Cánh cửa đóng sập lại sau lưng họ và một lần nữa nhóm bạn lại phải đứng bên ngoài ngôi nhà tranh. “Hay thật!” Eilonwy phẫn nộ kêu lên. “Sau khi nói chán chê bé Dallben thân yêu thế này, bé Dallben dễ thương thế nọ, họ lại đuổi biến chúng ta ra ngoài!” “Thà bị biến ra ngoài còn hơn bị biến vào trong, nếu cô hiểu ý tôi.” Chàng ca sĩ nói. “Một người họ Fflam luôn đối xử tốt với động vật, nhưng tôi không thể thuyết phục được mình rằng tôi thích làm một con trong số chúng!” “Không, ồ, không!” Gurgi hăng hái kêu lên. “Gurgi cũng chỉ muốn được giữ nguyên như bản thân nó hiện giờ thôi – gan dạ và can đảm!” Taran quay lại căn nhà tranh và bắt đầu đấm lên cánh cửa. “Họ phải nghe chúng ta chứ!” cậu kêu lên. “Họ thậm chí còn không thèm bỏ ra chút thời gian để suy xét mọi việc nữa.” Nhưng cánh cửa không mở, và mặc dù cậu cũng chạy cả đến bên cửa sổ và gõ lên đó thật lâu, ba mụ phù thuỷ vẫn không hề xuất hiện trở lại. “Tôi e rằng đó là câu trả lời của cậu đấy.” Fflewddut nói. “Họ đã nói hết những điều muốn nói rồi – và có khi như thế lại tốt hơn cũng nên. Và tôi có một cảm giác không lấy gì làm dễ chịu rằng những tiếng gõ đập này có thể…ờ, gọi họ là gì nhỉ, ờ… mấy bà già ấy khó chịu vì tiếng ồn cũng nên.” “Chúng ta không thể bỏ đi được.” Taran đáp. “Chiếc vạc đang nằm trong tay họ và cho dù họ có là bạn của thầy Dallben hay không thì ai mà đoán được là họ sẽ làm gì với nó. Tôi sợ và không tin họ chút nào. Các bạn đã nghe thấy cách mà cái mụ tên Orgoch nói rồi đấy. Phải, tôi tưởng tượng được rất rõ mụ ta đã có thể làm gì với thầy Dallben.” Cậu nghiêm nghị lắc đầu. “Đây chính là điều mà Gwydion đã cảnh báo trước. Bất kỳ kẻ nào có được chiếc vạc cũng có thể trở thành mối nguy hiểm chết người đối với Prydain nếu chúng muốn.” “Ít ra thì Ellidyr cũng chưa tìm thấy nó.” Eilonwy nói. “Đó là một điều đáng để vui mừng đấy chứ.” “Nếu các bạn muốn nghe lời khuyên của một người dù sao cũng là lớn tuổi nhất trong số chúng ta,” chàng ca sĩ nói, “thì tôi nghĩ tốt hơn hết chúng ta nên quay về nhà ngay, để cho Dallben và Gwydion lo liệu mọi việc. Xét cho cùng, hẳn cụ Dallben phải biết cách đối phó với ba mụ ấy.” “Không,” Taran đáp, “tôi sẽ không làm thế. Chúng ta sẽ lãng phí những ngày đi đường quý báu. Bọn Thợ Săn đã không lấy được chiếc vạc. Nhưng ai biết rồi Arawn còn định giở trò gì nữa? Không, chúng ta không thể để nó lại đây được.” “Lần này thì tôi đồng ý.” Eilonwy tuyên bố. “Chúng ta đã đi xa đến thế này rồi và phải đi tiếp đến cùng. Tôi cũng không tin mấy mụ phù thuỷ ấy chút nào. Họ sẽ lo lắng đến mất ngủ nếu nghĩ đến việc chúng ta có chiếc vạc ư? Tôi thì chắc chắn rằng mình sẽ mơ thấy ác mộng khi nghĩ đến việc họ đang giữ nó! Chưa kể đến Arawn nữa! Tôi tin rằng không có ai, người thường hay bất kỳ ai khác, lại được phép có nhiều quyền lực đến thế.” Cô rùng mình. “Eo ơi! Tôi lại thấy như có kiến bò dọc sống lưng rồi.” “Ờ, phải đúng thế.” Fflewddur mở đầu. “Nhưng sự thật vẫn vậy - họ có cái vạc chết tiệt ấy và chúng ta thì không. Họ đang ở trong đó và chúng ta thì ở ngoài này, và có vẻ mọi chuyện sẽ giữ nguyên như vậy thôi.” Taran trầm ngâm một hồi lâu. “Khi Arawn không chịu trả chiếc vạc cho họ,” cậu nói, “họ đã đi lấy lại nó. Giờ đây, vì họ không chịu đưa chiếc vạc cho chúng ta, tôi chỉ thấy một cách duy nhất mà thôi: chúng ta sẽ phải lấy trộm nó.” “Lấy trộm ư?” chàng ca sĩ kêu lên. Vẻ mặt lo lắng của anh thay đổi tức thì và mắt sáng rực lên. “Ý tôi là,” anh hạ thấp giọng thì thào, “lấy trộm nó ư? Thật là một ý nghĩ xuất chúng.” Anh hăm hở nói tiếp. “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến cả. Đúng, đúng, chỉ còn cách đó thôi.” Anh ta nói thêm, đầy phấn khích. “Thật là tài tình!” “Chỉ có một điều khó khăn thôi.” Eilonwy nói. “Chúng ta không biết họ giấu cái vạc ở chỗ nào và rõ ràng họ sẽ không cho chúng ta vào để lục tìm đâu.” Taran nhíu mày. “Tôi ước gì Doli có ở đây; nếu thế chúng ta sẽ chẳng gặp phải rắc rối gì hết. Tôi không biết - hẳn phải có cách gì đó chứ. Họ đã bảo là chúng ta có thể ở lại qua đêm,” cậu nói tiếp, “như vậy là chúng ta có thời gian từ giờ cho đến lúc bình mình. Đi nào, đừng đứng trước cửa nhà họ nữa, không thì họ sẽ biết chúng ta đang âm mưu gì đấy. Orddu đã có nhắc đến một cái nhà kho.” Nhóm bạn dắt ngựa của mình đến một phía bên sườn đồi, nơi căn nhà thấp tè đổ nát đứng xiêu vẹo trên bãi cỏ. Nó trống không, xơ xác và gió thu rít qua những kẽ hở trên vách tường đất. Chàng ca sĩ giậm chân và đập đập hai cánh tay. “Chỗ này thì hơi lạnh để nghĩ ra được kế hoạch gì.” Anh ta nhận xét. “Mấy bà phù thuỷ ấy có tầm nhìn đẹp xuống khu đầm lầy thật đấy, nhưng nó lạnh lẽo quá.” “Giá mà chúng ta có một ít rơm,” Eilonwy nói, “hoặc là bất kỳ cái gì để đắp cho ấm. Chúng ta sẽ chết cóng trước khi kịp nghĩ ra điều gì mất.” “Gurgi sẽ đi tìm rơm.” Gurgi xung phong. Nó hối hả ra khỏi nhà kho và chạy về phía chuồng gà. Taran đi đi lại lại. “Chúng ta sẽ phải đột nhập vào căn nhà ngay sau khi họ ngủ.” cậu lắc đầu và mân mê chiếc trâm cài ở cổ. “Nhưng bằng cách nào bây giờ? Chiếc trâm của Adaon không gợi cho tôi ý tưởng nào cả. Những giấc mơ về chiếc vạc lại chẳng có ý nghĩ gì đối với tôi. Giá mà tôi có thể hiểu được chúng…” “Giả sử bây giờ cậu chợp mắt một chút,” Fflewddur sốt sắng nói. “và cố ngủ thật nhanh xem sao? Ý tôi là ngủ thật say ấy. Có lẽ cậu sẽ tìm được câu trả lời.” “Tôi không dám chắc.” Taran nói. “Nó không hiện ra theo cách ấy đâu.” “Nhưng chắc chắn là nó dễ hơn khoan một cái lỗ xuyên qua ngọn đồi,” chàng ca sĩ nói, “đó là gợi ý tiếp theo của tôi.” “Chúng ta có thể bịt ống khói của họ lại và hun khói đuổi họ ra ngoài.” Eilonwy nói. “Rồi một người trong số chúng ta có thể lẻn vào trong nhà. Không, không được.” cô nói tiếp. “Sau khi nghĩ lại thì tôi sợ là nếu chúng ta bỏ cái gì xuống thì… ờ… rất có thể họ sẽ ném lên một cái gì đó khác tệ hại hơn nhiều. Vả lại, họ cũng chẳng có ống khói, nên chúng ta nên quên ý định đó đi.” Trong lúc đó Gurgi đã quay trở lại, hai tay ôm một nắm rơm to lấy từ chuồng gà, và nhóm bạn bắt đầu phủ chúng lên sàn đất một cách đầy biết ơn. Khi Gurgi lại chạy đi để lấy một ôm nữa, Taran nghi ngại nhìn đống rơm xơ xác. “Tôi đoán là mình nên thử nằm mơ xem sao.” cậu nói, vẻ không hy vọng lắm. “Tôi chắc chắn không có gợi ý nào hay hơn.” “Chúng tôi có thể dọn cho cậu một chỗ nằm tử tế.” Fflewddur nói, “Và trong khi cậu nằm mơ, chúng tôi cũng có thể cố nghĩ ra một cái gì đó. Như vậy thì tất cả chúng ta đều khả dĩ làm việc theo cách riêng của mình. Tôi không hề lấy làm bận tâm khi phải thú nhận với cậu điều này,” anh nói thêm, “ước gì tôi có chiếc trâm của Adaon. Ngủ ư? Chẳng cần phải hỏi đến lần thứ hai đâu, vì tôi đang mệt chết đi được.” Taran vẫn còn nghi ngờ, đang chuẩn bị nằm xuống đám rơm thì Gurgi lại xuất hiện, mắt mở to, run rẩy. Con vật hốt hoảng đến nỗi nó chỉ có thể thở hổn hển và đưa tay làm hiệu. Taran đứng bật dậy. “Có chuyện gì vậy?” cậu kêu lên. Gurgi ra hiệu về phía chuồng gà và cả nhóm vội vã đi theo nó. Gurgi, vẻ hết sức kích động, dẫn họ vào căn nhà bằng liếp trát bùn, rồi khiếp sợ lùi lại. Nó chỉ về một góc ở phía xa. Ở đó, giữa đám rơm, là chiếc vạc. Nó thấp bè và đen sì, cao bằng nửa một người lớn. Cái miệng xấu xí của nó há hốc, đủ to để chứa một thân người. Vành của chiếc vạc méo mó, mòn vẹt, hai bên thân nó lồi lõm và đầy vết chém; trên mép và quanh bụng nó lốm đốm những vết nâu sẫm mà Taran biết không phải là gỉ sét. Cái quai to, dài, được móc bằng một thanh ngang nặng; hai cái vòng lớn, như hai mắt xích của một sợi xích khổng lồ gắn ở hai bên. Mặc dù được làm bằng sắt, chiếc vạc trông chẳng khác nào một vật sống, dữ tợn và đầy hăm doạ bởi những điều xấu xa đã tích trữ từ bao đời. Làn gió lạnh buốt rít qua cái miệng trống hoác của nó và một tiếng thì thầm nổi lên từ đáy sâu của chiếc vạc, nghe như tiếng nói bị quên lãng của những người chết bị đoạ đày. “Đúng là chiếc Vạc Tái Sinh rồi.” Taran thì thào vẻ sợ hãi pha lẫn kinh ngạc. Cậu hoàn toàn có thể hiểu được sự khiếp hãi của Gurgi, vì chỉ cần nhìn thấy chiếc vạc thôi cũng đủ khiến cậu cảm thấy như có một bàn tay lạnh ngắt đang bóp chặt lấy tim mình. Cậu ngoảnh mặt đi, gần như không dám nhìn nó lâu hơn nữa. Mặt Fflewddur tái mét. Eilonwy đưa tay lên bịt miệng. Ở một góc, Gurgi đang run rẩy thật đáng thương. Mặc dù chính nó đã tìm thấy chiếc vạc, nó không thốt ra một tiếng kêu đắc thắng vui sướng nào. Thay vào đó, nó rúc sâu hơn vào đống rơm và cố thu mình lại thật nhỏ. “Phải, tôi đoán chính là nó.” Fflewddur đáp và nuốt khan. “Nhưng mặt khác,” anh nói thêm vẻ hy vọng, “cũng có thể không phải. Họ đã nói họ có rất nhiều vạc và nồi nằm vương vãi quanh đây. Ý tôi là, chúng ta không muốn nhầm lẫn, phải không?” “Nó đúng là chiếc vạc ấy.” Taran nói. “Tôi đã mơ thấy nó. Và ngay cả nếu không mơ thấy thì tôi vẫn có thể nhận ra nó, vì tôi cảm nhận được cái ác trong nó.” “Tôi cũng vậy.” Eilonwy khẽ nói. “Nó chứa đầy chết chóc và đau khổ. Tôi đã hiểu tại sao Gwydion lại muốn phá huỷ nó.” Cô quay sang Taran. “Anh đã đúng khi đi tìm nó ngay mà không trì hoãn gì cả.” Eilonwy nói thêm với một cái rùng mình. “Tôi xin rút lại tất cả những gì tôi đã nói. Chiếc vạc phải bị huỷ diệt càng sớm càng tốt.” “Thôi được,” Fflewddur thở dài, “tôi e rằng đây chính là chiếc Vạc Tái Sinh rồi. Tại sao nó lại không thể là một cái vạc nhỏ xinh xinh thay vì cái thứ to đùng xấu xí này nhỉ? Tuy nhiên,” anh ta hít một hơi dài nói tiếp, “hãy lấy nó đi! Một người họ Fflam không bao giờ chần chừ cả!” “Không!” Taran kêu lên, đưa một tay ra chăn chàng ca sĩ lại. “Chúng ta không thể lấy nó giữa thanh thiên bạch nhật được; và chúng ta cũng không thể ở lại đây, nếu không họ sẽ biết chúng ta đã tìm ra nó. Chúng ta sẽ quay lại khi trời tối và dẫn theo ngựa để kéo nó đi. Trong lúc này thì tốt hơn hết, chúng ta nên quay lại nhà kho và làm như không có chuyện gì xảy ra cả.” Nhóm bạn nhanh chóng quay trở lại nhà kho. Khi đã rời chỗ chiếc vạc, Gurgi liền lấy lại được chút khí thế của mình. “Gurgi tinh khôn đã tìm thấy nó!” Nó reo lên. “Ồ, phải! Nó luôn tìm thấy những thứ bị mất! Nó đã tìm thấy cô lợn, và giờ nó lại tìm thấy chiếc vạc to lớn đã gây ra những việc độc ác và nấu ra những liều thuốc xấu xa! Cậu chủ nhân từ sẽ ban thưởng cho Gurgi hèn mọn. Tuy thế, nó vẫn nhăn nhúm lại vì sợ hãi.” Taran vỗ lên vai Gurgi để an ủi nó. “Đúng thế anh bạn ạ,” cậu đáp, “mi đã giúp chúng ta hơn một lần rồi. Nhưng tôi không thể tưởng tượng được họ lại giấu chiếc vạc trong một cái chuồng gà bỏ không, dưới một đống rơm bẩn.” Cậu lắc đầu. “Tôi đã nghĩ họ muốn canh gác nó cẩn thận hơn kia đấy.” “Không phải vậy đâu.” Chàng ca sĩ nói. “Họ tinh khôn lắm. Họ giấu nó ở một nơi ai cũng có thể tìm đến đầu tiên, vì nghĩ rằng như thế có vẻ dễ dàng đến nỗi sẽ không ai nghĩ tới chuyện đi tìm ở đó cả.” “Có lẽ vậy.” Taran đáp. Cậu nhíu mày. “Hay cũng có thể là…” cậu nói thêm, không nén nổi nỗi sợ bỗng dâng lên trong lòng, “họ cố tình để cho chúng ta tìm thấy nó.” Quay về nhà kho, nhóm bạn cố ngủ, vì biết rằng đêm nay sẽ phải làm việc rất cực nhọc và nguy hiểm. Fflewddur và Gurgi chợp mắt một lúc; Eilonwy quấn mình vào áo choàng với một ít rơm đắp quanh người. Taran thì quá bồn chồn và lo lắng, thậm chí không nhắm mắt nổi nữa. Cậu ngồi yên lặng, trong tay là cuộn thừng dài cậu đã lấy từ đám đồ dùng ít ỏi còn sót lại của cả nhóm. Họ đã quyết định sẽ treo chiếc vạc vào giữa hai con ngựa và đi từ khu đầm lầy đến một chỗ ẩn nấp an toàn trong rừng, ở đó, họ sẽ phá huỷ nó. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ có người ở trong căn nhà tranh. Tuy nhiên, khi đêm xuống, một ngọn nến loé sáng trên ô cửa sổ. Taran khẽ đứng dậy và rón rén ra khỏi nhà kho. Lần theo bóng tối, cậu đi đến căn nhà thấp và nhìn vào. Trong một lúc, cậu đứng đờ ra, kinh ngạc, không thể cử động nổi. Rồi cậu quay phắt lại và chạy thật nhanh về chỗ những người khác. “Tôi đã nhìn thấy họ trong đó!” Cậu thì thầm, đánh thức chàng ca sĩ và Gurgi dậy. “Trông họ không còn giống như trước nữa!” “Cái gì?” Eilonwy kêu lên. “Anh có chắc là anh đã không đi nhầm đến một căn nhà nào khác không đấy?” “Tất nhiên là không rồi.” Taran vặt lại. “Và nếu không tin thì các bạn tự đi mà xem. Họ không còn như cũ nữa. Đúng là vẫn có ba người, nhưng họ khác lắm. Một người đan chải len, một người đang xe sợi, người thứ ba đang dệt vải.” “Tôi đoán,” chàng ca sĩ nói, “đó là cách họ tiêu thời giờ. Ở giữa đầm lầy buồn chán này thì chẳng có mấy việc để làm.” “Tôi phải tự đi xem mới được.” Eilonwy tuyên bố. “Dệt vải thì chẳng có gì lạ, nhưng ngoài việc đó ra thì tôi không thể hiểu nổi những lời anh nói.” Với Taran dẫn đầu, nhóm bạn thận trọng rón rén bò đến ô cửa sổ. Đúng như cậu đã nói. Trong căn nhà tranh, ba người đang bận rộn làm việc, nhưng không một ai trong số họ giống với Orddu, Orwen hay Orgoch cả. “Họ đẹp quá!” Eilonwy thì thầm. “Tôi đã nhge chuyện các mụ phù thuỷ giả dạng những cô gái xinh đẹp,” chàng ca sĩ lẩm bẩm, “nhưng tôi chưa bao giờ nghe những cô gái xinh đẹp lại muốn giả dạng làm các mụ phù thuỷ xấu xí cả. Nó không tự nhiên chút nào, và tôi phải thú nhận là nó khiến tôi nổi da gà. Tôi nghĩ chúng ta nên lấy chiếc vạc và chuồn khỏi đây ngay.” “Tôi không biết họ là ai,” Taran nói, “nhưng tôi e là họ có quyền lực mạnh hơn chúng ta tưởng. Bằng cách nào đó chúng ta đã gặp phải một vấn đề… tôi không biết đó là vấn đề gì nữa, nhưng nó khiến tôi lo lắng. Đúng, chúng ta nên lấy chiếc vạc càng sớm càng tốt, nhưng chúng ta phải đợi đến khi họ ngủ cái đã.” “Nếu họ có đi ngủ.” chàng ca sĩ nói. “Bây giờ sau khi thấy tất cả những điều này thì chẳng có gì còn làm tôi ngạc nhiên được nữa, ngay cả nếu họ có treo ngược lên như lũ dơi.” Trong một lúc lâu, Taran sợ rằng chàng ca sĩ nói đúng và ba bà phù thuỷ sẽ không ngủ nghê gì hết. Nhóm bạn thay phiên nhau canh chừng căn nhà, và phải đến lúc gần sáng thì cây nên mới được tắt đi. Một cách hết sức khổ sở, Taran vẫn chần chừ đợi tiếp một lát nữa. Chẳng mấy chốc, một tiếng ngáy to từ trong nhà vang ra. “Hẳn họ đã biến hình lại như cũ rồi.” chàng ca sĩ nhận xét. “Tôi không tưởng tượng nổi các cô gái xinh đẹp lại ngáy như thế. Không, đó là Orgoch đấy. Tôi có thể nhận ra âm thanh đó ở bất kì đâu.” Trong bóng tối tĩnh mịch vẫn còn vương lại của buổi bình minh, nhóm bạn vội chạy tới chuồng gà, ở đó Eilonwy đánh liều thắp sáng quả cầu của mình lên. Chiếc vạc ngồi chồm hỗm ở góc của nó, đen sì và dữ tợn. “Nhanh lên.” Taran ra lệnh, nắm lấy cái quai. “Fflewddur và Eilonwy, nhấc hai cái vòng ấy; còn Gurgi, nhấc phía bên kia lên. Chúng ta sẽ lôi nó ra và buộc nó giữa hai con ngựa. Sẵn sàng chưa? Tất cả cùng nhấc nào.” Nhóm bạn cố sức đẩy một cú thật mạnh, rồi suýt nữa ngã nhào ra đất. Chiếc vạc không hề xê dịch. ”Nó nặng hơn tôi tưởng.” Taran nói. “Thử lại nào.” Cậu định chuyển chỗ nắm trên quai. Nhưng tay cậu không rứt ra được. Sợ điếng người, cậu cố kéo tay ra. Chỉ vô ích. “Này,” chàng ca sĩ lẩm bẩm, “hình như tay tôi bị dính cái gì thì phải.” “Tôi cũng thế!” Eilonwy thét lên, cố sức kéo tay mình ra. “Và Gurgi cũng bị dính vào rồi!” Gurgi khiếp sợ rú lên. “Ôi, đau quá! Nó không thể cử động được!” Một cách tuyệt vọng, nhóm bạn đẩy tới đẩy lui, vật lộn với kẻ địch bằng sắt câm lặng. Taran vặn và giật mạnh tay cho đến khi phát khóc vì kiệt sức. Eilonwy cũng đã mệt phờ gục xuống, tay vẫn dính vào cái vòng sắt nặng trịch. Taran lại cố giật ra một lần nữa. Chiếc vạc vẫn giữ chặt cậu. Một bóng người mặc áo choàng đen hiện ra ở khung cửa. “Orddu đấy!” chàng ca sĩ kêu lên. “Lần này thì chúng ta chắc chắn bị biến thành cóc rồi!”