QUẺ TIỂU QUÁ

Chấn trên
Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiểu Quá, Tự quái nói rằng: Có sự tin ắt đi, cho nên tiếp đến quẻ Tiểu Quá(1). Người ta đã tin thì ắt đi, đi thì phải qua, vì vậy quẻ Tiểu Quá mới nối quẻ Trung Phu. Nó là quẻ trên núi có sấm, sấm nhức ở chỗ cao, tiếng nó quá mực thường cho nên là nhỏ qua. Lại, hào Âm ở ngôi tôn, hào Dương mất ngôi mà không được giữa, tức là kẻ nhỏ vượt quá mực thường. Nghĩa là kẻ nhỏ qua, lại là việc nhỏ qua, lại là lỗi nhỏ.
LỜI KINH
小過亨, 利貞.
Dịch âm. - Tiểu quá hanh, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tiểu Quá hanh, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quá là vượt qua mực thường. Nếu uốn cong mà quá thẳng, sự quá đó cốt để tới sự chính vậy, việc cũng có khi nên thế, phải đợi quá đi mới hanh được, cho nên quẻ Tiểu Quá tự nó đã có nghĩa hanh. Lợi trinh nghĩa là đạo quá lợi về chính bền. Chẳng lỗi với lẽ nên phải của đương thì, thì gọi là chính.
可小事, 不可大事, 飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下大吉.
Dịch âm. - Khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu dị chí âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát.
Dịch nghĩa. - Khá việc nhỏ, chẳng khá việc lớn, chim bay để chưng tiếng, chẳng nên lên, nên xuống, cả tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Qua là để cầu tới mực giữa. Cái quá là việc nhỏ việc lớn há lại quá được? Nghĩa đó ở quẻ Đại Quá nói đã rõ rồi. Chim bay để chưng tiếng, tức là sự qua chẳng xa vậy. Chẳng nên lên, nên xuống, nghĩa lên nên thuận vậy, thuận thì cả tốt, qua để mà tới, tức là thuận lẽ, qua mà thuận lẽ, sự tốt ắt lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ “nhỏ” chỉ về Âm, quẻ này là quẻ bốn hào Âm ở ngoài, hai hào Dương ở trong. Âm nhiều hơn Dương, tức là cái nhỏ được qua. Đã qua với Dương thì có thể hanh. Nhưng ắt lợi về giữ đường chính đính, sự đó lại không thể không răn. Hào Hai hào Năm trong quẻ đều lấy chất mềm được chỗ giữa, cho nên có thể làm việc nhỏ; hào Ba hào Tư đều là chất cứng mà mất ngôi không được giữa, cho nên không thể làm việc lớn. Thể quẻ trong thực ngoài hư, như con chim bay, tiếng nó xuống mà không lên, cho nên, hễ đem đến được sự ứng nghiệm của con chim bay để tiếng thì nên trở xuống mà cả tốt. Cũng là loại không thể làm việc lớn vậy.
LỜI KINH
彖曰: 小過, 小者過也, 而亨也
Dịch âm. - Thoán viết: Tiểu quá, tiểu giả quá dã, nhi hanh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Tiểu quá là cái nhỏ nó qua mà hanh vậy.
Truyện của Trình Di. - Dương lớn Âm nhỏ, Âm được ngôi, Dương mất ngôi mà không giữa, ấy là cái nhỏ nó qua, cho nên là việc nhỏ qua. Sự qua nho nhỏ và việc nhỏ có khi nên quá, qua đó cũng nhỏ cho nên “nhỏ qua”. Việc cũng có khi phải đợi qua rồi mới hanh thông được. Vì vậy sự quá mới có thể hanh thông.
LỜI KINH
過以利貞, 與時行也.
Dịch âm. - Quá dĩ lợi trinh, dữ thì hành dã.
Dịch nghĩa. - Quá để lợi về chính bền, cùng thì đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quá mà lợi về chính bền, tức là cùng thì cùng đi. Thì nên quá mà quá, không phải là quá, thì nên thế vậy, thế mới là chính.
LỜI KINH
柔得中, 是以小事吉也.
Dịch âm. - Nhu đắc trung, thị dĩ tiểu sự cát dã.
Dịch nghĩa. - Mềm được giữa, cho nên việc nhỏ tốt vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy hào Hai hào Năm mà nói.
LỜI KINH
剛失位而不中, 是以不可大事也.
Dịch âm. - Cương thất vị nhi bất trung, thị dĩ bất khả đại sự dã.
Dịch nghĩa. - Cứng mất ngôi mà chẳng giữa, cho nên chẳng khá việc lớn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy hào Ba hào Tư mà nói.
LỜI KINH
有飛鳥之象焉.飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉上逆而下順
也.
Dịch âm. - Hữu phỉ điểu chi tượng yên. Phi điểu dị chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, thượng nghịch nhi hạ thuận dã.
Dịch nghĩa. - Có Tượng con chim bay vậy. Chim bay để chưng tiếng, chẳng nên lên, nên xuống, cả tốt, lên nghịch mà xuống thuận vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo nhỏ qua với việc nhỏ có khi quả được thì tốt. Mềm được giữa chỉ về hào Hai hào Năm ở giữa. Âm mềm được ngôi, có thể làm cho việc nhỏ tốt lành mà thôi, không thể làm nên việc lớn. Cứng mất ngôi mà không giữa, cho nên không làm được việc lớn. Thì nhỏ quá vẫn là không thể làm việc lớn, mà tài quẻ này lại không kham nổi việc lớn, tức là hợp với thì vậy. Câu “có tượng chim bay vậy” không giống thể Thoán. Đó là lời của kẻ giải lầm vào lời Thoán. Trong cứng ngoài mềm là tượng chim bay, cho nên mới dùng “chim bay” làm nghĩa. Việc cũng có khi nên quá để theo với lẽ nên phải, nhưng mà há nên quả lắm? Như quá cung kính, quá thương xót, quá tằn tiện, v.v…, quá lắm thì không nên. Vì vậy ở thì nhỏ quá, cái quá nên như chim bay để tiếng lại mà thôi. Chim bay nhanh chóng, tiếng phát ra thân đã quả rồi, song mà há đi xa được? Việc mà nên quá cũng như thế. Thân không thể xa hơn tiếng nhiều, việc không thể qua mực thường xa, cốt ở đúng mực vừa phải mà thôi. Không nên lên, nên xuống là theo tiếng chim mà lấy về nghĩa nên thuận. Đạo “quá” nên như chim bay để tiếng, ôi tiếng, ngược mà đi lên thì khó, thuận mà đi xuống thì dễ, cho nên nó ở chỗ cao thì lớn, vì thế trên núi có sấm mới là quá. Đạo quả đi thuận thì tốt, như chim bay để tiếng, là nên thuận vậy. Sở dĩ phải quả là để cho thuận với lẽ nên phải. Thuận được với lẽ nên phải, cho nên cả tốt.
LỜI KINH
象曰: 山上有雷, 小過, 君子以行過乎恭, 喪過乎 段, 用過乎儉.
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn thượng hữu lôi, Tiểu quá, quân tử dĩ hạnh quá hồ cung, tang quá hồ ai, dụng quá hồ kiệm.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có sấm là quẻ Tiểu Quá. Đấng quân tử coi đó mà nết quá chưng kính, tang quá chưng thương, dùng quá chưng kiệm.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm nhức trên núi, tiếng nó vượt qua mực thường, cho nên là nhỏ quả. Việc trong thiên hạ có khi nên quá mà không thể quá lắm, cho nên là nhỏ quá. Đấng quân tử coi tượng nhỏ quá đó mà việc gì nên quá thì cố gắng, như là nết quá chưng kính, tang quá chưng thương, dùng quá chưng kiệm. Đáng quá mà quá tức là nên phải; chẳng đáng quá mà quả thì quả rồi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên núi có sấm, tiếng nói nhỏ quá(1). Sự quá của ba điều đó(2), đều là sự quá của những việc nhỏ. Có thể quá về việc nhỏ mà không thể quả về việc lớn, có thể quá nhỏ mà không thể quá lớn. Đó cũng như ở lời thoán nói “khá việc nhỏ và nên xuống vậy.
初六: 飛鳥以凶.
Dịch âm. - Sơ Lục: Phi điểu dĩ hung.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Chim bay lấy hung.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu Đầu Âm mềm ở dưới, là tượng tiểu nhân, phía trên nó ứng với hào Tư, hào Tư lại là thể động, kẻ tiểu nhân nóng nảy khinh dị mà bên trên có kẻ ứng giúp, với việc nên quả, tất nhiên nó sẽ quá lắm, huống chi việc không nên quá mà quai Sự quá của nó nhanh như chim bay. Vì vậy mới hung. Nóng kíp như thế, cho nên nó quá đã nhanh lại xa, cứu ngăn không kịp.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Đầu là chất Âm mềm, phía trên ứng nhau với hào Chín Tư, lại ở thì quá, tức là kẻ lên mà chẳng xuống. Chim bay để tiếng, không nên lên nên xuống, cho nên tượng, chiêm của nó như thế. Sách Đông lâm của Quách Phác nói rằng: “Xem được hào này, hoặc giả gặp phải tai vạ của loài có cánh”.
LỜI KINH
象曰: 飛鳥以凶, 不可如何也.
Dịch âm. - Tượng viết: Phi điểu dĩ hung, bất khả như hà dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chim bay lấy hung, chẳng khá dường sao vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sự quá của nó nhanh chóng như thể chim bay, há cứu ngăn được? Hung là đáng lắm! Chẳng khá dường sao, nghĩa là không thể dùng sức được nữa.
六二: 過其祖, 遇其妣;不及其君, 遇其臣, 无咎.
Dịch âm. - Lục Nhị: Quá kỳ tổ, ngộ kỳ tỷ; bất cập kỳ quân, ngộ kỳ thần, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Quá thửa ông, gặp thửa bà; chẳng kịp thửa vua, gặp thửa bề tôi, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dương ở trên là tượng cha, cao hơn cha là tượng ông. Hào Tư ở trên hào Ba cho nên là ông. Hào Hai với hào Năm ở chỗ ứng nhau, cùng có đức mềm giữa, chí nó không theo hào Ba, hào Tư, cho nên qua hào Tư mà gặp hào Năm, ấy là qua thửa ông. Hào Năm chất Âm mà cao, là tượng bà nội, nó với hào Hai cùng đức ứng nhau, ở quẻ khác thì Âm Dương tìm nhau, thì “quá” ắt qua mực thường, cho nên khác hẳn, không có sự gì không quả, cho nên hào Hai với hào Năm cũng răn nó quá. Chẳng kịp thửa vua gặp thửa bầy tôi nghĩa là tiến lên mà không lấn tới vua, vừa đúng với đạo bề tôi, thì không có lỗi. “Gặp” nghĩa là đáng. Quá phận bề tôi, đủ biết là lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Hai mềm thuận giữa chính tiến lên thì qua hào Ba hào Tư mà gặp hào Sáu Năm, ấy là qua Dương mà lại gặp Âm. Như thế thì chẳng kịp hào Sáu Năm mà tự được phận mình; ấy là không kịp vua mà vừa gặp bề tôi. Đều là cái ý quá mà chẳng quét, giữ chính được giữa, tức là cách không lỗi đó, cho nên tượng, chiêm nó như thế.
LỜI KINH
象曰: 不及其君, 臣不可過也.
Dịch âm. - Tượng viết: Bất cập kỳ quân, thần bất khả quá dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chẳng kịp thửa vua, bề tôi không thể quá vậy.
Truyện của Trình Di. - Trong thì “quá”, việc gì cũng quá mực thường, cho nên với việc tiến lên, thì răn đừng kịp thửa vua, là vì bề tôi không thể quá phận bề tôi vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sở dĩ chẳng kịp vua lại gặp bề tôi, là vì làm tôi không thể quả.
LỜI KINH
九三: 弗過防之, 從或戕之, 凶.
Dịch âm. - Cửu Tam: Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung!
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Chẳng quá ngừa đó, theo hoặc hại đó, hung!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiểu Quá là lúc Âm quá, Dương mất ngôi, hào Ba riêng ở chỗ chính, nhưng nó ở dưới, không thể làm gì, mà lại bị các hào Âm ghen ghét, cho nên cũng phải có việc nên quá, tức là quá ngừa kẻ tiểu nhân. Nếu không quá ngừa chúng nó, thì hoặc có khi chúng nó sẽ theo mà làm hại mình, như thế thì hung.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trong thì tiểu quá, các việc thường nên quá đi, rồi mới được giữa. Hào Chín Ba lấy chất cứng ở chỗ chính, là kẻ bị các hào Âm muốn hại, mà nó tự cậy mình cứng, chẳng chịu ngừa trước, cho nên chiêm của nó như thế. Kẻ xem nếu biết quá ngừa thì có thể khỏi.