Đàn vịt nhỏ, các con phải đi đi, và đừng nghĩ về chiếc vạc nữa. Hãy nói với bé Dallben thân yêu và ông hoàng Gwydion là chúng ta rất tiếc, và nếu có điều gì khác chúng ta có thể làm thì… Nhưng việc đó thì không. Ôi, trời ạ, không đâu.” Taran mở miệng toan phản đối nhưng Orddu ngắt lời cậu và nhanh chóng dẫn cậu ra cửa, trong khi hai mụ phù thuỷ kia đẩy các bạn đồng hành của cậu theo sau. “Đêm nay các con có thể ngủ lại trong nhà kho, đàn gà con bé nhỏ của ta.” Orddu nói. “Sau đó, sáng sớm mai, hay quay về với bé Dallben ngay. Và lúc đó các con sẽ quyết định xem các con có thích đi trên đôi chân không. Hay là,” mụ nói thêm, lần này thì không mỉm cười, “các con thích bay bằng đôi cánh hơn.” “Hay là,” Orgoch lẩm bẩm, “phải nhảy cóc cả quãng đường.”