Bài này không phải khảo luận về phong tục, mà chỉ kể chuyện đời xưa. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn lựa vài nét đặc biệt trong sinh hoạt của các đại điền chủ ở Nam Kỳ hồi trước. Cách nay hơn nửa thế kỷ, các điền chủ, các nhà cự phú, quan lại nhà giàu có đều không có óc thương mại. Họ chê nghề buôn bán, chỉ để dành cho Hoa kiều. Ít có nhà giàu chịu bỏ tiền ra làm ăn, lập công ty. Những người Việt đi tiên phong trong thương trường, cạnh tranh với người Tàu, người Pháp chỉ gồm một số nhỏ như Trương Văn Bền ở Chợ Lớn, Nguyễn Thành Điểm ở Vểnh Long, Nguyễn Thanh Liêm ở Mỹ Tho, Trần Đắc Nghĩa ở Cân Thơ, Trần Trinh Trạch ở Bạc Liêu... Tâm lý chung của giới nhà giàu có tiền mua thêm ruộng đất, huê lợi chậm nhưng chắc chắn.Về cách đặt tên con trong gia đình, người giàu, có học, coi trọng chữ nghĩa thường rất thận trọng, chọn lựa các mỹ danh tiêu biểu cho đạo đức, ước vọng phú quý giàu sang. Họ không có tham vọng lớn, chí hướng cao mà chủ lo đến tương lai con cháu sẽ phát tài, làm ăn thịnh vượng. Chẳng hạn gia đình cô Năm Phỉ ở Mỹ Tho ở Mỹ Tho là một trường hợp điển hình. Cô Năm Phỉ sinh trong một gia đình trung lưa, tại làng Điều Hoà, Mỹ Tho. Các chị em cô phần lớn đều là nghệ sĩ. Thân phụ cô tên “Công” (Lê Văn Công). Ông có 11 người con đều đặt tên: Hai Thành, Ba Danh, Tư Toại (trai), Năm Phỉ (gái), Sáu Chí (trai), Bảy Nam (gái), Tám Nhi (trai), Chín Bia (gái), Mười Truyền (gái), Mười Một Tạc (gái), úi Để. Tên cha và các con nhập lại thành câu: “Công thành, danh toại, phỉ chí nam nhi, bia truyền, tạc để”. (Hồ Trường An, “Sân Gỗ Màn Nhung”, trang 124)Trong số các con của gia đình này, có cô Năm Phỉ, Bảy Nam, Chín Bia, Mười Truyền đều là đào hát cải lương trong mấy thập niên 1920-50. Các anh của cô Năm Phỉ là nhà giáo, úi Để là chồng nữ nghệ sĩ Kim Hoàng. Tám Nhi bị Tây giết năm 1945. Năm 1926, cô Bảy Nam gá nghĩa với vua cờ bạc Sáu Ngọ (tên Tây là Paul Daron), được chồng bỏ tiền ra lập gánh “Nam Hưng ban”. Bảy Nam cho hai em nhập gánh này là Chín Bia Mười Truyền làm đào. Sau đó, gánh này tan rã tại Tân Châu và cô Bảy Nam đầu quân cho đại ban Phước Cương (Nguyễn Ngọc Cương).Cô Năm Phỉ (sinh năm 1910), là một nghệ sĩ cải lương rạng rỡ trên sân khấu trong 30 năm liền. Cô Năm Phỉ không phải là trang sắc nước hương trời, nhưng rất ăn khách trên sân khấu. Tên tuổi và hình ảnh của cô được phủ Toàn quyền Đông Dương cho in vào quyển kỷ yếu “Souverains ét Notabilités d’indochinois”, xuất bản năm 1943. Cô Năm Phỉ từng hát trên 3 sân khấu “Nữ Đồng Ban”, “Nam Đồng Ban”, “Văn Hí Ban” và lưu diễn khắp Bắc Nam, tới Bangkok, và hội chợ Paris năm 1931. Khi đứng trên sân khấu “Văn Hí ban”, Nam Phỉ diễn chung với một người kép đẹp trai, rồi yêu luôn người kép ấy, đó là Tư Cương tức Nguyễn Ngọc Cương, con bà Ba Ngoạn (Lưu Thị Ngoạn). Bà Ba Ngoạn là một người giàu sang, tân tiến, từng lái xe du lịch đồng thời với bà Nguyệt Hồng (thân mẫu tướng Nguyễn Khánh?). Bà Lưu Thị Ngoạn giao thiệp rộng trong giới thượng lưu ở Sài gòn. thuở đó, bà thường lái xe du lịch đi Vũng Tàu hóng gió mỗi tuần (1910- 1920). Nhờ đó bà gặp ông vua mất ngôi, đang sống lưu đày ở đây và hai người kết tình với nhau một thời gian. Dư luận đồn rằng bà Ba Ngoạn, cũng là chủ gánh hát bội rất lớn, cùng rạp hát, cũng như bà Tám Đội, cũng chủ gánh hát bội, có cung cấp tiền bạc cho ông vua mất ngôi ấy (Thành Thái). Kết quả mối tình vương giả đó là đứa con trai ra đời tức Nguyễn Ngọc Cương. Lúc đó bà Ba Ngoạn đã có chồng. Chúng tôi được nhà văn Hồ Trường An cung cấp tài liệu, và đã viết một bài báo tân niên 1988 trên Diễn Đàn Phụ Nữ với tựa “Kim Cương là cháu nội vua Thành Thái?”Vua Thành Thái có tặng bà Ba Ngoạn một bộ ẩm tách uống trà (có triển lãm tại vườn Bờ-rô (tức Tao Đàn) năm 1926). Ngoài ra, cũng theo Hồ Trường An thì nhà vua đang bị lưu đày ấy còn phong cho bà Ba Ngoạn “Hoàng ngự muội” và tặng cho một cặp kiếm làm kỷ niệm. Ở đây, chúng tôi chỉ kể vắn tắt. Khi Năm Phỉ hát trên sân khấu “Văn Hí Ban” mê chàng kép độc Tư Cương, mặc dầu Tư Cương đã có vợ là Cô đào Năm Nhỏ, đóng xuất sắc nhiều vai trong các tuồng cổ. Gánh “Văn Hí Ban” thường đóng đô tại rạp hát ở gần cầu Palicao, Chợ Lớn. Đào Năm Nhỏ dâu của bà Ba Ngoạn, thanh sắc vẹn toàn, rất ăn khách thời bấy giờ. Là bầu gánh, bà Ba Ngoạn rất quý trọng cô Năm Nhỏ, nên cưới cho người trưởng nam.Rủi ro, người con trai trưởng vắn số, chết sớm. Lo sợ mất cô đào chánh, gánh hát bộ sẽ suy sụp, nên bà bắt con thứ hai là Nguyễn Ngọc Cương (Tư Cương) phải cưới cô dâu goá của bà làm vợ. Tuy vậy, hai vợ chồng sống cũng rất hạnh phúc, sinh được một người con, tức hề Ngọc Trai sau này. Cô Năm Phỉ lấy Nguyễn Ngọc Cương (sau làm bầu gánh Phước Cương) không có con. Tuy vậy, cô Năm Phỉ cũng được Tư Cương sủng ái, xuất tiền lập gánh hát chuyên về cải lương, còn gánh thứ nhút chuyên về hát bộ.Về sau, Nguyễn Ngọc Cương lấy em cô Năm Phỉ là Bảy Nam, sinh ra Kim Cương, Kim Quang, Ngọc Thố. Nguồn tin mới nhứt do chính cô Kim Cương tiết lộ với người bạn gái là nữ ký giả kịch trường trước năm 1975, để nhìn chị em. Cô ấy là Quỳnh Như, tên thật là Tôn Nữ Như Ý, cháu nội vua Thành Thái, kêu vua Duy Tân bằng bác ruột. Cô Kim Cương tiết lộ “thân phụ cô tức Nguyễn Ngọc Cương là con riêng của bà Ba Ngoạn với phế đế Thành Thái lúc Ngài đang ở Vũng Tàu”.Có những gia đình giàu có, đặt tên các con theo sở thích riêng, không biểu lộ ước vọng gì cả. Đó là trường hợp gia đình ông Hội đồng Nguyễn Văn Hạc (chim hạc). Ông đặt tên các con đều thuộc các loại chim quen thuộc ở men Nam như:- Cô con gái đầu lòng là cô Hai Én.- Các người em kế đều có tên: Cậu Ba Nhạn (công tử), cậu Tư Quắc, cậu Năm Sắt (chim sắt), cậu Sáu Sẻ (chưn se sẻ), Bảy Trích, Tám Diệc (chưn trích, chim diệc tương tự con cò, màu trắng hơi xám). Cô Hai Én kết hôn với y sĩ Đông Dương Nguyễn Như Ánh.Một gia đình khác thuộc cự phú khác ở Mỹ Tho là gia đình “Thương Hữu” như: Thương Hữu Lân (nghiệp chủ giàu số 1 ở Mỹ Tho từ năm 1950). Thương Hữu Long, y sĩ Đông Dương có nhà, có phố ở cầu Thiêng Đức Vĩnh Long. Các ông Thương Hữu Quy, Thương Hữu Phụng đều là điền chủ nhiều ruộng đất, nhà phố cho mướn ở Vĩnh Long, Cái Sơn. Riêng ông Thương Hữu Phụng có mở trường học tư lấy tên “trường Thương Hựu Phụng” tại dốc cầu Thiêng Đức. Nhà văn Phạm Thăng hồi còn nhỏ, có tân theo học trường này. Bác sĩ Thương Hữu Long là lương y, chữa bịnh mát tay. Hơn nữa ông có tánh bình dân, ăn ở hiền, được bịnh nhân quý mến.Tại Bạc Liêu có dòng họ Cao Triều cũng rất nổi tiếng. Ông Phủ Cao Triều Thạnh có con đặt lên là Cao Triều Hưng, Cao Triều Phát... đều biểu lộ ý muốn con cháu làm ăn rạng rỡ ở tương lai. Ông Cao Triều Phát là đại điền chủ (1888-1956), gia nhập đạo Cao Đài rất sớm. Năm 1933, ông Cao Triều Phát cùng với chưởng pháp Trần Đạo Quang và Y sĩ Trương Kế An lập Cao Đài hệ phái Hậu Giang gọi là Minh Nhân đạo. Trong lúc khởi dầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Minh giết hại nhiều chức sắc Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo và các nhà ái quốc có uy tín, nên không có tôn giáo nào chịu hợp tác với Việt Minh. Để lừa bịp dân chúng và vừa lợi dụng vừa rún ép ông Cao Triều Phát phải theo họ. Vì sống trong địa bàn ảnh hưởng của họ, ông Cao Triều Phát biết họ bịp mà phải chịu theo để khỏi bị thủ tiêu. Việt Minh thành lập “Cao Đài thống nhứt” tại “Thất Giồng Bốn” tại Gia Rai Bạc Liêu, tập họp các tín đồ trong vùng họ kiểm soát, và phong cho ông Cao Triều Phát làm chủ tịch liên hiệp 12 chi phái Cao Đài hiệp nhất.Người ta còn nhớ trong “Tuần lễ vàng” tổ chức tại Bạc Liêu vào đầu năm 1946, Việt Minh tìm cách làm tiền ông Cao Triều Phát bằng cách nài ép ông mua một cái áo của các thiếu nhi Hà Đông tặng ông Hồ, bằng lụa, với giá 50 vạn đồng! Chúng nói “cụ Hồ gởi tặng chủ tịch Cao Đài hiệp nhứt Cao Triều Phát”, nhưng buộc ông Phát phải mua với số tiền khổng lồ. Thật là một cách làm tiền vừa trâng tráo, vừa bỉ ổi?