Nam thanh nữ tú tung ra tất cả tri thức của mình để thi tài biểu diễn. Đó là tật chung của kẻ mới làm giàu, ưa khoe của, “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Thật bực mình khi nghe những câu hò dẫn chứng nhiều điển tích sai lạc, vô nghĩa hoặc nhiều cách ngôn của Khổng Tử, tư Mã Ôn Công với danh từ lẫn lộn, ép vận, sai văn phạm cổ văn. Nhưng chúng ta chưa bi quan; trước ánh sáng của nghệ thuật, lọai hò mép nôm na (không điển tích không chữ Hán) vẫn là hình thức cao nhất, khó thành công nhứt dành riêng hco những người có chân tài, những người trầm tĩnh. Họ đã khéo léo đưa ra những câu hò từ miền Tiền Giang, Trung Phần để bẻ lại. Bẻ là uốn nắn cho hợp tình hợp cảnh: Ai về Giồng dứa qua truông, Gió đưa bông sậy để buồn cho em. Đã trở thành: U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai. Và hình ảnh mơ hồ của cây cầu Trường Tiền ngòai Huế: Cầu cao ba mươi sau nhịp(?) Em theo không kịp Nhắn lại cùng chàng: Cái điệu tào khang. Sao chàng vội dứt Đêm nằm thao thức Tưởng đó với đây Biết nơi nao cho phụng gặp bầy Cho le gặp bạn Ruột đau từng đọan Gan thắt chín lần Đôi ta như chanh với khế, như quế với gừng Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi! Để thêm phần duyên dáng và để biểu diễn nghệ thuật bắt vần, nhiều người trổ tài, môi nững câu hò ngắn sẵn có. Môi tức là kéo dài thêm câu hát, đặt thêm nhiều đọan lơ lửng, vô thưởng vô phạt hoặc có dụng ý: Anh thương em Thương quấn thương quít Bồng ra gốc mít, bồng xít gốc chanh Bồng quanh đám sậy, bồng bậy vô mui Bồng lủi sau lái, bồng ngoái trước mũi (v.v. ) Để em nằm xuống đây Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng Miệng đắng cơm hôi Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi? Ba hình thức hò văn, hò truyện, hò mép đã tổng hợp trong một câu: Tay cầm cục mực, cây viết vàng Vẽ phụng vẽ loan Vẽ Tiết Đinh San Vẽ chàng Lâm Sĩ Vẽ bông hoa thị Vẽ chữ đại tường Đem về cắm trước đầu đường Người đi qua thấy rõ chữ kim tương (?) Kẻ bước lại xem tường văn võ Trách ai chận ngõ lấp truông, ngăn mấy đón gió Để con bạn nọ phải thua buồn vì tiếng thị phi. Theo thời gian, từ hình thức đơn giản trong sáng, câu hò lần lần trở nên nặng nề, mang nhềiu chữ nho, điển tích nhưng nghèo ý nghĩa. Lắm người tuy nổi danh hò hay, hát giỏi nhưng thật ra họ chỉ thành công nhờ làn hơi thiên phú, nếu chép lời văn ra mực đen giấy trắng thì rõ ràng là nghèo vần điệu, trùng ý, lải nhải, quá sáo: - Nghĩa nào nặng cho bằng nghĩa tào khang. - Đêm nằm van vái, vái van ông Tơ hồng cùng bà Nguyệt lão, xui khiến cho tôi cưới đặng con vợ đồng lòng, đồng tâm, đồng chí, phu xướng phụ tùy, phụ tùy phu xướng v.v... Thế sự ngày càng đổi thay, nếp sống xáo trộn ít nhiều là điều dĩ nhiên. Năm 1938, 1940, nếu được dịp dự một buổi lễ thành hôn ở vùng kinh Xáng Ngã Năm, Ngã Bảy ta càng ngạc nhiên hơn. Đó là những xóm chạy thẳng ở hai bên đường giao thông thủy bộ, làm ruộng làm rẫy nhưng cũng bán hàng xén, hớt tọc, trong gian nhà có cửa sổ, có đèn “măng xông”. Bộ quần áo mặc ngủ (pijama) và đôi giày “săn đan” trở thành lể phục chánh thức (thay thế cho khăn đóng áo dài) khi chàng rể ra mắt bà con hai họ và bái từ đường! Lúc đãi tiệc, một cậu thanh niên đứng dậy trình bày với cử tọa bài “văn chúc” theo kiểu: “Thưa quí ông, quí bà, quí cô bác, các bạn thanh nhiên, mấy chị phụ nữ.” Hôm nay là ngày... tháng...là ngày lễ thành hôn của bạn tôi là Mỗ sánh duyên cùng cô Mỗ. Trong khi hai họ sum vầy dự tiệc, tôi là người tài thô trí thiển lẽ thì phải lặng lặng để nghe người trí thức giải bày “tâm lý” để cho tôi là kẻ thiếu học được dịp học thêm, nhưng tôi xin mạn phép đọc bài văn chúc nầy. Sách có câu chữ rằng: Châu Trần nhứt thôn vì kết hảo, Tấn Tần lưỡng quốc dĩ thành hôn...Tôi rất đáng khen bạn tôi biết vâng lời giáo huấn, chẳng học thói Sở khanh, đợi đến tuổi trưởng thành cho cha mẹ định đôi mới gọi rằng lưỡng tòan trung hiếu. Tôi thầm khen cô Mỗ biết giữ câu tiết trinh liêm sỉ và biết giữ danh gia cho cha mẹ, chẳng học thói chơi hơn nhà ta nhơ tiết...Thưa quí ông, quí bà, cô bác, các bạn thanh niên, mấy chị phụ nữ, tới đây, tôi xin “gác bút” và ngưng lời.. “ Tới phần giải trí của buổi lễ một cụ già mặc áo “bành tô” xin trình bày bài “Vè thời sự” mới sáng tác. Thí dụ như: Ất hợi niên (135) chánh ngọat Chợ Phước Long đại ách rõ ràng Người tha phương đen đến tai nàn Ngày 29, cuối tháng giêng năm đó Tám giờ rưỡi, chợ đương đông đen đỏ Chiếc xáng Năn (Nantes) múc tới ngang thành Chết máy rồi, thầy thợ sọan sành Xúm nhau lại sửa sang máy móc Ông Tây (coi) máy chăm non săn sóc Chỉ đầu kia đầu nọ lăng xăng Nồi “xốt de” thiếu nước không bằng Cặp rằng (coi) lửa bẩm ông: Nước ít! Rủi bữa đó ghe nước về không kịp Còn ông Tây nóng việc không phòng Biểu chụm càn, chạy đỡ cũng xong.. Rồi lát nữa ghe nước về sẽ lấy Rủi nhiều việc, đồng hồ kẹt máy Củi chụm hòai không thấy đúng giờ ... Nghe cái rầm như đất lỡ trời nghiêng Người trong chợ thiếu điều té ngửa.. ...Nghe hết rền, thiên hạ đến coi. Thương hại thay mười mấy mạng người Ông phó xáng văng xuông kinh gần chết Nhờ thầy Kiệt mau chơn lội vớt Chớ phải không hồn lặn âm cung Vớt lên bờ mình mẩy lấm bùn Đứng run rẩy tiếng Tây quên nói. ... chừng xáng nổ người bay trên mười thước Ba người đó, co hai người dài phước Bay lên rồi bay rớt xuống sông Còn một người bay bổng trên không Cũng may quá rớt nhằm bùn nước ..Ngồi ngẫm nghĩ tình đời thêm mệt Câu nhân tình ấm lạnh điếc tai Nghe người đồn lộn xộn vắn dài Kẻ nói nọ, người nói kia mà đặt để Dầu trật trúng xin quí ông miễn lễ Tôi bận việc nhà không quan sát được rõ ràng.."Tiếng vỗ tay vang rân khi dàn cổ nhạc bắt đầu lên dây. Buổi đờn ca kéo dài đến quá nữa khuya. Nhiều người vẫn chưa về, ngồi lì mãi tại chiếu, thách đố uống rượu, thưởng tài lẫn nhau qua câu vọng cổ Bạc Liêu, hát mãi mà không thỏa mãn!