= Đoái trên EE Khôn dướiGIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Quẻ Tuy, Tự quái nói rằng: Cấu là gặp, các vật gặp nhau rồi sau mới họp, cho nên tiếp đến quẻ Tuy. Tuy là họp, các vật gặp gỡ với nhau thì phải thành đàn, vì vậy quẻ tuy mới nôl quẻ Cấu. Nó là quẻ Đoái trên Khôn dưới, chầm lên trên đất, tức là nước tụ, cho nên là họp. Không nói “chầm ở trên đất” mà nói “chầm lên trên đất” là vì nó “lên trên đất” thì là nghĩa tụ họp.LỜI KINH萃亨, 王假有廟.Dịch âm. - Tuy hanh, vương cách(1) hữu miếu.Dịch nghĩa. - Quẻ Tuy hanh, vua đền có miếu.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Ông vua có đạo tụ họp thiên hạ đến chưng có miếu là tột bậc rồi(2).Các loài là thứ rất nhiều, mà có thể thông nhất sự quy ngưỡng của chúng, lòng người là thứ không biết đâu là nơi chôn, mà có thể làm cho họ phải thành kính; quỷ thần là đấng không thể lường biết, mà có làm cho các ngài lại đến; cái đạo tụ họp lòng người, tóm thu chí dân, không phải chỉ có một đường, nhưng trong đó, không gì lớn bằng tôn miếu, cho nên đạo họp thiên hạ của kẻ làm vua, đến chưng có miếu thì là tột bậc của sự họp. Việc báo đáp trong cuộc tế tự vổn ở lòng người mà ra, đấng thánh nhân đặt ra lễ nghi để làm cho nên đức ấy, cho nên con chồn, con gái, cũng đều biết tế, tính nó như vậy. Quẻ tuy có chữ 亨(hanh), tức là lời khen ngợi, chữ 亨(hanh) phải ăn xuống dưới, khác với quẻ Hoán, quẻ Hoán trước nói tài quẻ, quẻ Tuy trước nói nghĩa quẻ, ý đó coi ở lời Thoán rất rõ.LỜI KINH利見大人, 亨, 利貞.Dịch âm. - Lợi kiến đại nhân, hanh, lợi trinh.Dịch nghĩa. - Lợi thấy bậc người lớn, hanh, lợi về chính bền.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Thiên hạ họp lại phải được bậc người lớn trị cho. Người họp thì loạn, vật họp thì tranh nhau, các việc họp lại thì lộn xộn, không có bậc người lớn trị cho, thì sự họp tức là cái đưa đến sự tranh loạn. Họp lại bằng cách bất chính, thì người họp là cẩu hợp(1), của họp là hội nhập(2), không thể được hanh, cho nên lợi về chính bền.LỜI KINH用大牲, 吉, 利有攸往.Dịch âm. - Dụng đại sinh cát, lợi hữu du vãng.Dịch nghĩa. - Dùng con sinh, lớn, tốt, lợi có thửa đi.Truyện của Trình Di. - Quẻ Tuy là thì phong hậu, sự dùng nên cho xứng đáng, cho nên dùng con sinh lớn thì tốt. Việc không gì trọng bằng việc tế, cho nên lấy việc cúng tế mà nói: Trên thì giao với quỷ thần, dưới thì tiếp với nhân vật, trăm thứ dùng đều vậy. Nhưng đương thì họp mà giao với người bằng cách hậu hỹ, thì là được hưởng cái tốt của sự phong phú, thiên hạ không ai không chung cuộc giàu vui của mình. Nếu gặp thì phong hậu mà mình giao thiệp với người bằng cách bôi bác, thì là tự mình không muốn hưởng sự giàu đẹp, thiên hạ chẳng ai chung chạ với mình, mà sự hối tiếc sẽ sinh ra. Đó là theo sự thích nghi của từng thì, thuận lẽ mà làm, cho nên lời Thoán nói là thuận mệnh trời. Ôi, không thể có làm là vì sức không đủ làm, gặp thì họp, cho nên lợi có thửa đi. Đại phàm dấy công dựng việc, quý ở được thì đáng làm, mà sau nhúng tay vào đâu sẽ được dư dụ ở đấy, lẽ trời thế vậy.Bản nghĩa của Chu Hy. - Tuy nghĩa là hợp, Khôn thuận mà Đoái đẹp lòng, hào Chín Năm cứng giữa mà hào Hai ứng nhau với nó, lại là cái tượng chầm lên trên đất, muôn vật tụ họp, cho nên là Tuy. Chữ 亨(hanh) là chữ thừa. “Vua đến có miếu” nghĩa là kẻ làm vua có thể đến trong tôn miếu, tức là lời chiêm tốt lành về việc bói tế vậy. Thiên Tế nghĩa (ở kinh Lễ) nói “Ông đến chưng nhà thái miếu” cũng là nghĩa thế. Miếu là chỗ để họp tinh thần của ông cha, lại, người ta ắt phải họp tinh thần của mình thì mới có thể đến miếu mà vâng ông cha. Người đã họp lại, thì ắt thấy bậc người lờn mà sau có thể được hanh, nhưng lại ắt phải lợi về chính đạo mới được, họp nhau không bằng chính đạo thì không thể hanh. Con sinh lớn ắt phải dùng đến rồi sau mới có sự họp, thì có thể có thửa đi. Đều là lời chiêm tốt lành mà phải có sự răn sợ.LỜI KINH彖曰: 萃聚也, 順以說, 剛中而應, 故聚.Dịch âm. - Thoán viết: Tuy tụ dã, thuận dĩ tuyệt, cương trung nhi ứng, cố tụ.Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tuy là họp vậy; thuận và đẹp lòng, cứng giữa mà có ứng, cho nên họp.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Nghĩa của chữ Tuy là họp. Thuận và đẹp lòng, là lấy tài quẻ mà nói. Trên đẹp lòng mà dưới thuận, là nghĩa người trên dùng cách đẹp lòng sai dân mà thuận với lòng người, kẻ dưới đẹp lòng về chính lệnh của người trên mà thuận theo với người trên. Đã trên dưới thuận và đẹp lòng, lại Dương cứng ở ngôi trung chính mà dưới có ứng giúp như thế, cho nên thể họp được.Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ, thể quẻ thích nghĩa tên quẻ.LỜI KINH王假有廟, 致孝享也.Dịch âm. - Vương cách hữu miếu, trí hiếu hưởng dã.Dịch nghĩa. -Vua đến có miếu, đem hết sự hiếu hưởng vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Đạo kẻ làm vua họp lòng người, đến chưng xây dựng tôn miếu, là để làm hết lòng thành về sự hiếu hưởng của mình vào đó. Tế tự là việc người ta tự phải hết lòng, cho nên họp lòng thiên hạ, không gì bằng việc hiếu hưởng. Đạo kẻ làm vua họp thiên hạ đến chưng có miếu, thì là tột bậc vậy.利見大人, 亨, 聚以正也.Dịch âm. - Lợi kiến đại nhân, hanh, tụ dĩ chính dã.Dịch nghĩa. - Lợi thấy người lớn, hanh, họp bằng chính đạo vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Thì “họp”, thấy bậc người lớn thì có thể hanh, là vì họp bằng chính đạo vậy. Thấy bậc người lớn, thì sự họp của mình sẽ dùng chính đạo, hễ được chính đạo thì hanh, chẳng dùng chính đạo thì hanh sao được?LỜI KINH用大牲吉, 利有攸往, 順天命也Dịch âm. - Dụng đại sinh cát, lợi hữu du vãng, thuận thiển mệnh dã.Dịch nghĩa. - Dùng con sinh lởn, tốt, lợi có thửa đi, thuận mệnh trời vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - “Dùng con sinh lớn” là nói theo chữ “có miếu” ở trên, lấy việc cúng tế mà nói, các việc đều thế, trong thì giàu họp giao tiếp với người nên hậu, mới xứng với sự thích nghi. Người ta họp lại mà sức đủ, mới có thể làm việc, cho nên lợi có thửa đi; đều là lẽ trời như thế, cho nên nói rằng “thuận mệnh trời”.Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ.觀其所聚而天地萬物之情可見矣.Dịch âm. - Quan kỳ sở tụ nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.Dịch nghĩa. - Xem cái thửa họp, mà tình trời đất muôn vật khá thấy vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Xem lẽ sự “họp”, có thể thấy được tình của trời đất muôn vật. Trời đất hoá nuôi, muôn vật sinh nên, phàm những cái “có” đều là họp cả. Cái lẽ có không, động tĩnh, trước sau, chỉ là họp và tan mà thôi. Cho nên xem cái sở dĩ họp lại, thì tình trời đất muôn vật có thể thấy được.Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực cái lẽ của nó mà khen ngợi thêm.LỜI KINH象曰: 澤上於地, 萃, 君子以除戎器氣,戒不虞.Dịch âm. - Tượng viết: Trạch thượng ư địa, Tuy, quân tử dĩ trừ nhung khí, giới bất ngu.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chầm lên chưng đất, là quẻ Tuy, đấng quân tử coi đó mà trừ đồ quân, răn sự chẳng lường.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Chầm lên chưng đất, là tượng tụ họp, đấng quân tử xem tượng “họp” đó mà trừ, sửa đồ binh, đến răn ngừa việc chẳng lường. Phàm vật họp lại, thì phải có việc không thể lường đoán, cho nên loài người họp lại thì tranh nhau, loài vật họp lại thì cướp nhau, đại để chỉ vì đã họp thì nhiều, cho nên xem tượng quẻ Tuy mà răn sợ sẵn. Trừ là kén chọn sửa trị, tức là bỏ cái nát xấu. Trừ mà họp, là để răn ngừa việc chẳng lường.Bản nghĩa của Chu Hy. -” Trừ” là sửa sang mà họp nó lại.LỜI KINH初九: 有孚, 不終, 乃亂, 乃萃, 若號, 一握爲笑, 勿恤, 往无咎Dịch âm. - Sơ Cửu: Hữu phu, bất chung, nãi loạn, nãi tuy, nhược hào, nhất ác vi tiếu, vật tuất, vãng vô cữu.Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Có tin, không chót, bèn loạn, bèn họp, bằng kêu, một nắm làm cười, chớ lo, đi không lỗi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Đầu với hào Tư là chính ứng, vốn có sự tin để theo sau. Nhưng trong thì họp, ba hào Âm tụ lại, chất mềm không có cái tiết tự giữ chính đạo, nếu bỏ chính ứng mà theo đồng loại của mình, thì là có tin mà không chót. Bèn loạn, nghĩa là loạn rối lòng mình; bèn họp, nghĩa là cùng đồng loại mình tụ họp. Hào Đầu nếu tự giữ chính đạo, không theo các hào Âm mà kêu gọi chính ứng, thì một nắm cười nó. “Một nắm” tiếng tục tức là một đoàn, ý nói mọi người lấy làm cười vậy. Nếu nó không lo đến sự cười đó mà cứ đi theo chính ứng Dương cương, thì là không có tội lỗi. Không thế thì sẽ vào đàn tiểu nhân.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Đầu phía trên ứng nhau với hào Chín Tư, mà bị cách hai hào Âm, đương thì họp, nó không tự giữ mình được, ấy là có tin mà không chót, chí loạn mà họp càn. Nếu nó kêu gọi kẻ chính ứng, thì chúng lấy làm cười. Nhưng chớ đoái lo, mà cứ đi theo kẻ chính ứng thì không có lỗi. Răn kẻ nên như thế vậy.683象曰: 乃亂, 乃萃, 其志亂也.Dịch âm. - Tượng viết: Nãi loạn, nẫi tuy, kỳ chí loạn dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Bèn loạn, bèn họp, thửa chí loạn vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Tâm chí nó bị kẻ đồng loại làm cho mê loạn, cho nên nó bèn họp với các hào Âm. Không thể cầm chắc sự thao thủ của mình, thì bị kẻ tiểu nhân làm cho mê loạn, mà mất chính đạo vậy.LỜI KINH六二: 引吉, 无咎, 孚乃利, 用鑰.Dịch âm. - Lục Nhị: Dẫn cát, vô cữu, phu nãi lợi, dụng Thược.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Dẫn tốt, không lỗi, tin bèn lợi, dùng tế Thược.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Đầu Âm mềm, lại không trung chính, sợ nó không thể giữ chót sự tin, cho nên mới nhân tài nó mà làm lời răn. Hào Hai tuy là Âm mềm mà được trung chính, cho nên, tuy cũng răn, nhưng lời nhẹ nhàng. Phàm những lời hào khơi ra hai mối được và hỏng, để làm phép và để làm răn, đều là theo tài của nó mà đặt ra vậy. Dẫn tốt không lỗi là gì? Dẫn tức kéo nhau, người ta tìm nhau thì hợp, giữ nhau thì lìa, hào Hai với hào Năm là chính ứng, nên phải họp nhau, mà nó xa nhau, lại ở giữa các hào Âm, ắt phải dẫn kéo lẫn nhau thì mới được họp. Hào Năm ở ngôi tôn, có đức trung chính, hào Hai cũng lấy đạo trung chính đi họp với nó, ấy là vua tôi hoà hợp, cái mà chúng nó cùng nhau đem lại há có thể lường? Thế cho nên tốt mà không lỗi. Không lỗi nghĩa là khéo chữa lỗi đó. Nếu hào Hai với hào Năm không kéo dẫn nhau, thì là lỗi rồi. Tin bèn lợi, dùng tế Thược là gì? Tin là đức tín ở trong, tức là lòng thành, Thược là thứ tế giản dị đơn sơ, tế bằng những món xuềnh xoàng, tức là không cần đủ đồ, chỉ dùng lòng thành giao tiếp với đấng thần minh. “Tin bèn” nghĩa là có lòng tin thì có thể không cần văn sức, chuyên lấy lòng chí thành giao tiếp với người trên. Lấy việc tế Thược mà nói, ý bảo chỉ dâng lòng thành mà thôi. Kẻ trên, người dưới họp nhau, mà còn chuộng sự trang sức bề ngoài, đó là nghĩa chữ, “dùng tế Thược”. Phu tín là gốc sự hợp, chẳng những vua tôi họp nhau, hết thảy sự họp ở gầm trời, chỉ ở lòng thành mà thôi.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Hai ứng với hào Năm mà ở lẫn trong các hào Âm, ắt phải kéo dẫn nhau mà họp, mới tốt mà không lỗi. Lại, hào Hai trung chính mềm thuận, trông rỗng trong lòng để ứng nhau với bề trên, hào Chín Năm cứng mạnh trung chính, thành thực mà giao nhau với kẻ dưới, cho nên kẻ dâng tế hễ có lòng thành tín, thì tuy lễ vật đơn sơ cũng có thể tế.Lời bàn của tiên nho. - Chu Hy nói rằng: Câu “Tin bèn lợi, dùng tế Thược” giải như Y Xuyên vẫn hay, nhưng, nếu như thế, thì ra thánh nhân chỉ nói cái bóng, e rằng nó không phải vậy mà chỉ là nói việc tế. Quẻ thăng cũng thế.Chu Hán Thượng nói rằng: Thược là tế về mùa hè, lấy âm nhạc làm chủ, tức là cuộc tế sơ sài vậy.Hồ Song Hồ nói rằng: Sách Chu lễ có câu: “Quan Đại tôn bá dùng tế Thược mùa hè cúng đấng tiên vương”, họ Vương chua rằng: “Mùa hè thì khí Dương thịnh, việc cúng lấy nhạc làm chủ; mùa thu tế Thường thì cúng gạo mới; mùa đông tế Chưng thì đủ các món”.LỜI KINH象曰: 引吉, 无咎, 中未變也.Dịch âm. Tượng viết: Dẫn cát, vô cữu, trung vị biến dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dẫn tốt, không lỗi, giữa chưa đổi vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Trong thì họp, lấy sự được họp làm tốt, cho nên hào Chín Tư là được trên dưới sum họp; hào Hai với hào Năm tuy là chính ứng, nhưng ở khác chỗ và có ngăn cách, ấy là đương thì họp mà chưa được họp, cho nên có thể dẫn nhau mà họp thì tốt mà không lỗi, vì nó có đức giữa chính mà chưa vội thay đổi, nếu thay đổi thì nó không cần nhau nữa.LỜI KINH六三: 萃如, 嗟如, 无攸利, 往无咎, 小吝Dịch âm. - Lục Tam: Tuy như, ta như, vô du lợi, vãng vồ cữu, tiểu lận.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Dường họp vậy, dường than vậy, không thửa lợi, đi không nổi, hơi tiếc.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Ba là người Âm mềm không trung chính, cầu họp với người, mà người không hợp với, cầu đến hào Tư, thì hào ấy không phải chính ứng của nó, lại không phải đồng loại với nó, ấy là vì nó bất chính mà bị hào Tư ruồng bỏ; cầu đến hào Hai thì hào này tự lấy đức trung chính mà ứng với hào Năm, ấy là nó vì bất chính mà hào Hai không đi cùng; cho nên muốn họp thì bị người ta dứt bỏ mà than, tức là không được sum họp mà than giận vậy. Trên dưới đều không cùng với, thế là không cái gì lợi. Chỉ có đi lên mà hào Sáu Trên thì sẽ được họp mà khônglỗi. Hào Ba với hào Trên tuy không phải là Âm Dương chính ứng, nhưng trong thì họp, lấy loại theo nhau, cả hai đều lấy chất mềm ở trên hai thể, lại đều không có kẻ nào cùng ở vào chỗ ứng nhau với nó, hào Trên lại ở vào cùng tột của sự thuận và đẹp lòng, cho nên được sum họp mà không có lỗi. Đạo Dịch biến động không thường, cốt ở người ta suy biết mà thôi - Thế mà hơi tiếc là sao? Là vì hào Ba lúc đầu cầu họp với hào Tư và hào Hai, không được, rồi mới đi lên theo hào Sáu Trên, người mà hành động như thế, tuy là được cái mình cầu, mong cũng hơi đáng thẹn tiếc.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Ba là kẻ Âm mềm không giữ không chính, phía trên lại không có kẻ ứng với, cầu họp ở chỗ gần mình không được, cho nên phải than, mà không thửa lợi, chỉ có đi lên mà theo hào Trên thì có thể không lỗi. Nhưng vì nó không được họp, bị khốn rồi sau mới đi, lại gặp cái hào Âm cực không ngôi, cũng hơi đáng thẹn. Đây răn kẻ xem nếu bỏ những kẻ cương viện(76) bất chính ở gần, mà giao kết với kẻ cùng giao(77) chính ứng ở xa, thì không có lỗi.LỜI KINH象曰: 往无咎, 上巽也.Dịch âm. - Tượng viết: Vãng vô cữu, thượng tốn dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đi không lỗi, trên nhún vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Trên ở chỗ cùng tột của sự mềm và đẹp lòng, hào Ba đi mà không lỗi, là vì hào Trên nhún thuận mà nhận nó vậy.LỜI KINH九四: 大吉, 无咎.Dịch âm. - Cửu Tứ: Đại cát, vô cữu.Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Cả tốt, không lỗi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Tư đương thì họp, phía trên được họp với hào Chín Năm, ấy là được vua tôi họp nhau, phía dưới liền với các hào Âm ở thể dưới, ấy là được hạ dân họp với. Được cả trên dưới sum họp với mình, đáng cho là hay. Nhưng vì hào Tư chất Dương ở ngôi Âm, không phải chính đính, ắt được cả tốt, rồi sau mới không có lỗi. Chữ “cả” là nghĩa quanh khắp, không đâu không khắp thì mới là cả, không cái gì không chính thì mới là cả tốt; cả tốt thì không lỗi vậy.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này trên liền với hào Chín Năm, dưới liền với các hào Âm, tức là được sum họp rồi. Nhưng nó lấy chất Dương ở ngôi Âm, ấy là bất chính, cho nên mới răn kẻ xem ắt được cả tốt mới không lỗi.LỜI KINH象曰: 大吉, 无咎, 位不當也。Dịch âm. - Tượng viết: Đại cát, vô cữu, vị bất đáng dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cả tốt không lỗi, ngôi chẳng đáng vậy.GIẢI NGHĨAnó không đáng, ngờ điều rằng: “ắt được cả tốt, rồiTruyện của Trình Di. - Vì là ngôi nó làm chưa chắc phải cả, cho nên răn sau mới là không lỗi”.LỜI KINH九五: 萃有位, 无咎, 匪孚, 元永貞悔亡。Dịch âm. - Cửu Ngũ: Tuy hữu vị, vô cữu, phỉ phu, nguyên vĩnh trinh hối vong.Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Họp có ngôi, không lỗi, chẳng tin, cả, dài, chính, ăn năn mất.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Chín Năm ở chỗ tôn của thiên hạ, họp dân chúng trong thiên hạ, mà làm vua họ, cai trị họ, thì nên đính chính ngôi mình, sửa sang đức mình; lấy chất Dương cứng ở ngôi tôn, đó là xứng ngôi, đó là có ngôi, đó là được đạo trung chính mà không sai lỗi. Như thế mà còn có kẻ chưa tin, chưa về với mình, thì nên trở lại thân mình, để sửa cái đức “cả, dài, chính” của mình, thì rồi không đâu không phục mà ăn năn phải mất. “Cả, dài, chính” là đức của vua, cái mà dân vẫn theo về. Cho nên cái dạo liên với thiên hạ và đạo họp với thiên hạ đều ở trong ba điều đó. Kẻ làm vua đã có ngôi, lại có đức trung chính không lỗi, mà thiên hạ còn có kẻ chưa chịu tin phục theo về, thì là bởi đạo của mình chưa được sáng lớn, tức là đạo “cả, dài, chính” chưa cùng tột vậy, cốt ở sửa đức làm cho họ lại, như là “dân Miêu trái mệnh, vua Thuấn bèn cả ra đức văn”. Đức vua Thuấn không phải là không tột bậc, vì có xa, gần, tối sáng khác nhau, cho nên thiên hạ theo về với ngài, cũng có kẻ trước kẻ sau. Đã còn có kẻ chưa về với mình, thì nên sửa đức của mình, thế gọi là “cả, dài, chính”. Cả tức là đầu, là trưởng, là đức vua đứng đầu mọi vật, là trùm mọi loài, có nghĩa cao lớn, có nghĩa thâu tóm, mà lại thường lâu, chính bền, thì có thể thông với thần minh, sáng khắp bốn bể, không đâu không phục, thế là không còn kẻ nào chẳng tin mà sự ăn năn mất hết. Gọi là ăn năn, chỉ là chí chưa được tỏ, lòng chưa được sướng mà thôi.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Năm Dương cứng trung chính, đương thì họp mà ở ngôi tôn, vẫn không lỗi rồi. Nếu còn có kẻ chưa tin, thì cũng tự sửa đức “cả, dài, chính” của mình mà sự ăn năn sẽ mất. Răn kẻ xem nên như thế đó.象曰: 萃有位, 志位光也.Dịch âm. - Tượng viết: Tuy hữu vị, chí vị quang dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Họp có ngôi, chí chưa tỏ vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Lời Tượng nhắc lại câu trên của lời hào. Chí kẻ làm vua ắt muốn thành tín tỏ với thiên hạ, có cảm ắt thông, những loại có sống thảy đều mến về. Nếu còn có kẻ chưa tin, ấy là chí mình chưa được sáng lớn vậy.Bản nghĩa của Chu Hy. - Chưa tỏ chỉ về những kẻ chẳng tin.LỜI KINH上六: 齎咨, 涕演, 无咎,Dịch âm. - Thượng Lục: Tê tư, thế di, vô cữu.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Than thở, nước mắt nước mũi, không lỗi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Sáu làm chủ sự đẹp lòng, tức là kẻ tiểu nhân thích được ngôi cao mà ở, thiên hạ ai chịu đi cùng với nó? Cầu họp, mà người ta không thèm họp với, cùng quá đến nỗi than thở và chảy nước mắt nước mũi. Người ta tuyệt mình là do mình tự gây ra thì còn trách ai? Bị người ghét dứt, không biết làm thế nào, thì tủi chán mà đến than khóc, thật là tình trạng kẻ tiểu nhân.Bản nghĩa của Chu Hy. - Ở chót thì họp, Âm mềm khôngngôi, cầu họp không được, cho nên răn kẻ xem ắt phải như thế mới có thể không lỗi.LỜI KINH象曰: 齎咨, 涕演, 未安上也。Dịch âm. - Tượng viết: Tế tư, thế di, vị an thượng dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Than thở, nước mắt nước mũi, chưa yên ngôi trên vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Tiểu nhân cư xử thường trái với lẽ đáng nên, đã tham lam mà theo lòng ham muốn, không biết tự chọn nơi yên ổn, đến khi khốn cùng thì lại sấp ngửa lật đật, không biết làm ra thế nào. Hào Sáu phải chảy nước mắt nước mũi, tức là ở trên không yên. Đấng quân tử cẩn thận chỗ ở, hễ không phải nghĩa thì không chịu ở, chẳng may mà bị sự nguy khôn, thì cũng thản nhiên yên lặng, không lấy sự đó làm bợn lòng mình. Kẻ tiểu nhân ở không chọn nơi, thường xéo vào chỗ mình không đáng ở, tới khi cùng gặp, thì lại tủi chán bối rối, thậm chí chảy cả nước mắt nước mũi, thật là đáng thẹn. “Chưa” là lời “chẳng vội” cũng như người ta vẫn nói “chưa tiện”, tức là “chưa tiện ở yên ngôi trên”. Hào Âm ở ngôi trên, trơ trọi không ai cùng với, lại không phải chỗ mình đang ở, há được yên sao?QUẺ THĂNGEE Khôn trên = Tốn dướiGIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Quẻ Thăng, Tự quái nói rằng: Tuy là họp, họp mà cao lên gọi là lên, cho nên tiếp đến quẻ Thăng(78). Các vật tích tụ mà càng cao lớn, ấy là họp mà cao lên, vì vậy quẻ Thăng mới nôi quẻ Tuy. Nó là quẻ Khôn trên Tôn dưới, cây ở dưới đất, tức là trong đất mọc dậy. Cây mọc trong đất, lớn thì càng cao, đó là tượng “lên”.LỜI KINH升元亨, 用見大人, 勿恤, 南正吉.Dịch âm. - Thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát.Dịch nghĩa. - Quẻ Thăng, cả hanh, dùng thấy người lớn, chớ lo, đi về phương Nam tốt.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Thăng là tiến mà lên, tiến lên thì có nghĩa hanh, mà vì tài quẻ hay khéo, cho nên cả hanh. Dùng cách đó để thấy người lớn, không cần lo lắng, tiến lên phía trước thì tốt. Đi về phương Nam tức là tiến lên phía trước vậy.Bản nghĩa của Chu Hy. - Thăng tức là tiến mà lên. Quẻ này vốn tự quẻ Giải lại, chất mềm lên ở ngôi Tư, trong nhún ngoài thuận, hào Chín Hai cứng giữa mà hào Năm ứng nhau với nó, cho nên lời chiêm của nó như thế. Đi về phương Nam, tức là tiến lên彖曰: 柔以時升, 巽而順, 剛中而應, 是以大行.Dịch âm. - Thoán viết: Nhu dĩ thì thăng, tốn nhi thuận, cương trung nhi ứng, thị dĩ đại hành.Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Mềm lấy thì lên, nhún mà thuận, cứng giữa mà ứng, cho nên cả hanh.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Đây lấy hai thể mà nói. “Mềm lên” là Khôn đi lên, Tôn đã thể thấp mà tới dưới, Khôn bèn thuận thì mà lên trên, thế là lấy thì mà lên. Thì nghĩa là lúc đáng lên vậy. Chất mềm đã lên mà thành quẻ Thăng, thì dưới nhún mà trên thuận, lấy đạo nhún thuận mà lên, có thể gọi là phải thì vậy. Hào Hai lấy đạo cứng giữa ứng với hào Năm, hào Năm lấy đức giữa thuận ứng với hào Hai, biết nhún mà thuận, tiến lên phải thì, cho nên cả hanh. Chữ 元亨(nguyên hanh) lời Thoán lầm ra 大亨(đại hanh) đã giải ở quẻ Đại hữu.LỜI KINH用見大人, 勿恤, 有慶也, 南征吉, 志行也Dịch âm. - Dụng kiến đại nhân, vật tuất, hữu khánh dã; nam chinh cát, chí hành dã.Dịch nghĩa. - Dùng thấy người lớn, chớ lo, có phúc vậy; đi về phương Nam tốt, chí được thi hành vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Phàm đạo “lên” ắt bởi các bậc người lớn, lên về ngôi thì bởi tước vương, tước công, lên về đạo thì bởi ông thánh ông hiền. Dùng đạo nhún thuận, cứng giữa mà thấy người lớn, ắt được thoả mãn sự lên, chớ lo nghĩa là chẳng lo rằng không được thoả vậy. Được thoả sự lên, thì là phúc khánh của mình mà cũng là phúc khánh tới kẻ khác nữa. Nam là phương mà người ta thường vẫn ngảnh trông, đi về phương Nam tức là tiến lên phía trước. Tiến lên phía trước thì thoả mãn sự lên, mà được thi hành chí mình, vì vậy mới tốt.LỜI KINH象曰: 地中生木, 升, 君子以順德, 積小以高大.Dịch âm. - Tượng viết: Địa trung sinh mộc, Thăng, quân tử dĩ thuận đức, tích tiểu dĩ cao đại.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong đất mọc cây là quẻ Thăng, đấng quân tử coi đó mà thuận đức, chứa điều nhỏ để cao lớn.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Cây mọc trong đất, lớn mà lên trên, là tượng lên. Đấng quân tử coi tượng “lên” đó mà thuận sửa đức mình, chứa chất những cái nhỏ nhặt, cho đến cao lớn. Hễ thuận thì có thể tiến, mà nghịch thì lại phải lùi, muôn vật tiến lên, đều dùng đạo thuận tất cả. Điều thiện nếu không chứa lại thì không có thể thành danh, học nghiệp được đầy đặc đạo đức được cao thẳm, đều bởi chứa chất mà ra, chứa cái nhỏ để làm nên cái cao lớn, đó là nghĩa “lên”.Bản nghĩa của Chu Hy. - Bản của Vương Túc, chữ jlỊl (thuận) chép làm chữ (thận). Nay xét sách khác dẫn câu này, phần nhiều, cũng nói là 慎(thận), ý càng rõ ràng. Đó vì cổ văn hai chữ vẫn thông dụng. Thuyết đó đã thấy ở quẻ Mông thiên trên.初六: 允升, 大吉.Dịch âm. - Sơ Lục: Doãn thăng, đại cát.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Tin lên, cả tốt.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Đầu lấy chất mềm ở dưới thể Tốn, là chủ của quẻ Tốn, phía trên vâng hào Chín Hai là một hào cứng, ấy là nhún đến tột bậc vậy. Hào Hai lấy đức cứng giữa, phía trên ứng nhau với vua, chính là kẻ gánh vác trách nhiệm cuộc “lên”. Tin là tin theo, hào Đầu mềm nhún, chỉ biết tin theo hào Hai, tin hào Hai mà theo nó cùng lên, thế là cả tốt. Hào Hai lấy đức mà nói, thì là người cứng giữa, lấy sức mà nói thì là kẻ gánh vác trách nhiệm, hào Đầu Âm mềm, lại không có kẻ ứng viện, không thể tự lên, theo với người hiền cứng giữa để lên, ấy là nói đường cứng giữa vậy, còn sự tốt nào lớn hơn thế nữa?Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Đầu lấy chất mềm thuận ở ngôi dưới, là chủ quẻ Tôn, đương thì “lên”, phải nhún với hai hào Dương, kẻ xem như thế thì chắc lên được mà cả tốt vậy.LỜI KINH象曰: 允升大吉, 上合志也.Dịch âm. - Tượng viết: Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Tin lên cả tốt, trên hợp chí vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Tức là cùng kẻ ở trên họp chí cùng lên Trên chỉ vào hào Chín Hai, theo hào Hai mà lên, tức là cùng chí với hào Hai. Vì biết tin theo người hiền có đức cứng giữa, cho nên cả tốt.LỜI KINH九二: 孚乃利, 用鑰, 无咎。Dịch âm. - Cửu Nhị: Phu nãi lợi, dụng Thược, vô cữu.Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Tin bèn lợi, dùng tế Thược, khônglỗi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Hai Dương cứng mà ở dưới, hào Năm Âm mềm mà ở trên, ôi lấy kẻ cứng, mà thờ kẻ mềm, lấy chất Dương mà theo chất Âm, tuy rằng có lúc phải thế, nhưng cũng không phải chính đạo. Lấy kẻ tôi mà coi người sáng, lấy người cứng mà thờ kẻ mềm, chẳng qua cũng vì sự thế mà phải gắng gượng, không phải thành thực phục nhau. Sự giao kết của kẻ trên người dưới đã không do ở lòng thành, còn lâu được chăng? Còn có làm việc được chăng? Hào Năm tuy là Âm mềm, nhưng ở ngôi tôn, hào Hai tuy là Dương cứng, nhưng vẫn phải thờ người trên, nên giữ lòng chí thành ở trong không cần văn sức ở ngoài, sự thành thật chứa ở bên trong, thì tự nhiên không cần chăm chỉ văn sức ở ngoài, cho nên nói rằng: “lợi dùng tế Thược”, nghĩa là chuộng sự thành kính vậy. Từ xưa bề tôi cứng mạnh, phải thờ ông vua nhu nhược, chưa có người nào không dùng đến sự kiểu sức. Thược là thứ tế giản dị chất phác, nói rằng “tin bèn”, nghĩa là “đã tin bèn nên”, không dùng đến sự văn sức, chỉ lấy lòng thành của mình, cảm thông với người trên vậy. Như thế thì được không lỗi. Lấy kẻ bề tôi cứng mạnh, mà thờ ông vua nhu nhược, lại đương thì lên, nếu không thực ý giao tiếp với nhau, thì khỏi lỗi chăng?Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu này đã thấy ở quẻ Tuy.LỜI KINH象曰: 九二之孚, 有喜也Dịch âm. - Tượng viết: Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sự tin của hào Chín Hai, có mừng vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Hai biết lấy sự thành tín mà thờ người trên, thì chẳng những về đạo làm tôi không lỗi mà thôi, lại còn có thể thi hành được đạo cứng giữa, ơn tới thiên hạ, thế là có mừng.LỜI KINH九三: 升虚邑.Dịch âm. - Cửu Tam: Thăng hư ấp.Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Lên làng trông không.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Ba lấy tài Dương cứng, đã chính đính lại nhún nhường, kẻ trên đều thuận với nó, mà nó lại có ứng viện, dùng tư cách đó mà lên, thì sẽ như vào cái làng không người, còn ai chống nó?Bản nghĩa của Chu Hy. - Dương đặc, Âm rỗng, mà thể Khôn có tượng làng nước. Hào Chín Ba lấy chất Dương cứng, đương thì lên mà tiến tới thể Khôn, cho nên tượng, chiêm của nó như thế.LỜI KINH象曰: 升虚邑, 无所疑也.Dịch âm. - Tượng viết: Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lên làng trông không, không thửa ngờ vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Vào làng không người, sự tiến không còn nghi ngờ trở ngại gì nữa.LỜI KINH六四: 王用享于岐山, 吉, 无咎.Dịch âm. - Lục Tứ: Vương dụng hưởng(1) vu Kỳ sơn, cát, vô cữu.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Vua dùng hưởng ở núi Kỳ, tô% không lỗi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Tư là tài mềm thuận, trên thuận với cuộc lên của vua, dưới thuận với cuộc tiến của kẻ dưới, mình thì đậu vào nơi chôn của mình, lấy chất Âm ở ngôi mềm, mềm mà ở dưới, tức là đậu vào nơi chốn vậy. Xưa kia, vua Văn ở dưới núi Kỳ trên thì thuận với thiên tử, muốn đưa ông ta đến chỗ có đạo, dưới thì thuận với người hiền thiên hạ mà khiến họ tiến, mình thì mềm thuận khiêm kính, không dám vượt khỏi ngôi mình, có đức tột bậc như thế, cho nên nghiệp vua của nhà Chu, nhờ đó mà hanh. Hào Tư có thể như thế, thì hanh và tốt vả không lỗi nữa.Bản nghĩa của Chu Hy. - Ý nghĩa câu này đã thấy ở quẻ Tuỳ.Lời bàn của tiên nho. - Có người hỏi: Hanh ở núi Kỳ là sao? Chu Hy đáp rằng: Chữ 亨 “hanhn đó chỉ là chữ 享”hưởng”. “Vua hưởng ở núi Kỳ” với “vua dùng hưởng ở núi Tây”, chỉ là nói việc tế núi sông.象曰: 王用享于岐山, 順事也.Dịch âm. - Tượng viết: Vương dụng hưởng vu Kỳ sơn, thuận sựdã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Vua dùng hưởng chưng núi Kỳ, việc thuận vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Tư ở ngôi gần vua, đương thì lên được tốt mà không lỗi, là vì có đức thuận, lấy chất mềm ở thể Khôn thuận đến tột cùng vậy. Vua Văn được hanh thông ở núi Kỳ, cũng vì thuận thì mà thôi. Trên thuận với người trên, dưới thuận với người dưới, mình thì thuận ở với nghĩa của mình, cho nên gọi là việc thuận.Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứ thuận mà lên, là tượng lên tế ở núi.LỜI KINH/、五: 貞吉, 升階.Dịch âm. - Lục Ngũ: Trinh cát, thăng giai.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm: Chính bền, tốt, lên thềm(79).GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Năm vì ở dưới có kẻ cứng giữa ứng với, cho nên có thể ở ngôi tôn mà tốt. Nhưng mà chất nó vốn Âm mềm, ắt phải giữ được chính bền mới là được tốt. Nếu không giữ được chính bền, thì tin người hiền không dốc, dùng người hiền không chót, đâu có thể tốt? Thềm là chỗ để noi mà lên. Dùng người hiền cứng giữa giúp mình đi lên, cũng như trèo lên tự thềm, ý nóicó chỗ để noi mà dễ.Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất Âm ở ngôi Dương, đương thì lên mà ở ngôi tôn, ắt phải chính bền, thì có thể được tốt mà lên thềm. Thềm tức là chỗ lên dễ.Lời bàn của tiên nho. - Trình Sa Tuỳ nói rằng: Hào này phía dưới ứng nhau với người bề tôi có đức cứng, từ ngôi Hai mà lên ngôi Năm, như thềm có bậc. Đây là tượng ông vua nâng nhắc người hiền.Họ Lôi nói rằng: Hào Sáu Năm chính bền lên thềm, tiên nho cho là lên ngôi, bởi vì hễ có chính bền, rồi mới có thể lên ngôi thiên tử.LỜI KINH象曰: 貞吉, 升階, 大得志也.Dịch âm. - Tượng viết: Trinh cát, thăng giai, đại đắc chí dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chính bền, tốt lên thềm, cả được chí vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Tựa dùng kẻ hiền tài mà có thể chính bền, như thế mà lên, có thể đưa thiên hạ đến cuộc đại trị chí mình cả được thoả vậy. Cuộc lên của đạo làm vua, chỉ lo không có người hiền tài giúp đỡ, có người giúp đỡ, thì cũng giống như tự thềm mà lên vậy.LỜI KINH上六: 冥升, 利于不息之貞。Dịch âm. - Thượng Lục: Minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Tối lên, lợi về sự chính bền chẳngnghĩ.Truyện của Trình Di. - Lấy chất Âm ở chỗ cùng cực của thì lên, tôl về sự lên, ấy là kẻ biết tiến mà không biết lùi bất minh lắm vậy. Nhưng lòng cầu tiến không thôi, có khi dùng về việc trinh chính mà không thôi nghỉ thì là xứng đáng. Đấng quân tử với đức trinh chính, trọn ngày săng sắc, tự cường không nghỉ, như lòng không thôi của hào Sáu Trên, dùng về việc đó thì lợi. Đem lòng tham cầu không thôi của kẻ tiểu nhân, mà dời sang đường tiến đức, còn gì hay bằng?Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất Âm ở chỗ cùng cực của thì lên, là kẻ tối tăm không thôi vậy. Kẻ xem gặp hào đó, không còn đi đâu mà lợi, chỉ có thể quay lại cái lòng “chẳng thôi” ở ngoài mà thi hành vào sự chính đáng “không nghỉ” mà thôi.LỜI KINH象曰: 冥升在上, 消不富也.Dịch âm. - Tượng viết: Minh thăng tại thượng, tiêu bất phú dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Tối lên ở trên, tiêu chẳng giàu vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Tối tăm ở chỗ cùng tột bậc trên, mà không biết thôi, thì chỉ tiêu vong, há có thêm ích? Chẳng giàu nghĩa là không thêm ích. Lên đã cùng cực, chỉ có lui không có tiến vậy.