Hồi 41
Hận tình chưa trả

Thành-cát Tư-hãn điều động bốn vương tử, mười binh đoàn, công hãm Yên-kinh. Sau một tháng liền, dùng tù binh, dân chúng lấp hào, bắc thang leo lên công thành. Từng đợt, từng đợt, người người, hàng hàng nối tiếp leo lên, bị quân phòng thủ bắn tên, lăn gỗ đá, ngã lộn xuống chết. Số nô lệ, tù binh bắt được trong những trận đánh trước chết gần hết, mà thủy chung vẫn không vào được thành. Tổng kết thiệt hại, riêng quân Mông-cổ chết hơn vạn; tù binh, nô lệ chết ba mươi vạn dư mà thành vẫn đứng vững như chế diễu Thành-cát Tư-hãn. Ông bực mình, đích thân đốc thúc công thành, thì bị một mũi tên trúng cổ. Độc chất làm sưng lớn lên.
Thành-cát Tư-hãn bắt đầu chán nản. Ông thấy đất Trung-nguyên người quá đông, đất quá rộng, chiếm ngay bây giờ thì chưa thể được. Ông muốn hãy rút quân về nghỉ ngơi, đợi huấn luyện các binh đoàn thân binh Trung-quốc tinh nhuệ, rồi mới có thể trở lại tái khai chiến với Kim, để di dân Thảo-nguyên vào.
Ông họp chư tướng nghị rút quân về. Ông hỏi Thủ-Huy:
- Thiên-sứ! Người hãy giúp chúng tôi mưu kế gì, để có thể chia bớt lực lượng Kim không?
- Thưa Tư-hãn. Hồi nghị kế mấy năm trước, cháu Thủ-Độ đã đưa ra ý kiến kết thân với Tống. Ta hứa với Tống rằng ta đánh phía Bắc, để Tống khởi binh từ Nam lên. Ta hứa nhường cho họ khôi phục lại kinh đô Biện-kinh cũ. Nhất là họ sẽ được làm chủ vùng cố đô Lạc-dương, Trường-an là đất thiêng của tộc Hán.
Gia Luật Mễ lắc đầu:
- Tống quá hèn. Tôi nghĩ không bao giờ họ dám ra quân.
Thủ-Độ phát biểu:
- Thưa chú, cháu nghĩ lần này Tống sẽ khởi binh. Vì trước kia, Tống cho rằng ta chỉ là một bộ lạc của rợ Hung-nô, không đủ sức mạnh đối chọi với Kim. Ta vốn là rợ, vốn không lễ nghĩa, ta hứa rồi nuốt lời. Bây giờ qua dư vang vụ quân ta tràn ngập vùng Bắc, đang bao vây Yên-kinh. Họ biết ta mạnh. Còn vụ họ nghi ta thất hứa, thì chỉ cần ta giúp Liêu tái lập quốc, rồi rút binh, thì họ tin ta ngay. Nhất định họ sẽ khởi binh.
Giữa lúc đó thì tướng Triết Biệt gửi về một tấu chương:
" Đã đánh tan các đạo quân Kim đóng trong vùng đất của Liêu. Giúp Liêu chúa tái lập triều đình, tổ chức quân đội. Liêu vương xin quy phục, làm phiên thần cho Mông-cổ. Các binh đoàn Liêu đều sẵn sàng trợ chiến cho Mông-cổ".
Thành-cát Tư-hãn vỗ tay mừng:
- Trước kia Liêu chiếm Trung-quốc, hùng tráng là thế. Họ bắt Tống cắt đất, họ bắt tuế cống rất nặng. Rồi Liêu bị chính bộ tộc Nữ-chân của mình nổi lên diệt, lập ra nước Kim. Kim để cho Liêu tự trị trong vùng đất cũ. Tuy vậy họ vẫn duy trì một đạo quân để kiềm chế. Bây giờ Triết Biệt diệt đạo binh Kim, tái lập nước Liêu. Từ nay ta có Liêu kiềm chế Kim. Ta không còn sợ Kim nữa. Ta chỉ lo phá các đạo quân tiếp viện từ phương Nam của Kim mà thôi. Ta có thể sai người đi sứ rủ Tống liên binh được rồi đây.
Thành-cát Tư-hãn hỏi:
- Vậy ta phải nhờ ai đi sứ Tống bây giờ?
Mộc Hoa Lê chỉ Vương Thúy-Thúy:
- Phu nhân của Thiên-sứ trước đây từng là người của Tống. Phu nhân đã được Tống phong tước Khâm-minh Đoan-duệ quận chúa, Vân-đài tiên tử. Bấy lâu nay, người muốn về thăm quê, mà sợ Tống làm tội. Bây giờ ta phong người làm sứ giả. Người sẽ danh chính là sứ thần Mông-cổ. Ngôn thuận, là tuy xa Tống, vẫn nghĩ đến quê hương. Nay mang tin Mông-cổ giúp Tống tái chiếm ba cố đô. Nhất là tái chiếm vùng đất Ngũ-nhạc đại lĩnh của phái Hoa-sơn. Như vậy: Một là ta trả ơn phu nhân đã giúp Mông-cổ bấy lâu bằng cách cho phu nhân hồi hương. Hai là phu nhân là người cũ của Tống, đem các sự lợi hại trong vụ ra quân nói, thì Tống tin ngay. Ba là, phu nhân có võ công cao. Người sẽ theo các đạo quân Tống, để phối hợp hai quân Đại-Tống, Mông-cổ.
Thành-cát Tư-hãn hỏi Thủ-Huy:
- Không biết ý kiến Thiên-sứ ra sao?
- Tôi nghĩ rằng bà vợ tôi sẽ vui vẻ nhận lệnh của Ngài. Tôi cũng sẽ đi theo làm quân sư cho bà ấy.
Thành-cát Tư-hãn đề nghị thêm:
- Hiện vết thương trên cổ của tôi vẫn không thuyên giảm. Tôi muốn dịp này nhờ Thiên-sứ về Đại-Việt mời y sư Phạm Tử-Tuệ hay Nam-thiên thần y Lê Thúc-Cẩn sang chữa cho tôi.
Thủ-Huy nghĩ thầm: Nếu mình vui vẻ ra đi, thì Thành-cát Tư-hãn sẽ nghi ngờ. Vậy mình tỏ vẻ không thích thú hồi hương, mới qua mắt y được. Công lắc đầu:
- Tôi không muốn về Đại-Việt trong lúc này. Ở đây, Tư-hãn đối xử với tôi như bạn hữu. Các tướng đối xử với tôi như anh em. Sung sướng biết bao, vui vẻ biết bao. Còn như tôi về Đại-Việt thì phải quỳ gối, cúi đầu trước những tên vua chúa triều Lý vừa ngu, vừa đần thì tôi không chịu được. Nhất là khi tôi xuất hiện, thì mấy con mụ điếm già ở hậu cung, nào Thái-hậu, nào Hoàng-hậu sẽ hãm hại tôi. Tôi đề nghị Tư-hãn sai Thủ-Độ đi thì hơn.
Thấy Thủ-Huy xa Đại-Việt đã hai chục năm, mà vẫn còn căm hận triều Lý, Thành-cát Tư-hãn không nghi ngờ gì cả. Ông hỏi Thủ-Độ:
- Còn cháu! Cháu về Đại-Việt liệu có gì nguy hiểm không?
- Thưa Tư-hãn không. Nhưng... cháu đang cầm đại quân giúp Tư-hãn, mà bỏ đi thì cháu không muốn.
- Cháu yên tâm, ta đang chuẩn bị rút quân, đợi chỉnh bị binh mã, chờ Tống cùng ra quân. Cháu có ở đây, hay đi sứ thì cũng vậy thôi.
Thủ-Độ đưa mắt nhìn Thảo-nguyên ngũ điêu:
- Vâng! Cháu tuân chỉ Tư-hãn...Có điều...Có điều...
- Cháu phải xa các bạn, cháu không vui phải không? Cháu chỉ đi có mấy tháng thôi, rồi lại trở về, chứ có đi luôn đâu?
Thủ-Độ nói thực với lòng mình:
- Thưa Tư-hãn, chúng cháu cùng ăn, cùng ngủ, cùng săn bắn, rồi cùng chiến đấu, ngày đêm có nhau. Bây giờ phải xa nhau...Thưa, khó quá.
- Ta biết! Nhưng cháu đi là vì sinh mệnh của ta.
- Xin tuân chỉ Tư-hãn.
Thành-cát Tư-hãn quyết định:
- Vậy thì tôi xin phiền phu nhân của Thiên-sứ làm chánh sứ sang Tống. Thiên-sứ đi theo làm quân sư. Còn Thủ-Độ thì lên đường đi Đại-Việt mời y sư sang trị bệnh cho tôi.
Mộc Hoa Lê đề nghị:
- Thưa Tư-hãn! Sứ đoàn sang Tống, thì ta cần chuẩn bị thực kỹ, rồi sẽ lên đường. Nhưng sứ đoàn của cháu Thủ-Độ phải lên đường ngay. Vì bệnh của Tư-hãn đã mấy ngày rồi. Để lâu e nó lan rộng ra.
- Vậy thì thế này.
Thành-cát Tư-hãn ban chỉ:
- Khi cháu Thủ-Độ sang đây, thì sang với tư cách sứ thần Đại-Việt. Vậy bây giờ cháu về, ta cũng để cháu về trong tư cách sứ thần. Từ đây đến cửa biển Liêu-Đông không xa. Nếu Thủ-Độ trở về Hoa-lâm, rồi lại đi Liêu-Đông thì mất thời giờ. Để khắc phục yếu tố thời gian. Ngày mai, ta sẽ cho mã khoái Phi-tiễn đem chỉ dụ về Hoa-lâm, dẫn nhân viên sứ đoàn Đại-Việt đến cửa biển Liêu-Đông, rồi về cùng Thủ-Độ.
Mười ngày sau, thì sứ đoàn Đại-Việt của Thủ-Độ được đưa từ Hoa-lâm về cửa biển Liêu-Đông. Viên phó sứ Chu Mạnh-Nhu, bốn bồi sứ Vũ Khắc-Kim, Phạm Hoàng-Quy, Lê Trọng-Anh, Tạ Quốc-Ninh đều là học trò của Phạm Kính-Ân, họ thuộc bộ Lễ, được Kính-Ân tuyển cho theo Thủ-Độ, coi như người tâm phúc. Họ bị giữ lại ở Mông-cổ mấy năm. Tuy họ được cấp dinh thự để ở. Được cấp nô lệ hầu hạ, cấp mĩ nhân hầu chăn gối, lại được cấp cả ngựa để di chuyển. Nhưng, bỗng dưng họ phải xa nhà, xa quê, sống trong vùng đất lạ, khí hậu lạnh lẽo. Mình nói thì người không hiểu. Người nói thì mình không biết. Năm người, ngày ngày hết ăn lại ngủ. Tương lai không hy vọng gì được về nước. Buồn quá, suốt ngày họ học tiếng Mông-cổ. Nên bây giờ họ nói tiếng Mông-cổ lưu loát như người Mông-cổ học thức. Mấy hôm trước được lệnh hồi hương, cả năm mừng như chết đi, sống lại.
Trong dịp này, Thúy-Thúy gửi hai con là Thủ-Minh với Như-Lan cùng về quê để ông bà nội dạy dỗ, theo truyền thống giòng họ Đông-a.
Thảo-nguyên ngũ điêu xin phép Thành-cát Tư-hãn theo Thủ-Độ đến tận cửa biển Liêu-Đông để tiễn đưa. Trong thâm tâm bốn người, thì Thủ-Độ đi vài tháng rồi trở về. Thế nhưng ở Thủ-Độ, thì Hầu biết rằng cuộc chia tay này không hy vọng gì gặp lại nhau. Cả năm cùng uống rượu đến say mềm ra.
Khi thuyền sắp nhổ neo, thì hai thiếu nữ người Hoa quỳ gối trước tấm ván bắc từ bờ xuống thuyền, khóc nức nở. Thủ-Độ nhìn lại thì ra Triệu Minh-Minh, Chu Diệu-Diệu. Công nắm tay hai nàng, nâng dậy, an ủi:
- Từ ngày gặp hai nàng ở Trương-gia khẩu đến giờ. Tiếng thì hai nàng là tỳ thiếp của tôi. Nhưng tôi chưa từng có cử chỉ khinh bạc với hai nàng. Tôi cũng đối xử với hai nàng như em gái. Bây giờ lên đường đi sứ, tôi đã làm lệnh phóng thích hai nàng về với gia đình. Hai nàng chẳng nên khổ tâm.
Diệu Diệu càng khóc lớn. Thủ-Độ tát yêu nàng:
- Diệu Diệu, chẳng nên quá buồn.
Diệu Diệu càng nức nở:
- Chủ nhân ra đi, thì...thì...tiểu tỳ không ở bên cạnh để phục thị chủ nhân. Ai sẽ giặt quần ao cho chủ nhân? Ai sẽ dâng những món ăn hợp miệng cho chủ nhân. Vì vậy...vì vậy... tiểu tỳ xin chủ nhân cho Minh Minh với tiểu tỳ cùng đi, thì tiểu tỳ mới an tâm.
Thủ-Độ còn đang suy nghĩ, thì Như-Lan đã nắm lấy tay Diệu Diệu:
- Anh ơi! Anh dẫn Diệu Diệu, Minh Minh cùng đi với chúng em cho vui. Hứa đi anh.
Từ ngày trở lại Mông-cổ, Thủ-Độ cực kỳ sủng ái cô em gái này. Hầu tát yêu em:
- Em đã muốn vậy, thì làm sao anh từ chối được.
Thuyền nhổ neo, rồi hướng Nam, dương buồm. Thủ-Độ dẫn Minh Minh, Diệu Diệu với Thủ-Minh, Như-Lan lên trên sàn thuyền, ngắm cảnh. Bây giờ là lần đầu tiên Hầu mới chú ý đến hai cô tỳ nữ. Quả thực hai nàng là hai giai nhân hiếm có. Minh- Minh thì đẹp chói chang như hoa hải đường mới nở ban mai. Còn Diệu Diệu thì đẹp nhu mì, đẹp huyền ảo. Hầu nghĩ thầm:
- Cũng may mà Hốt Tất Liệt tặng hai nàng cho ta. Bằng không, hai nàng lọt vào tay bọn Thảo-nguyên ngũ điêu, thì giỏi lắm chúng qua đêm với hai nàng, rồi lại cho bọn binh lính thô tục thay nhau hưởng thụ trên đóa hoa nhụy rữa. Nhưng ta phải có thái độ nào với hai nàng đây? Ta có nên dùng hai nàng như tỳ thiếp không? Hay ta tìm một nam nhi đại trượng phu gả hai nàng? Bây giờ đem hai nàng về nước, trước hết ta phải dạy tiếng Việt cho hai nàng đã.
Thế là ngay chiều hôm đó, Hầu sai viên bồi sứ dạy tiếng Việt cho hai nàng với hai em.
Lênh đênh trên biển hơn hai tháng, một hôm Thủ-Độ đang ngồi đọc sách, thì thuyền trưởng Quách Ty vào báo:
- Thưa sư huynh. Thuyền đã đi vào hải phận trấn Tiên-yên. Tại Tiên-yên, có ba thủy đội đồn trú. Ta nên ghé bến hay không?
- Có chứ! Hai tháng qua, bị giam trong thuyền, ăn uống kham khổ, lại cuồng cẳng quá rồi. Ta phải lên bờ ăn uống cho đỡ xót ruột, đi lại cho dãn gân cốt chứ?
Nói rồi Hầu dẫn hai em lên sàn thuyền. Hai nàng Minh Minh, Diệu Diệu cũng lên theo. Con thuyền hướng mũi vào bờ. Xa xa, những ngọn núi vùng Tiên-yên đã hiện ra.
Thủ-Minh hỏi:
- Anh ơi! Mình về tới Thăng-long rồi à?
- Không, Thăng-long còn xa lắm. Đây là trấn Tiên-yên, nằm sát biên giới Hoa-Việt.
Một con thuyền của Thủy-quân kéo buồm ra khơi. Trên cột buồm có lá cờ thêu hình con rồng uốn khúc, cạnh con chim âu sải cánh bay ngang. Biết đó là kỳ hiệu của Thủy-quân Đại-Việt, Chiến thuyền này chặn ngang trước con thuyền của sứ đoàn. Viên thuyền trưởng phất cờ ra lệnh cho con thuyền Ó-đen đi chậm lt nữ đội trưởng bang chúng Lĩnh-Nam chỉ huy mấy thủy thủ giải Lâm Hoài-Đức, Trịnh Nam-Phương với ba anh em họ Đinh vào. Tất cả đều bị trói, người ướt như chuột, bụng phình lên, dáng điệu cực kỳ mệt mỏi. Đinh Hồng ngoác mồm ra chửi:
- Các ngươi tự thị là anh hùng, mà dìm chúng ta xuống dưới nước rồi bắt ư? Đồ mặt dầy.
Nữ đội trưởng tên Cam-Thanh, xuất thân là ăn mày. Đấu võ thì có lẽ nàng không chịu nổi Đinh Hồng một chiêu. Nhưng đấu khẩu thì nàng bỏ xa Đinh. Nàng cười ha hả:
- Tiên sư cha mi. Thuyền của mi bị đắm. Bản cô nương mi vớt mi lên, mi không cảm ơn thì chớ, lại còn to tiếng. Nếu mi còn mở miệng ra, thì bản cô nương sẽ lấy cái váy đàn bà chụp vào đầu mi, rồi đem mi ra giữa giòng sông, ném con bà mi xuống nước làm mồi cho cá bây giờ.
Đinh Hồng vẫn cứng đầu:
- Ông nội mi mà có sợ...
Cam-Thanh cầm cái quần đen đàn bà tung lên. Cái quần chụp xuống đầu Đinh Hồng. Võ công Đinh đâu có dở? Y định né đầu tránh, nhưng y quên mất mịnh bị bị điểm huyệt, đầu y chỉ nghiêng đi một chút. Cái quần chụp xuống đầu y tới vai. Mùi khai, mùi ẩm ướt nồng nặc bốc lên làm y buồn nôn. Nhưng y ngậm miệng không chịu khuất phục.
Nhị-Hào làm bộ không hiểu gì, chàng hỏi:
- Bọn này là ai vậy?
- Thưa Khả-hãn, có hai thương thuyền của dân đi trên sông. Khi qua bến Cửu-liên, thì phát hiện ra một bọn người Tầu đang đứng trên bờ vẫy tay gọi, xin chở qua. Họ ghé thuyền vào định giúp đỡ chúng, thì chúng ào ào nhảy xuống uy hiếp thủy thủ chiếm thuyền, rồi bắt chở sang bên này. Thì ra chúng là bọn cướp. Không đừng được, thủy thủ phải tuân lệnh chúng. Khi chèo thuyền ra giữa sông, vì thuyền nhỏ, mà chở nặng quá, nên bị lật. Giữa lúc đó, thuyền của Thủy-quân ta đi qua, anh em ra công cứu bọn chúng. Tất cả có 635 tên, nhưng chỉ vớt được có 305, còn lại chúng chết chìm hết. Hiện bọn chúng đều bị giam vào lao xá. Riêng bốn tên này, dường như chúng điên thì phải. Chúng xưng những gì là Thiên-sứ, Địa-sứ. Bọn thuộc hạ giải chúng vào đây để Khả-hãn phát lạc.
Nói dứt Cam-Thanh quát:
- Quỳ gối xuống.
Lâm Hoài-Đức vẫn hách dịch. Y hất hàm hỏi Nhị-Hào:
- Bọn người là ai?
Cam-Thanh chỉ Nhị-Hào:
- Vị này là Chỉ-huy sứ của phủ Quốc-oai.
Mấy năm trước, khi Lâm Hoài-Đức làm phó sứ, Trịnh Nam-Phương trong lốt Nghi-Phương sư thái, Tương-giang tam hổ trong lốt bồi sứ. Chúng từng gặp Nhị-Hào trong cuộc thi võ. Sau một thời gian xa cách, lại nữa chúng mới bị trấn nước, đầu óc mơ hồ, nên không nhận ra chàng. Bây giờ nghe Cam-Thanh nói, chúng mới nhớ ra.
Lâm Hoài-Đức ngạo nghễ:
- Thì ra người là võ Tiến-sĩ An-Nam đấy. Chúng ta là sứ thần Thiên-triều sang đây giúp cho Quốc-vương các người, mà các người làm nhục chúng ta như thế này ư?
Nhị-Hào làm bộ mắng Cam-Thanh:
- Đội trưởng! Cái bọn khật khùng này sao không giam chúng lại, mà lại đem vào đây làm chi. Chúng là quân trộm cướp mà lại xưng Thiên-sứ, Thiên-triều! Hãy bắt chúng chịu phép.
Cam-Thanh nhắc cái quần chụp trên đầu Đinh Hồng lên. Nàng gọi thân binh:
- Đem Thần-long xa cho ta.
Thân binh dạ ran, rồi đẩy ra một chiếc xe. Trong thùng xe lúc nhúc hàng nghìn con rắn đang nghểnh cổ, thè lưỡi đổ lòm. Đinh Hồng từng bị chị em Nhị-Hào cho rắn cắn, suýt mất mạng. Y nói với Lâm Hoài-Đức:
- Lâm đại nhân. Bọn này nguyên là những tên ăn mày ở Thăng-long. Chúng vốn vô học. Mình có xưng là Thiên-sứ hay Thiên-triều gì, chúng cũng không biết đâu. Mình đã lọt vào tay chúng, thì đành chịu nhún cho qua, bằng không chúng sai rắn cắn mất mạng vô ích.
Lâm Hoài-Đức vẫn ương ương:
- Sĩ khả dĩ sát, bất khả dĩ nhục (Kẻ sĩ chỉ có thể đem giết chứ không thể làm nhục).
Cam-Thanh bắt ba con rắn lớn bằng cổ tay, nàng đưa sát vào mặt bọn Tống. Chúng ớn da gà nhắm mắt lại. Cam-Thanh vung tay tung lên. Lập tức ba con rắn quấn vào người Hoài-Đức. Một con quấn quanh cổ, một con quấn quanh tay phải, một con quấn quanh tay trái. Hoài-Đức lạnh gáy. Y nhắm mắt lại, không dám nhìn. Cam-Thanh tiếp tục bắt rắn tung lên. Phút chốc trên người Hoài-Đức, Trịnh Nam-Phương, và Tương-giang tam hổ tua tủa những rắn. Nàng cười khúc khích:
- Ta mới chỉ cho rắn quấn quanh bọn người, chứ chưa ra lệnh cho chúng cắn các người. Các người mà không chịu khuất phục, ta cho chúng cắn liền. Chỉ cần một con rắn đợp trên người các người vài ba miếng, thì một giờ sau các người phải chết.
Nói dứt nàng cầm ống tiêu đưa lên miệng thổi. Tiếng tiêu âm ỉ như hồn ma từ thế giới vọng về. Những con rắn cùng há miệng ra đợp bọn Lâm Hoài-Đức. Đinh Hồng bở vía:
- Lâm đại nhân! Chúng ta chịu khuất phục đi thôi. Thuộc hạ không chịu nổi nữa rồi.
Lâm Hoài-Đức cười thách thức:
- Bọn ăn mày khốn nạn kia. Sống, chúng ta làm thần tử nhà Tống. Chết chúng ta làm trung thần. Mấy con rắn không làm chúng ta sợ đâu.
Nhưng Đinh Hồng kinh hãi, y xuống nước:
- Tôi xin khuất phục.
- À có thế chứ.
Tiếp theo Đinh Huyền, Đinh Thanh cũng chịu khuất phục. Cam-Thanh huýt sáo một tiếng, những con rắn đang quấn quanh người Tương-giang tam hổ từ từ bò trở về chiếc xe. Cam-Thanh trao cho ba người ba viên thuốc chống độc, rồi truyền lệnh:
- Đem chúng đi thẩm vấn.
Trịnh Nam-Phương vẫn bướng bỉnh:
- Mấy tên ăn mày khốn nạn kia! Lão nương thà chết chứ không khuất phục bọn bay đâu! Bọn bay cứ cho rắn cắn lão nương nữa đi. Lão nương mà nhăn mặt một cái thì không phải là người.
Nhị-Hào chưa biết phải hành sự ra sao, thì có tiếng Thủ-Độ dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:
- Con mụ này là một trong bọn đã sát hại mẫu thân ta. Em không cần nhân nhượng với mụ.
Nghe Thủ-Độ nói, Nhị-Hào cười nhạt nói với bang chúng:
- Mụ này tuy già, mà coi còn ngon gớm. Hãy đem mụ ra ngoài, lột quần áo cho bang chúng coi.
Hai thân binh dạ ran. Chúng nhắc Nam-Phương mang ra sân. Bang chúng bang Lĩnh-Nam hầu hết là những thiếu niên cùng khổ, lại hiếu động. Thấy có trò chơi lạ lùng, chúng tụ lại xung quanh mụ reo hò. Một thân binh nắm áo mụ kéo mạnh. Xoạc một tiếng, ngực mụ bị hở ra, hai vú trắng nõn phơi trước nắng ban mai. Bang chúng reo hò:
- Hay quá!
- Nom đẹp gớm.
Một bang chúng đã già, râu ria xồm xoàm, quần áo dơ bẩn tiến đến dơ tay như định chụp nhũ hoa của mụ.
Trịnh Nam-Phương kinh hãi, mụ nghĩ thầm:
- Cái bọn ăn mày này không thể nói chuyện đạo lý với chúng được. Nhưng ta nhất định không khuất phục, muốn đến đâu thì muốn.
Mụ quát lên:
- Bọn ăn mày khốn nạn. Bọn mi giết ta đi cho rồi. Ta nhất định không chịu khuất phục.
Nhị-Hào hất hàm ra lệnh, một thân binh lại cầm xiêm mụ giật mạnh, nửa thân dưới của mụ lõa lồ ra. Bang chúng reo hò khoái trá, reo hò:
- Ê hê! Cái bề hê đẹp quá!
- Ô hô! Tồng ngồng! Con cá diếc coi xinh tệ.
Địa vị trong võ lâm, Trịnh Nam-Phương là Vân-Đài tiên tử của phái Hoa-sơn, cao quý biết mấy. Tại Đại-Việt, có thời mụ từng là vợ Tể-tướng Đỗ An-Di, rồi chưởng môn phái Mê-linh. Bây giờ mụ phải phơi bày thân thể ra trước bọn ăn mày. Quá uất ức, mụ muốn ngất đi. Một liều ba bẩy cũng liều, mụ đành xuống nước:
- Xin...Xin cô nương tha cho tôi! Tôi xin đầu hàng.
Cam-Thanh cầm chiếc xiêm ném cho mụ, rồi ra lệnh:
- Đem mụ đi hỏi cung.
Cuối cùng chỉ còn mình Lâm Hoài-Đức. Y nghiến răng, nhắm mắt không nói, không rằng. Nhị-Hào thấy nếu cứ tình trạng này thì y sẽ chết vì nọc rắn độc. Chàng huýt sáo một tiếng, những con rắn trên người Lâm rơi xuống đất, rồi trở về xe. Cam-Thanh bóp miệng y ra, nhét vào một viên thuốc chống độc để y không chết. Nhị-Hào đang phân vân, không biết phải đối phó thế nào với gã họ Lâm, thì thình lình, một thân binh già xẹt ngang, vỗ tay lên đầu y một cái, rồi tung mình ra khỏi thành. Thân pháp y nhanh không thể tưởng tượng được. Nhị-Hào còn đang ngơ ngác, thì Lâm Hoài-Đức bật lên tiếng rên:
- Ái chà.
Rồi người y run lên bần bật:
- Rét quá! Rét quá. Tôi xin khuất phục.
Véo véo véo ba tiếng, ba viên thuốc từ phía vườn hoa bay đến trúng vào người Lâm Hoài-Đức. Y rùng mình một cái, cảm giác lạnh biến mất. Nhị-Hào chạy ra vườn hoa xem ai phóng thuốc, thì chỉ thấy một nữ bang chúng tung mình chạy vễ phía Tây thành.
Sau khi lấy cung xong, Nhị-Hào dẫn cả bọn vào đại phủ đường. Chàng hô lớn:
- Quỳ xuống.
Cả bọn líu ríu quỳ gối.
- Ngửa mặt lên.
Cả bọn ngửa mặt nhìn lên. Bất giác chúng rùng mình, dơ tay dụi mắt. Vì trên chiếc ghế bọc da hổ đặt giữa công đường, Thủ-Độ ngồi chễm trệ, miệng mỉm cười. Chúng thấy gương mặt Hầu quen quen, mà trong nhất thời không nhận ra.
Trước đây bọn Lâm Hoài-Đức đã từng thấy Thủ-Độ trong ngày thi võ Tiến-sĩ. Hơn nữa bọn chúngï từng so tay với Hầu. Nhưng nay bọn chúngï không nhận ra Hầu, bởi sau khi bị dìm dưới sông, sặc nước, thần chí trở thành mơ hồ. Tiếp theo bị bọn Nhị-Hào tra tấn, làm nhục, bằng những phương pháp quái gở của dân gian, tâm thần bị khủng hoảng, chúng gần như người mất trí. Hơn nữa, mấy năm qua Thủ-Độ lớn lên, khuôn mặt thay đổi quá nhiều, nên chúngï không nhận ra Hầu. Khi bị tra tấn, chúng biết việc này do tên lãnh chúa ăn mày vùng Quốc-oai, lĩnh chức Khả-hãn chủ động. Lãnh chúa Quốc-oai mà đã khủng khiếp như vậy mà bây giờ chúng đang đối diện với tên vua ăn mày Đại-hãn, thì không hứa hẹn thoát khỏi những cực hình kỳ quái. Chúng đành cúi mặt xuống để tránh cơn sấm sét. Nhị-Hào cầm tờ cung của chúng trình:
- Thưa Đại-hãn, bọn này quả là Khâm-sứ của gã vua Gia-định bên Tống sai sang ta. Chúng có ba nhiệm vụ. Nhiệm thứ nhất là khống chế tên Long-Sảm, bắt truyền ngôi cho tên Đàm Dĩ-Mông, rồi giữ ngôi vua cho Mông để dễ sai khiến. Nhiệm vụ thứ nhì là đâm bị thóc, chọc bị gạo cho Đại-Việt ta chia ra thành nhiều sứ quân. Đại-Việt dần dần trở thành yếu, không còn là mối lo cho Tống nữa. Nhiệm vụ thứ ba là ép Đàm Dĩ-Mông cung ứng lương thảo cho Tống, để Tống ra quân đánh Kim.
Thủ-Độ định làm nhục bọn Tống nữa, thì thân binh vào báo:
- Thái-úy Trần Tự-Khánh và Thái-phó Phạm Kính-Ân tới.
Hầu vội vàng ra đón. Lễ nghi tất. Kính-Ân giả bộ hỏi:
- Những người này là ai vậy?
Thủ-Độ trả lời lơ mơ:
- Thưa thầy, đây là bọn cướp người Tầu. Hôm qua chúng cướp hai thuyềøn buôn, rồi chẳng may thuyền bị chìm. Hương binh hiệu Quốc-oai vớt chúng lên. Chúng mạo xưng là Thiên-sứ.
Lâm Hoài-Đức đã nhận ra Phạm Kính-Ân, y lên tiếng:
- Phải chăng tiên sinh là Thái-phó Phạm Kính-Ân? Hẳn tiên sinh nhận ra chúng tôi?
Thấy Lâm xuống nước, không hống hách với chức Thiên-sứ nữa, Phạm Kính-Ân hỏi ngược lại:
- Phải chăng người là Lâm phó sứ thủa nào? Kìa sao ba vị Đinh bồi sứ cũng có mặt ở đây? Ấy à, kìa Vân-Đài tiên tử, người chẳng là phu nhân của tể tướng Đỗ An-Di sao? Các vị đi đâu mà thân thể tàn tạ đến bậc này?
Ông nói với Thủ-Độ:
- Những vị này quả là người của Thiên-triều.
Rồi ông hô thân binh cởi trói cho chúng, lại truyền dẫn chúngï đi tắm, trả y phục, hành lý cho chúngï.
Thủ-Độ truyền pha trà, lấy bánh cho bọn Tống ăn. Chúng đã nhận được hầu. Trong lòng chúng tự chửin thuyền, lão cất tiếng rao:
- Phơ...ơ...ơ...ơ.
Minh Minh hỏi:
- Thưa chủ nhân, phở là món ăn gì vậy?
- À, món này ngon hơn mì của Trung-quốc nhiều.
Nói đến đây, Hầu chợt nhớ đến những lần cùng Thập-bát anh hào ăn phở ở Thăng-long. Hầu gọi:
- Phở.
- Dạ.
- Ông cho tôi năm bát phở gà. Nhớ thêm trứng non nghe!
- Dạ.
Lão hàng phở nhúng bánh, thái thịt thực nhanh. Phút chốc đã xong năm bát. Lão bỏ vào khay, rồi ra lệnh cho cô gái:
- Con bưng phở xuống thuyền cho khách.
Cô gái bưng khay phở, leo qua tấm ván làm cầu nối từ bờ tới thuyền. Thủ-Độ chợt để ý đến bước chân của cô. Cô lướt nhẹ nhàng, rõ ràng là thân pháp Đông-a. Vào khoang thuyền, cô đặt 5 bát phở trước mặt Thủ-Độ. Cô nhìn Hầu nhoẻn miệng cười. Hầu còn đang ngạc nhiên, thì cô hỏi nhỏ:
- Những người quanh Đại-hãn có tin được không?
Nghe tiếng nói, Hầu mới nhận ra cô gái là Cửu-Anh. Hầu nói nhỏ:
- Em hóa trang hay quá, đến anh cũng không nhận ra. Em yên tâm, người trong thuyền này đều tin được.
Cửu-Anh ngồi xuống cạnh Thủ-Độ:
- Từ khi Đại-hãn đi rồi, thì người lãnh đạo chúng em là Nguyên-sư Trần Thừa. Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh thì tổng chỉ huy bọn em. Công việc trong bang tiến triển tốt đẹp.
- Thế Tổng-lĩnh Khả-hãn Phạm Kính-Nghĩa đâu?
- Phạm sư huynh được phong làm An-phủ kinh lược sứ Gia-lâm, thành ra người bị quan trường ràng buộc, nên khoa xoay sở.
- Ta có một thắc mắc rằng sau khi đỗ võ Tiến-sĩ, Cửu-Hào đã được bổ nhiệm vào những chức gì?
- Dù Cửu-Hào đỗ võ tiến sĩ, nhưng không phải là học trò Lĩnh-Nam ngũ hổ tướng nên không được bổ nhiệm làm võ tướng. Tuy vậy, các anh ấy lại được bổ nhiệm làm chức Đoàn luyện sứ tại các phủ, các trấn.
- Đoàn luyện sứ là chức gì vậy?
- Là chức quan võ, trông coi việc huấn luyện Hoàng-nam, tráng đinh, dân đinh trong các xã.
Thủ-Độ vỗ đùi reo lên:
- Vậy thì, nhiệm vụ của chức này, không khác gì chức Khả-hãn mà anh trao cho các em. Có điều trước kia, anh nhân danh cái rối loạn của dân, rồi xướng xuất ra mà làm. Bây giờ lại do triều đình trao phó cho. Thực là danh chính, ngôn thuận.
- Vâng. Cho nên Cửu-Hào công khai tổ chức, kết hợp người của bang Lĩnh-Nam thành những đội hương binh, tinh nhuệ hơn cả binh của triều đình. Trước kia anh sợ bọn mặt dơi tai chuột trong triều dèm pha, nên chỉ cho tổ chức hương binh thành từng toán một trăm người, gọi là Đội. Bây giờ các Cửu-Hào trở thành Đoàn-luyện sứ, thì danh chính, ngôn thuận, nên Nguyên-sư Trần Thừa ra lệnh kết hợp mười đội thành một Vệ. Mỗi Vệ nghìn người, mới đủ khả năng bảo vệ thôn xã.
- Thế Cửu-hào coi những vùng nào?
- Long-hưng, Quốc-oai, Bắc-giang, Hải-Đông, Trường-yên, Kiến-xương, Hồng-khoái, Thanh-hóa, Hoàng-giang.
- Trong bang, những ai coi vùng Thăng-long?
- Là bọn con gái chúng em. Nhất-Anh coi Tây-hồ. Nhị-Anh coi Gia-lâm. Tam-Anh coi Cổ-loa. Tứ-Anh coi Long-biên. Ngũ-Anh coi Bắc-ngạn. Quân của Nhị-Anh mạnh nhất trong vùng Thăng-long, vì An-phủ sứ Gia-lâm Phạm Kính-Nghĩa giúp đỡ ngầm.
- Còn Thiên-trường, Diễn-châu, Đồn-sơn, Tiên-yên?
- Thì Lục, Thất, Bát, Cửu anh.
Thủ-Độ hoang mang vô cùng. Hầu hỏi:
- Ban nãy, anh nghe viên Tham-tá Cù Quang kể rằng Phó đề đốc Đặng Vũ đem quân đi bắt cướp. Mà cướp là bang Lĩnh-Nam. Vụ này ra sao?
Cửu-anh mỉm cười:
- Bọn em đâu có đi ăn cướp? Bởi trong nước hỗn loạn. Thái-sư Đàm Dĩ-Mông theo phò Hoàng-tử Thẩm. Còn sư bá Trần Lý thì phò Thái-tử Sảm. Dĩ nhiên bang Lĩnh-Nam theo Trần sư bá. Còn Đặng Vũ thì y theo Đàm Dĩ Mông. Tuy bây giờ Hoàng-tử Thẩm bị bại, Đàm Dĩ Mông bị thất thế. Nhưng tên Đặng Vũ vẫn biên thùy môt cõi. Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh lệnh cho em phải chiếm trấn Tiên-yên. Trong khi Đặng Vũ bắt bọn em theo y. Bọn em không chịu. Đặng Vũ đem quân đánh bọn em. Để tránh tương tàn, ta giết ta. Chúng em tản vào dân chúng. Nên y tìm không ra. Trong khi bọn em vẫn ở sát nách y. Đêm nay bọn em đánh úp trấn này.
Thủ-Độ lắc đầu tỏ ý không hiểu:
- Em thuật cho anh nghe uyên nguyên tại sao lại có nội chiến tương tàn như thế này!
Cửu Anh khoan thai thuật:
«...Niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ tư (Mậu Thìn, Dl. 1208) Giặc nổi lên ở Thanh-hóa. Thế cực lớn. Vua Cao-tông sai Tả Kim-ngô thượng tướng quân Phạm Du làm Tổng-trấn Thanh-Nghệ ».
- Cái gì là... vua Cao-tông?
- Anh ngạc nhiên cũng phải, cái ông vua có tên là Long-Trát sai anh đi sứ đó, băng hà rồi. Thái-tử Sảm lên nối ngôi, đặt miếu hiệu cho ông ta là Cao-tông. Để em thuật tiếp.
«...Quách Bốc coi Khu-mật viện tâu rằng: Nhân nắm binh quyền trong tay, Du làm phản. Một mặt Du đem quân ở Nghệ-an, Thanh-hóa tiến ra. Một mặt chân tay của Du ở Quốc-oai cất quân theo Du, đánh về Thăng-long. Vua sai Phụng-ngự là Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di làm chánh tướng. Hổ-uy đại tướng quân Quách Bốc, Chinh-viễn đại tướng quân Phạm Bỉnh-Du làm phó tướng. Bỉnh-Du là con Di; đem quân đi dẹp. Du bị thua, bỏ Thanh-Nghệ chạy ra Quốc-oai. Bỉnh-Di, Quách Bốc, Bỉnh-Du kéo quân về Quốc-oai, đánh tan quân Du, nhân đó đem võ sĩ về quê Du bắt hết vợ, con, gia thuộc xử tử tận số. Lại tịch biên gia sản đốt hết. Du trốn thoát về kinh vào triều kiến vua, kêu oan rằng: Thần tuân chỉ bệ hạ, đem quân vào Thanh-nghệ dẹp giặc. Không ngờ bị Phạm Bỉnh-Di vì tư thù cáo gian. Bệ hạ tin lời, sai y cầm quân đánh hạ thần. Hạ thần biết Di tuân chỉ, mà đem quân đến, nên không dám chống cự. Di lợi dụng có chiếu chỉ trong tay, đem quân giết ba họ nhà thần. Vua giận lắm, sai sứ gọi Phạm Bỉnh-Di, Quách Bốc về kinh. Bỉnh-Di dẫn con là Bỉnh-Du vào triều kiến vua. Có người mách Di rằng: Chớ có vào triều kiến. Vào thì sẽ bị vua xử trảm. Vì vua đã nghe lời kêu oan của Phạm Du rồi. Ỷ vào thế quân của mình mạnh, lại đang đóng ngoài thành Thăng-long. Di nói: Ta tuân chỉ vua mà ra quân dẹp giặc, ta há sợ lời xàm tấu của giặc ư? Vả vua có chỉ triệu hồi, ta còn trốn vào đâu được?
Bỉnh-Di dặn Quách Bốc: Sự đã như thế này, ta cứ vào triều kiến. Nếu như vua nghe lời Phạm Du làm tội ta, thì hiền đệ đem quân vào phá ngục cứu ta ra. Bỉnh Di dẫn Bỉnh-Du vào bệ kiến. Bỉnh-Di đối chất vối Phạm Du, bị yếu lý. Vua sai bắt cha con Di giam lại, rồi tuyên chỉ gọi Quách Bốc vào chầu. Bốc thấy nguy, kéo quân vây Hoàng-thành. Vua nổi giận sai lấy giáo đâm chết cha con Bỉnh Di, rồi cùng Hoàng-hậu bỏ kinh thành chạy lên Quy-hóa. Bọn Quách Bốc lấy chiếu của vua bọc xác cha con Bỉnh Di, dùng xe vua chở khắp Thăng-long cho hả dạ kẻ chết oan.
Quách triệu tập các quan lại, tuyên bố: Hôn quân vô đạo, nghe lời giặc, giết hại danh tướng cầm quân. Nay không biết ở đâu. Nước một ngày không thể không vua. Vậy hãy lập Hoàng-tử Long-Thẩm lên nối ngôi. Long-Thẩm phong cho Quách Bốc làm Phụ-quốc thái úy. Đàm Dĩ-Mông làm Thái-sư. Nguyễn Chính-Lại làm Thái-phó. Hơn 20 người nhận chức của Long-Thẩm. Lại truy phong cho Phạm Bỉnh-Di làm Trung-vũ đại vương. Bỉnh-Du làm Nghĩa-thành công.
Bọn Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng không phục Quách Bốc. Hai người dấy quân chống lại, mỗi người hùng cứ một phương. Trong nước thành ra ba sứ quân đánh nhau.
Còn Thái-tử Sảm thì bỏ chạy về Hải-ấp, trấn Thiên-trường nương nhờ Thần-nông sứ Trần Lý. Trước hoàn cảnh đất nước hỗn loạn, dân chúng khốn khổ đến nỗi sống không nổi, mà chết cũng không xong. Thần-nông sứ Trần Lý triệu tập chư vị chưởng môn, chư vị đại tôn sư các phái, để xin quyết định rằng, có nên giúp Thái-tử Sảm dẹp giặc không? Các tôn sư đều quyết định: Tuy hơn trăm năm qua, triều Lý đã làm không biết bao nhiêu điều khiến cho đất nước ly loạn, dân chúng khốn khổ. Nhưng nay trước nạn giặc dã nổi lên khắp nơi. Sĩ dân phải tuốt gươm dẹp giặc. Sau khi yên dân, ta sẽ ép triều đình phải cải cách.
Anh hùng các nơi bầu Thần-nông sứ Trần Lý làm thủ lĩnh.
Thần-nông sứ Trần Lý được Thái-tử Sảm phong cho chức Phụ-quốc thái-úy, Bình-chương quân quốc trọng sự, Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử. Khai-hoang sứ Tô Trung-Từ hàm Đặc-tiến Thiếu-bảo, Binh-bộ thượng thư, Uy-viễn đại học sĩ, kiêm chức Điện-tiền chỉ huy sứ. Đại đô đốc Phùng Tá-Chu hàm Hiệp-tán Thái-bảo, quản Khu-mật viện, tước Long-biên công. Nguyên-sư bản bang Trần Thừa hàm Thái-tử thiếu bảo, Tham-tri chính sự, Văn-minh điện đại học sĩ, lĩnh Bình-lỗ thượng tướng quân, Thượng-thư lệnh kiêm trung thư lệnh. Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh hàm Thái-tử thái bảo lĩnh Phiêu-kỵ thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh. Hữu hộ pháp Phạm Kính-Ân hàm Thái-phó thượng trụ quốc, lĩnh Lại-bộ thượng thư, Càn-nguyên điện đại học sĩ, tước Đông-triều quốc công.
Thái-tử Long-Sảm cầu hôn Lễ-vụ bản bang Trần-thị Kim-Dung ».
- Sao? Cái gì? Y cầu hôn Kim-Dung à?
Thủ-Độ chết điếng người đi: Anh chắc sư bá Trần Lý không gả.
- Người gả mới khổ chứ!
- Trời!!!
« Thái-úy không mấy đồng ý. Song anh hùng các nơi khuyên rằng: Thái-tử Sảm vốn là người dễ bị ảnh hưởng bởi kẻ xấu. Mà Kim-Dung là một nữ trung hào kiệt. Nếu Kim-Dung làm vương phi của Long-Sảm, thì người có thể kiềm chế được y ».
Chân tay Thủ-Độ run lẩy bẩy, tai Hầu ù đi:
- Thế là hết! Hỡi ơi! Kim-Dung từng hứa với ta rằng nàng biết có ta. Thế mà nay lại chịu lấy tên mặt dơi Long-Sảm! Suốt mấy năm ở Mông-cổ, ngày ta nhớ, đêm ta tưởng. Thế mà bây giờ hóa ra một tuồng hư ảo!
« Thái-úy Trần Lý truyền một hịch đi khắp nơi kể tội bọn Quách Bốc, Đàm Dĩ-Mông, rồi kêu gọi các trấn đem quân về dẹp giặc. Hầu hết các Tuyên-vũ sứ, An-phủ sứ đều án binh bất động. Tuy vậy với lực lượng đệ tử của các gia, các phái, của Thủy-quân, Thái-úy đem quân về đánh với quân của Quách Bốc. Cuộc chiến kéo dài mấy tháng mà vẫn không khôi phục được Thăng-long ».
- Tại sao lại vô lý như vậy. Một bên là hào kiệt, các võ phái lại có chính nghĩa, mà không thắng được bọn Quách Bốc ư?
- Giản dị thôi. Về chính nghĩa thì một bên là Hoàng-tử Thẩm, một bên là Thái-tử Sảm. Hai người đều là con vua. Chả ai hơn ai cả. Hoàng-tử Thẩm có lợi thế là hầu hết các quan văn võ trong triều đều ở Thăng-long, nên họ phải theo y. Còn phía Thái-tử Sảm tuy được các võ phái, nhất là lực lượng phái Đông-a phò tá, nhưng quân là quân ô hợp, tướng không kinh nghiệm cầm quân. Trong khi quân của Quách Bốc là quân triều, thiện chiến, tướng kinh nghiệm chiến đấu.
«... Sau Nguyên-sư Trần Thừa, Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh, Tổng-lĩnh Khả-hãn Phạm Kính-Nghĩa âm thầm họp với các Khả-hãn quanh Thăng-long để yêu cầu giúp Thái-tử Sảm. Cuộc họp gồm các Khả-hãn vùng Tây-hồ, Gia-lâm, Cổ-loa, Long-biên, Bắc-ngạn, Thiên-trường. Nhưng thất bại. Bởi không Khả-hãn nào chịu giúp Thái-tử Sảm".
Từ đầu đến cuối, phó sứ Chu Mạnh-Nhu không nói một tiếng nào. Bây giờ y mời hỏi:
- Thưa cô nương! Bang Lĩnh-Nam do Khâm-sứ đại nhân làm bang trưởng. Nay người đi vắng, thì Nguyên-sư hay Tả Hữu hộ pháp có sẽ thay thế. Vì quốc sự, ba vị đó ra lệnh, mà các Khả-hãn chống lại ư?
- Nguyên-sư, Tả Hữu hộ pháp cũng như Phó-sứ đại nhân, không ai biết mục đích nguyên thủy thành lập bang, vì vậy không ai hiểu chúng tôi cả.
- Xin cô nương nói rõ hơn.
- Lúc thành lập bang, chỉ có Đại-hãn, Kim-Dung, Mỹ-Vân, Thập-bát anh hào tổng cộng 21 người. Tôn chỉ của chúng tôi là Lời nguyền Chân-giáo, Lời nguyền Tây-hồ và Lời nguyền trước lăng Quốc-tổ tức lời nguyền Hy-cương. Chúng tôi cùng thề rằng, bất cứ trường hợp nào, cũng không thay đổi tôn chỉ đó.
- À, tôi không biết nội dung ba lời nguy10px;'>
Kim-Dung biết người yêu của mình sống ở vùng Thảo-nguyên, nhiễm phong tục ở đó rồi, khó mà giải thích đạo lý tộc Việt cho y lọt tai được. Nàng chưa biết phải giảng giải như thế nào thì có tiếng trầm trầm từ trong khoang thuyền vọng ra:
- Đại-Việt là Đại-Việt.Thảo-nguyên là Thảo-nguyên. Đạo lý cũng thế. Ta không thể đem đạo lý Thảo-nguyên ra áp dụng ở Đại-Việt, cũng không thể đem đạo lý Đại-Việt ra áp dụng ở Thảo-nguyên.
Thủ-Độ, Kim-Dung kinh hãi, vì nội công hai người đều luyện tới mức thượng thừa. Thế mà, ai đó ẩn trong khoang thuyền, cả hai người đều không khám phá ra.
Thủ-Độ ôn tồn hỏi:
- Tôn giá là ai?
Có tiếng đáp trong như cam thảo:
- Bố, mẹ đây.
Thủ-Độ nhận ra tiếng Thúy-Thúy. Hầu mở cửa khoang thuyền. Bên trong có hai người, Thủ-Huy, Thúy-Thúy.
- Bố! Mẹ! Bố mẹ về bao giờ vậy?
- Chúng ta về Thăng-long cũng mấy tháng.
Thúy-Thúy đáp:
- Nhưng chúng ta không ra mặt. Chúng ta chỉ mới gặp riêng bác Lý gái, cậu mợ Tô Trung-Từ, cô chú Phùng Tá-Chu.
Bây giờ Thủ-Độ mới biết tên hương binh phóng Huyền-âm độc tố vào người Lâm Hoài-Đức là bố mình. Còn người phóng thuốc giải cho y là Thúy-Thúy. Hầu hỏi:
- Mẹ! Việc đi sứ Tống kết quả ra sao?
- Tốt đẹp! Hiện Thành-cát Tư-hãn tạm rút quân về nghỉ ngơi. Tống ước hẹn, nếu như sau này Mông-cổ xuất quân, thì Tống cũng sẽ đem quân tái chiếm Biện-kinh, Lạc-dương, Trường-an.
- Thế??? Sao bố mẹ lại được về đây?
- Sau khi rời Tống, bố mẹ trở lại Mông-cổ, báo cho Thành-cát Tư-hãn biết tình hình. Bố gặp Thái-sư thúc Phạm Tử-Tuệ mà con thỉnh dùm, sang trị bệnh cho Thánh-cát Tư-hãn, bố mới biết tình hình ở trong nước. Vì vậy bố mẹ trở về đây.
- Tình hình Mông-cổ ra sao?
- Trước hết là Bác Khô La (Borogul), Dược Sơ Đài (Jurcadai) lâm trọng bệnh, qua đời. Mùa Xuân năm thứ 8 (DL.1213, Quý Dậu, bên Đại-việt là Kiến-gia năm thứ 4 đời vua Huệ-tông),
Ghi chú của thuật giả
Thành-cát Tư-hãn lên ngôi vua năm 1206 nhằm năm Bính Thìn, bên Đại-Việt là niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ nhì đời vua Cao-tông nhà Lý. Cho đến nay 1213 là năm thứ 8.
Thành-cát Tư-hãn ước hẹn với Tống, rồi xuất quân đánh Kim. Lần này, Tư-hãn nể lời mẹ Thúy-Thúy với bố, ban nghiêm lệnh cấm quân sĩ không được cướp của, giết người, đốt nhà. Chiến thuật cũng đổi: Trước kia, khi gặp thành khó đánh, thì bỏ lại sau, rồi tỏa ra cướp phá. Bây giờ ra quân này với mục đích chiếm đất cai trị, di dân Thảo-nguyên vào Quan-nội. Vì vậy tất cả các thành đều phải đánh chiếm, đặt quan cai trị. Ba cánh quân chia nhau đánh Sơn-Tây, Sơn-Đông, Hà-Bắc, rồi kéo về Yên-kinh. Giữa lúc quân Mông-cổ đang công hãm bên ngoài, thì trong thành Yên-kinh xẩy ra một cuộc nổi loạn.
Thủ-Độ kinh ngạc:
- Dân chúng nổi lên chống Kim chăng?
- Không! Bọn tướng sĩ Kim, gốc Liêu cùng Hồ Sa Hổ đem quân giết vua Kim là Vĩnh-Tế. Thành-cát Tư-hãn cho rằng quân lính nổi loạn, ắt mở cửa cho Mông-cổ vào. Người ra lệnh lui quân mười dặm, chờ đợi. Nhưng không, Hồ Sa-Hổ chỉ giết vua Kim, chứ không phản lại nước Kim. Y lập một người trong hoàng tộc lên lên ngôi, rồi chỉnh bị quân mã mở cửa thành ra đánh úp quân Mông-cổ. Bị tập kích bất ngờ trong đêm, quân Mông-cổ lại đóng rải rác, không tập trung kịp, bị thiệt hại nặng nề. Đúng ra sự thiệt hại còn cao hơn nữa. Nhưng may mắn, cánh quân của Cao Chi có mục đích đánh vào sau lưng Mông-cổ, tới chậm mất nửa ngày, nên quân Mông-cổ chạy thoát được, rồi tập trung lại phản công.
- Ái chà! Từ trước đến giờ Hồ Sa Hổ với Cao Chi vốn hiềm khích, ghen tài nhau. Kỳ này chắc Hồ giết Cáo?
- Đúng thế, cũng may Hồ bị bệnh nặng, hơn nữa Kim đế can thiệp, nên Cao Chi chỉ bị giáng chức mà thôi. Kim-Đế trao quyền Thái-úy cho Cao Chi. Cao Chi xuất quân đuổi Thành-cát Tư-hãn tới Bôi-lai. Quân Kim đã kinh nghiệm về chiến thuật của Mông-cổ, vì vậy trận chiến diễn ra ngày đêm, kéo dài trong mười ngày, Cao Chi bị bại. Y dẫn quân chạy về Yên-kinh. Biết lần này, Hồ Sa-hổ sẽ giết mình, nên Cao Chi ra tay trước. Y đem võ sĩ bao vây phủ Thái-úy, bắt Hồ Sa-Hổ chặt đầu, rồi vào Hoàng-thành yết kiến nhà vua, kể tội Hồ Sa-Hổ giết Vĩnh-Tế. Nhà vua giao xuống đình thần nghị tội Hồ, rồi khen thưởng Cao Chi, trao cho chức Phụ-quốc Thái-úy.
Trong lúc Yên-kinh rối loạn như vậy, thì quân Mông-cổ trở lại vây Yên-kinh. Cao Chi sai bộ hạ biết tiếng Mông-cổ leo lên mặt thành gọi Thành-cát Tư-hãn tới, chế ngạo rằng ông là vua của chim điêu, mà sao không bay vào thành?
Thành-cát Tư-hãn căm hận, nhưng không làm sao được. Các tướng khuyên nên lui binh. Ngược lại, ông gửi lệnh về cho các Khả-hãn: Hãy dẫn dân chúng Thảo-nguyên vượt Vạn-lý trường-thành vào Quan-nội tránh mùa Đông. Bộ tộc nào muốn lập nghiệp trên đất Trung-quốc thì ở lại. Có hàng nghìn bộ tộc nhỏ di cư vào Sơn-Tây, Sơn-Đông, Hà-Bắc. Họ thấy vùng đất nào trù phú, nhà cửa đẹp đẽ thì đuổi dân bản sứ đi, rồi cắm dùi lại.
Thành-cát Tư-hãn chia quân làm ba đạo. Đạo thứ nhất do hoàng-đệ Cát-Sa tiến chiếm đồng bằng Nam Mãn-châu. Đạo thứ nhì do ba vương-tử Truật Xích, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài chỉ huy, tiến xuống miền Nam. Đạo thứ ba do chính Thành-cát Tư-hãn với vương tử Đà-lôi chỉ huy, bình định đồng bằng Đông-Nam tỉnh Sơn-Đông. Lần này, cứ một Thiên-phu Mông-cổ thì có ba Thiên-phu thân binh Trung-quốc theo ra trận.
Trong 6 tháng Thu-Đông, quân Mông-cổ chiếm gần trọn Hoa-Bắc. Đến hết mùa Đông, có hàng nghìn bộ tộc Thảo-nguyên đã định cư ở Quan-nội. Thành-cát Tư-hãn truyền giao quyền cai trị cho các quan người Hán, việc trấn thủ cho các binh đoàn thân binh Trung-quốc. Còn quân Mông-cổ kéo về Yên-kinh. Biết rằng có đánh Yên-kinh cũng không nổi. Ông gửi sứ giả vào thành nói với hoàng đế Kim: Hoa-Bắc đã vào tay ta. Dân chúng đã theo ta. Tài nguyn, nên không hiểu nổi. Cô nương có thể tiết lộ cho tôi nghe đôi chút về ba lời nguyền đó chăng?
Cửu-Anh đưa mắt nhìn Thủ-Độ ngụ ý hỏi: Có nên nói không? Thủ-Độ gật đầu. Cửu-Anh tóm lược ba lời nguyền cho Mạnh-Nhu nghe, rồi kết luận:
- Lời nguyền tuy dài, nhưng tóm lại có ba điều tối quan trọng. Một là hy sinh thân mình cho sự nghiệp Đại-Việt. Dù điều xấu đến đâu cũng làm, miễn là có lợi cho đất nước. Hai là lật đổ triều Lý. Ba là giết bọn Gia-thụy ngũ anh, bởi chúng là những kẻ thù không đội trời chung của Đại-hãn.
Mạnh-Nhu chợt hiểu:
- Vì vậy các Khã-hãn không giúp Sảm, cũng chẳng theo Thẩm. Bởi cả hai đều là kẻ thù của Khâm-sứ đại nhân.
- Rồi sau ra sao?
Thủ-Độ hỏi:
- Cuối cùng tại sao các em giúp Sảm?
"... Chúng em căn cứ vào điều thứ nhất, hy sinh thân mình cho sự nghiệp đất nước. Nguyên do, chiến cuộc kéo dài, dân Thăng-long khổ quá, bọn Khả-hãn quanh Thăng-long mới chịu ra quân. Nhưng chỉ ra quân giúp Thái-úy Trần Lý, Nguyên-sư Trần Thừa, Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh, chứ không giúp triều Lý. Thế rồi chỉ một trận bọn Quách Bốc bị đánh bại.
Chiến thắng, Thái-úy đón vua hồi loan. Người truyền trừng phạt bọn Đàm Dĩ-Mông, Nguyễn Chính-Lại, Quách Bốc để làm gương cho bọn gian thần tặc tử. Nhưng nhà vua nghe lời Đàm hoàng hậu, ân xá bọn Dĩ-Mông, lại trao trọng quyền cho chúng. Ngược lại, Đàm hậu sai người kể tội Kiến-khang vương, Kiến-bình vương, Gia-chính hầu Long-Nguyên, Nam-chính hầu Long-Toàn, phò mã Lê Tự-Anh... hơn ba chục người trong tôn thất...rằng theo giặc. Truyền bắt cả nhà đem giết. Số người trong tôn thất chết đến hơn năm nghìn. Đến nỗi, họ Lý gần như tuyệt tự. Trong số những người đó, duy một mình Kiến-bình vương Long-Tường cùng gia nhân, trước đó, trong lúc hỗn loạn, chạy về Hải-ấp nương nhờ phái Đông-a, nên thoát chết.
Tuy khôi phục Thăng-long, lập lại trật tự, nhưng đất nước vẫn loạn, các An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ vẫn không quy phục triều đình. Nguyên do, Đàm hoàng hậu ban mật chỉ cho họ chống lại Thái-úy Trần Lý ».
- Thế, Thái-hậu Vương Thụy-Hương có còn tại thế không?
- Trong lúc Quách Bốc đem quân làm loạn, xa giá rời kinh đô, Thái-hậu bị lạc. Cho đến nay cũng không biết tin tức.
- Thế bọn An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ lấy lực lượng đâu mà chống lại triều đình?
- Lực lượng của bang Lĩnh-Nam ta.
- Tại sao các Khả-hãn lại theo bọn chúng?
- Thì lệnh của Đại-hãn đã dặn dò bọn em rằng, phải biết mềm mỏng. Ở vùng nào, phải hết sức theo lệnh điều động của họ. Cho nên mỗi An-phủ sứ đều có một Vệ hương binh, do Khả-hãn chỉ huy theo giúp.
«...Niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ 6 (Canh Ngọ, DL.1210). Trong khi chỉ huy dẹp giặc, Thái-úy Trần Lý bị trúng tên tử thương. Triều đình truy phong chức tước như sau:
Kiểm hiệu Thái-sư.
Thượng trụ quốc,
Khai phủ nghị đồng tam tư.
Trung-vũ quân tiết độ sứ.
Phụ quốc đại tướng quân.
Ninh-quốc đại vương.
Triều đình lấy chức tước của người, phong cho con người là Trần Thừa và Trần Tự-Khánh ».
Thủ-Độ ngắt lời:
- Hai anh ta được phong chức tước gì?
- Trần Thừa được phong Đặc-tiến Thiếu-bảo Đồng-bình chương sự, Chiêu-văn quan đại học sĩ giám tu quốc sử, Thượng-thư lệnh, kiêm Trung-thư lệnh. Trần Tự-Khánh làm Phụ-quốc thái-úy, Long-thành tiết độ sứ, Tả Kim-ngô thượng tướng quân.
- Thôi em thuật tiếp đi.
- Vâng.
«... Hoàng thượng sai Thượng-phẩm phụng ngự Đỗ Quảng đem quân đón Thái-tử Sảm với vương phi về Thăng-long. Nhưng Đàm hoàng hậu mật dặn Đỗ Quảng chỉ đón Thái-tử thôi, còn vương phi Kim-Dung thì trả về nhà cha mẹ. »
Thủ-Độ chửi:
- Con bà nó, từ hơn trăm năm nay, những con mụ Thái-hậu, Hoàng-hậu trong triều cứ xen vào quốc sự, thành ra đất nước đảo điên. Cái gã vua Cao-tông với tên mặt thịt Long-Sảm đã phải bỏ Thăng-long lưu lạc. Không có nhà ta, sao có thể khôi phục ngôi vua? Thế mà vừa về Thăng-long, con mụ thối tha Đàm Ngọc-Anh đã dở thói ăn cháo đá bát. Anh Trần Thừa của ta, vốn là người đại lượng, ắt bỏ qua vụ này. Nhưng anh Tự-Khánh thì anh không để yên đâu.
«...Tháng 10, vua không khỏe, người tuyên triệu Thái-sư Đỗ Kính-Tu vào cung nhận mệnh ký thác. Ngày 28, vua băng ở cung Thánh-thọ. Thái-tử Long-Sảm lên ngôi trước linh cữu, đặt miếu hiệu cho phụ hoàng là Cao-tông, lại ban chế tôn mẹ là Hoàng-hậu họ Đàm lên làm Hoàng-thái-hậu rồi sai thuyền ngự đi đón vương phi Kim-Dung. Nhưng bấy giờ đường Thăng-long đi Thiên-trường bị giặc chiếm cứ, nên Thái-úy Tự-Khánh từ chối không thể để vương phi đi ».
Ghi chú của thuật giả:
Đương thời, đang tại vị, thì Lý Long-Sảm dùng niên hiệu là Kiến-gia. Trong các văn kiện cũng như người đương thời gọi là Kiến-gia hoàng đế. Sau này Kiến-gia đi tu, lấy đạo hiệu là Huệ-Quang. Lúc băng, được tôn thụy hiệu là Huệ-tông.
Thủ-Độ cười nhạt:
- Ta đoán có sai đâu! Anh Tự-Khánh không cho Kim-Dung đi, có nghĩa rằng cuộc hôn nhân Lý Trần đã cắt đứt. Cái ngôi vua kia khó mà giữ nỗi.
«...Năm sau (Tân Mùi, DL. 1211) đổi niên hiệu là Kiến-gia nguyên niên. Nhà vua khám phá ra vụ Đỗ Quảng nhận chỉ dụ của vua Cao-tông đi đón vương phi Kim-Dung, mà lại vi chỉ nói rằng không có chỉ đón. Đỗ Quảng sợ bị tội, kéo quân làm loạn. Binh-bộ thượng thư Tô Trung-Từ đem quân dẹp Đỗ Quảng. Chỉ một trận, Trung-Từ phá tan quân Quảng, chém đầu y đem bêu ở chợ Tây-nhai. Nhà vua sai Phụng-ngự Phạm Bồ đi đón vương phi Kim-Dung về kinh, phong làm Nguyên-phi ».
- Rồi sao?
Thủ-Độ hỏi:
- Tình hình hiện nay ra sao?
- Những gì ta nói với hai con ở đây, ta cũng đã bàn với bà nội (bà Trần Tự-Hấp, nhũ danh Bùi Anh-Hoa), bác Lý gái (Bà Trần Lý, nhũ danh Tô Phương-Lan), với cậu mợ Tô Trung-Từ, cô chú Phùng Tá-Chu, với hai anh Thừa, Khánh. Hai con hãy nghe cho kỹ.
-???
- " Xưa, một nông dân lấy hai công chúa con vua Nghiêu là Nga-Hoàng, và Nữ-Anh, rồi tiếp ngôi mà thành vua Thuấn. Dân Trung-hoa coi đó là lý đương nhiên. Con rể hay con trai đều như nhau. Thế rồi các đời sau không ai làm thế nữa, mà chỉ truyền ngôi cho con trai. Bên Đại-Việt ta, Ngô Quyền lấy con gái của Dương Diên-Nghệ, rồi tiếp nối sự nghiệp họ Dương, mà lên ngôi vua, thiên hạ coi là chính đạo. Thập-đạo tướng quân Lê Hoàn nhờ Thái-hậu Dương Vân-Nga của vua Đinh mà được ngôi vua, thiên hạ coi là gian trá, tà đạo. Đức Thái-tổ nhà Lý là Lý Công-Uẩn nhờ làm phò mã của vua Lê, rồi cầm quân, được kế nghiệp họ Lê. Thiên hạ coi là chính đạo".
Thấy Thủ-Độ gật đầu tỏ ra hiểu ý mình, Thủ-Huy hỏi:
- Con thử nói ý ta xem có đúng không nào?
"... Suốt bao năm qua, bác Lý là Thần-nông sứ, cậu mợ Trung-Từ là Khai-hoang sứ, cô chú Phùng Tá-Chu là Hải-hà sứ... Con...con... là Đại-hãn. Ân đức nhà ta đã rải khắp thiên hạ, lòng người đều hướng về, mong đợi. Trong khi đó thì họ Lý đã hết phúc, triều đình thối nát, hậu cung dâm đãng. Ta có thể đoạt ngôi vua, mà mưu hạnh phúc cho dân được rồi đây".
- Giỏi! Nhưng muốn lấy ngôi vua, thì phải có chính nghĩa. Ta chưa có chính nghĩa như Ngô Quyền, như Lý Công-Uẩn.
- Thì chính nghĩa là lòng dân.
- Lòng dân ta có, nhưng, khi ta đoạt ngôi vua, sẽ có nhiều kẻ nhân danh trung hưng Lý triều mà khởi binh làm loạn.
- Vậy ta cũng tìm cách làm như vua Lý Thái-tổ.
- Đúng thế. Con hãy nghe cho kỹ này.
- Con nghe.
"...Long-Sảm hiện bị bệnh điên. Bây giờ về Thăng-long. Trong cung, Kim-Dung nắm lấy quyền như Ỷ-Lan xưa kia. Tại triều, Trần Thừa nắm trọn quyền cai trị, ban ân, bố đức cho dân. Bên ngoài, Tự-Khánh nắm trọn binh quyền. Cô Kim-Ngân, chú Tá-Chu nắm Thủy-quân. Cậu mợ Trung-Từ nắm hết thôn ấp. Còn con, vị trí của con mới cực kỳ quan trọng. Con nắm hết bọn An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ, cùng các hiệu hương binh. Như thế, nhà ta chưa lên ngôi vua, mà quyền hành ngôi vua ta đã có hết. Bây giờ ta tìm cách đưa một người trong nhà ta làm phò mã, rồi từ ngôi vị phò mã lên ngôi vua, thì chúng ta mới được coi là chính đạo".
Hôm ấy là rằm tháng Chạp, niên hiệu Kiến-gia thứ 6 (DL.1216, Bính Tý) Đại-Việt hoàng đế thiết đại triều tại điện Càn-nguyên. Đã bốn năm, kể từ ngày nhà vua lưu vong, đây là buổi thiết đại triều lần đầu tiên. Bách quan tề tựu đông đủ, đứng làm hai hàng. Hàng bên trái là quan văn, người đứng đầu là Trần Thừa, lĩnh chức Tả-bộc xạ (Tể tướng). Hàng bên phải là quan võ, người đứng đầu là Trần Tự-Khánh, lĩnh chức Phụ-quốc Thái-úy. Đội nhạc hơn trăm nhạc công tấu bản Nguyên-thọ:
Minh minh Thiên-tử,
Vạn dân sở vương.
Hiển hiển lệnh đức,
Như Khuê, như Chương.
Tuyên chiêu nghĩa vận,
Trường phát kỳ tường.
Thiên-tích thuần hỗ,
Vạn thọ vô cương.
(Vua ta sáng suốt,
Vạn dân ngước nhìn.
Đức tốt rừng rực,
Như Khuê, như Chương.
Ban gọi, nghĩa trọng,
Điềm lành tứ phương.
Trời ban phúc lớn,
Thánh thọ vô cương
).
Kiến-gia hoàng đế từ trong đi ra cùng Khâm-thiên Thạc-hòa Kiến-vũ hoàng hậu Trần Kim-Dung.
Lễ quan hô:
- Quỳ gối.
Bách quan cùng quỳ xuống.
Nhà vua ngồi lên ngai vàng ngồi. Kiến-vũ hoàng hậu ngồi trên chiếc ngai chạm hình con phụng đặt bên phải nhà vua.
Một đại thần, thân thể hùng vĩ, mắt rồng, trán hổ, mặt tươi hồng, dáng đi như kỳ lân bước ra quỳ tâu:
- Thần, Trần Thừa, Đặc-tiến Thiếu-bảo, lĩnh Tả-bộc xạ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Chiêu-văn quan đại học sĩ, Giám-tu quốc-sử, Thượng-thư lệnh kiêm Trung-thư lệnh, Gia-viễn quốc công kính tâu.
- Thiếu bảo bình thân.
- Chương trình nghị sự hôm nay có ba phần. Phần thứ nhất, Tổng-lĩnh thị vệ, Đằng-châu hầu Trần Thủ-Độ sẽ tâu trình về việc đi sứ Mông-cổ thỉnh phò mã Trần Thủ-Huy để trao quyền, cùng tình hình Kim, Tống, Mông-cổ. Phần thứ nhì, Phụ-quốc Thái-úy Trần Tự-Khánh tâu trình về tình hình bình định giặc dã. Phần thứ ba, Thái-phó Phạm Kính-Ân sẽ tâu trình về việc cải cách ruộng đất.
Nhạc tấu bản Viễn hành quy triều (Đi xa trở về chầu vua).
Tự Thiên-tử sở,
Thiên-tử mệnh chi.
Chấp sự hữu khắc,
Đức âm mạc vi,
Chưng tai mao sĩ.
Bạc ngôn hữu chi,
Duy kì hữu chi.
Bi nhiên lai ti.
Bảo hữu quyết thổ,
Bang gia chi ki.
(Tự nơi đức vua,
Đức vua sai đi.
Nhiệm vụ kính cẩn,
Quyết chẳng sai di.
Tốt thay tuấn sĩ,
Duy có người thôi.
Vui vẻ trở về,
Bảo vệ Xã-tắc,
Gốc của nước nhà).
Thủ-Độ cùng phó sứ Chu Mạnh-Nhu và bốn bồi sứ từ ngoài điện bước vào tung hô vạn tuế. Lễ quan hô:
- Quân hầu cùng sứ đoàn bình thân.
Từ hôm Thủ-Độ trở về, Hầu làm biết bao nhiêu việc nghiêng trời lệch đất, nhưng Kiến-gia hoàng đế không được tâu trình. Khi dẫn nhà vua trốn khỏi thành Bắc-giang, Hầu hóa trang thành một đội trưởng vệ sĩ, nhà vua không nhận ra Hầu. Sau đó, Hầu tránh mặt nhà vua. Cho đến nay nhà vua không biết gì về những việc làm của Hầu. Trong tâm nhà vua, nhà vua nghĩ rằng Thủ-Độ mới đi sứ về. Nhớ lại những kỉ niệm thời thơ ấu, Kiến-gia hoàng đế nhìn Thủ-Độ, rồi cười ha hả:
- Thằng khờ! Thằng điên. Thế nào, mày đi sứ gì mà bẩy năm nay bây giờ mới về? Hồi đó, vì nhớ công lao của bố mẹ mày, Tiên-đế phong cho mày tước Hầu, rồi sai đi sứ. Chứ thực ra cho mày làm tên thị vệ cũng là quá rồi. Công việc đi sứ ra sao?
Nghe nhà vua nói ra những lời khinh bạc, cả triều đình cùng tái mặt. Còn Thủ-Độ, thì Hầu giận run người lên, nghiến răng, quắc mắt nhìn nhà vua.
Hầu nghĩ thầm:
- Ta vận công, phát một chiêu đập nát thây tên Long-Sảm này, rồi muốn sao thì sao.
Nhìn nét mặt Thủ-Độ, Kiến-vũ hoàng hậu than thầm:
- Nguy tai, làm sao bây giờ?
Hậu đưa mắt báo động, rồi dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai hai anh:
- Các anh phải coi chừng Thủ-Độ. Y đang căm giận cùng cực. Có thể y không kiềm chế được cơn giận.
Nghe em nói, Trần Thừa mới để ý đến Thủ-Độ. Ông hoảng sợ, vội lên tiếng:
- Tâu Bệ-hạ! Chánh sứ Thủ-Độ không được khỏe. Xin Bệ-hạ để cho phó sứ Chu Mạnh-Nhu tâu trình thay thế.
Nói rồi ông nắm tay Thủ-Độ kéo ra phía sau, đẩy hầu ngồi vào chiếc ghế sát tường. Nhà vua vẫn chưa thấy cái nguy hiểm mình vừa thoát khỏi, ngài nở nụ cười khinh bạc:
- Ngày xưa, trẫm với Gia-thụy ngũ anh thường đem thằng ngẩn ngơ này ra làm cái bị để luyện võ. Nghĩ cuộc đời như một giấc mơ. Hồi ấy trong Gia-thụy ngũ anh, thì trẫm đứng đầu, thứ đến Long-Thẩm, Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh-Du. Khi luyện võ có nhau, lúc chơi đùa có nhau. Bây giờ Long-Thẩm, Bỉnh-Du đã ra người thiên cổ. Còn Đoàn Thượng, Nguyễn Dư thì trở thành giặc, phản lại trẫm. Ừ, tại sao thằng khùng này không chết đi mà Long-Thẩm, Bỉnh-Du lại chết?... Thôi Phó-sứ trình bày đi thôi.
Chu Mạnh-Nhu theo thứ tự tường thuật về cuộc hải hành của sứ đoàn: Đến cửa biển Liêu-Đông, vượt Vạn-lý Trường-thành, tới Hoa-lâm. Phò-mã Thái-úy Thủ-Huy cương quyết không chịu trở về, lấy Mông-cổ làm quê hương thứ nhì. Thủ-Độ được Thành-cát Tư-hãn trao cho chỉ huy binh đoàn Phương-Đông. Cuộc ra quân của Mông-cổ thắng Kim khắp các mặt trận. Cuối cùng Thủ-Độ cùng sứ đoàn được cho trở về Đại-Việt.
Chu giấu, không nói những gì Thủ-Độ đã làm ở Tiên-yên, cũng như khi về Thăng-long.
Triều đình say mê theo dõi lời tường thuật của Chu Mạnh-Nhu. Họ tuyệt không ngờ Thủ-Huy, Thủ-Độ lại là người tài trí đến như vậy. Sau khi Mạnh-Nhu tâu xong, các quan chờ nhà vua ban chỉ dụ, nhưng khi họ nhìn lên, thì ngài đang ngủ. Giấc ngủ dường như rất sâu.
Kiến-vũ hoàng hậu tuyên chỉ:
- Hoàng thượng se mình, cuộc triều nghị hôm nay còn hai vấn đề là việc bình định giặc dã và việc cải cách nông nghiệp, thuế khóa. Vậy Thiếu-sư Trần Thừa thay Hoàng-thượng chủ trì cuộc nghị sự. Kết quả, sẽ dâng biểu tâu lên Hoàng-thượng sau.
Dứt lời, Hoàng-hậu dìu nhà vua rơì điện Càn-nguyên. Các quan thở phào như trút được gánh nặng. Vì từ hôm về Thăng-long đến giờ, mỗi khi một đại thần tâu trình vấn đề gì, thì nhà vua cứ ậm à, ậm ừ một vài khắc, rồi ngáp dài, hoặc hỏi những câu không ăn nhập gì tới vấn đề cả. Cuối cùng nhà vua lại giao cho Trần Thừa giải quyết. Với Trần Thừa, mọi chuyện khó khăn đều vượt qua dễ dàng. Hôm nay, họ biết, triều đình phải nghị sự hai vấn đề quá quan trọng, quá dài. Họ yên trí rằng, nhà vua cũng sẽ ậm ừ, rồi chẳng quyết định gì. Bây giờ Hoàng-hậu tuyên chỉ để cho Trần Thừa thay nhà vua chủ trì, họ mừng hớn hở. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm như trút được một gánh nặng.
Thế rồi từ đấy, nhà vua không tham dự các buổi thiết triều. Chính sự trao cho Trần Thừa, quân sự trao cho Trần Tự-Khánh, việc học trao cho Phạm Kính-Ân. Tổng-trấn Thăng-long, Tổng-lĩnh thị vệ trao cho Trần Thủ-Độ. Các quan không bao giờ thấy nhà vua. Lúc đầu, họ tuân chỉ vua qua bút phê của ngài trên tấu chương, mà tòa Thượng-thư lệnh chuyển vào trong cung Long-an. Những người tò mò, chú ý thấy rõ: Nét chữ phê là của Kiến-vũ hoàng hậu, nhà vua chỉ ký lên mà thôi. Dần dần, họ thấy nét chữ châu phê lẫn chữ ký đều là của Kiến-vũ hoàng hậu. Họ nghĩ: Hoàng hậu là Linh-nhân hoàng thái hậu thứ nhì.
Dưới sự phò tá của Kiến-vũ hoàng hậu, Thiếu-sư Trần Thừa, Thái-úy Tự-Khánh, Thái-bảo Phạm Kính-Ân, đất nước dần dần trở lại thanh bình. Mấy năm liền trúng mùa, dân chúng ấm no, học phong chỉnh đốn. Tại hương đảng, nhờ hệ thống tổ chức của bang Lĩnh-Nam, không còn nạn cường hào ác bá, cũng chẳng có nạn chủ điền bóc lột tá tiền. Trộm cướp gần như biến mất. Nhân tâm đều hướng về họ Trần: Phải chi Trần Thừa làm vua, thì dân còn sung sướng hơn nhiều.
Thế rồi tin từ nội cung đưa ra: Nhà vua bị chứng điên, uống rượu say, ngủ li bì suốt ngày. Có khi ngài xưng là Thiên-tướng giáng trần, tay cầm giáo, tay cầm mộc múa cho đến khi mệt lử mới thôi.
Kể từ niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ năm (DL.1209, Kỷ-Tỵ) đời vua Cao-tông, là năm bọn Quách Bốc khởi loạn, cho đến nay là niên hiệu Kiến-gia thứ 13 (DL.1223, Quý-Mùi) trải 15 năm, dân chúng đều có cảm tưởng triều Lý không còn nữa. Trong dân chúng, người ta chỉ nhắc đến ân đức của Trần Thừa, công lao dẹp loạn của Trần Tự-Khánh, và tài tổ chức an dân nông thôn của Trần Thủ-Độ.
Tuy vậy trong nước vẫn còn còn hai sứ quân Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng. Nguyễn Nộn giữ vùng Phù-đổng, xưng là Hoài-đạo vương. Đoàn Thượng chiếm giữ Hồng-châu xưng là Đông-hải đại vương. Hai người kéo cao cờ nghĩa Diệt Đông-a, trung hưng Tiêu-sơn. Sự thực, hai người cũng chẳng trung thành gì với triều Lý, nhưng cả hai đều biết rằng mình có mối thâm thù bất cộng đái thiên với Trần Thủ-Độ. Mà trên thực tế thì Trần Tự-Khánh giữ chức Phụ-quốc Thái-úy, nhưng Thủ-Độ lại là Tổng-lĩnh Thiên-ht:10px;'>
- Mi lại nói láo rồi! Ninh-quốc đại vương đã hoăng rồi, thì làm gì có cái vụ Thái-hậu nói rằng người mưu cướp ngôi vua?
- Muôn tâu, hồi Ninh-quốc đại vương còn tại thế, Thái-hậu quả có ban mật chỉ như vậy. Nhưng sau đó, hai con của vương là Trần Thừa, Trần Tự-Khánh, lại nắm hết quyền hành trong tay. Gần đây, có một thầy địa lý tâu với Thái-hậu rằng, họ Trần có ngôi mộ kết phát đế vương, uy lực mạnh đến độ thiên hạ bất khả đương. Vì vậy Thái-hậu phải đề phòng.
Thủ-Độ khà khà mấy tiếng, rồi nói:
- Mi có biết rằng, ngôi mộ kết phát của triều Lý ở Cổ-pháp đã hết phúc rồi không? Ngọc-hoàng thượng đế ban phúc cho họ Trần sẽ kế nghiệp họ Lý. Bất cứ ai chống lại họ Trần, đều trái mệnh trời, đều bị tru diệt. Hôm nay ta hãy làm cho vợ chồng, con cái mi tàn tật đã.
Vợ chồng Đặng Vũ rập đầu binh binh:
- Tâu Đại-thánh Hoàng đế. Người xưa nói, không biết là không có tội. Mệnh trời biến ảo khôn lường, thần là người trần mắt thịt, thần không biết họ Lý hết phúc, họ Trần kế nghiệp. Từ nay thần xin thuận mệnh trời, trung thành với họ Trần.
- Được! Ta tha cho người. Nhưng những sự gì ta nói hôm nay, mà vợ chồng mi tiết lộ ra ngoài, thì ta sẽ chọc thủng mắt vợ chồng mi. Nghe không?
- Dạ.
- Ngày mai mi phải đến thuyền quy phục Khâm-sứ, mi sẽ được thăng chức, tước. Nhớ đấy!
Thủ-Độ phóng tay điểm huyệt Thanh-minh của vợ chồng Đặng Vũ, khiến y không nhìn thấy gì, rồi Hầu tung mình ra ngoài, trở về thuyền.
Sáng hôm sau, Thủ-Độ gọi phó sứ, bồi sứ, thuyền trưởng Quách Ty, cùng các thủy thủ lại họp. Hầu tóm lược những biến cố xẩy ra ở Đại-Việt trong thời gian sứ đoàn lưu tại Mông-cổ, rồi kết luận:
- Bây giờ chúng ta về thì cái triều đình thối tha của tên Long-Sảm, cái hậu cung của mụ Thái-hậu họ Đàm sẽ bới lông tìm vết rằng, chúng ta đi sứ, sao lại ở Mông-cổ tới mấy năm? Sau đó đem chúng ta ra chém. Tài sản bị tịch thu, vợ con bị bắt làm tôi tớ cho người. Vậy các vị nghĩ sao?
Tất cả mọi người đều xanh mặt, người nọ nhìn người kia, rồi lắc đầu. Phó sứ Chu Mạnh-Nhu bàn:
- Không biết ý quân hầu định sao?
- Về thì chết. Chi bằng chúng ta không cho triều đình biết ta về. Nay trong nước, các trấn, các huyện đều tách rời khỏi triều đình. Tại sao ta không chiếm trấn Tiên-yên này, làm căn bản, rồi dùng các Khả-hãn bang Lĩnh-Nam chiếm các vùng còn lại, ta thực thi ba lời nguyền Chân-giáo, Tây-hồ, Hy-cương. Bấy giờ dễ gì ai hại được chúng ta?
Mọi người đều hoan hô.
Thủ-Độ truyền lệnh cho viên bồi sứ Vũ Khắc-Kim:
- Phiền tiên sinh hãy tới dinh Phó đề đốc Đặng Vũ, gọi y đến đây ra mắt ta. Ta sẽ có cách chế phục y.
Lát sau Đặng Vũ tới. Lễ nghi tất. Thủ-Độ ôn tồn hỏi:
- Tình hình trấn Tiên-yên này ra sao?
- Thưa Khâm-sứ đại nhân, rất yên tĩnh, ngoại trừ bọn bang Lĩnh-Nam, có một nữ tướng tên Cửu-Anh không tuân theo sự điều động của tiểu nhân, thị kéo Vệ Tiên-yên đi cướp bóc khắp nơi.
Thủ-Độ đập tay xuống án thư:
- Quân phản tặc này to gan. Chính mi chống lại triều đình. Vì vậy Kiến-gia hoàng đế sai bản nhân ra đây thu thập mi. Còn Cửu-Anh là người của triều đình. Cửu-Anh tuân chỉ của triều đình, mà mi lại vu oan là trộm cướp. Quân bay, trói y lại, xẻo từng miếng thịt cho ta.
Võ sĩ trói Đặng Vũ lại. Đặng Vũ kinh hãi:
- Thực oan uổng! Trước đây tiểu nhân nhận được mật chỉ của Đàm thái hậu rằng phải chống lại bọn Trần Lý. Sau khi Trần Lý chết rồi, Thái-hậu lại ban chỉ phải chống bọn Trần Thừa, Trần Tự-Khánh. Nhưng...
- Nhưng gì?
- Hôm qua Vô-thượng Chí-tôn Đại-thánh hoàng đế giáng trần, ban chỉ rằng, tiểu nhân phải... phải quy phục triều đình. Nên tiểu nhân mới tới đây để Khâm-sứ đại nhân điều động.
Thủ-Độ trở lại bộ mặt nhu nhã:
- À thì ra thế! Phó đề đốc bị oan. Ta thực nóng nảy.
Thủ-Độ cởi trói cho Đặng Vũ, rồi ra lệnh:
- Bản sứ đã chiêu an Cửu-Anh. Thay triều đình, ta thăng Phó đề đốc lên làm Đô-đốc. Vậy người hãy trưng thu dân thuyền, tổ chức khẩn cấp thành một hạm đội, mang tên hạm đội Âu-cơ.
Đặng Vũ rập đầu binh binh:
- Đa tạ Khâm-sứ đã thăng thưởng. Trong vịnh Hạ-long này, có đến hơn mười vạn con thuyền đánh cá. Số ngư dân sống trên thuyền tới ba mươi vạn. Khâm-sứ đã ban lệnh, thuộc hạ có thể tổ chức được một hạm đội trong vòng mười ngày.
Thủ-Độ hài lòng:
- Bây giờ người là Đô-đốc, di chuyển không ngừng, vậy chức Tuyên-vũ sứ Tiên-yên này ta trao cho một quan văn.
- Xin tuân lệnh Khâm-sứ.
Thủ-Độ gọi Bồi-sứ Vũ Khắc-Kim:
- Tiên-yên là một cửa biển, thuyền ngoại quốc qua lại nhiều, cần phải có một quan văn cai trị. Kể từ ngày hôm nay ta cử tiên sinh lĩnh chức Tuyên-vũ sứ Tiên-yên. Mọi luật lệ vẫn giữ nguyên. Song có ba điều phải ghi nhớ.
- Xin chờ lệnh đại nhân.
- Một là các phú gia, quan lại đã bỏ tiền ra mua người về làm tôi tớ. Hãy cho họ trở về với gia đình, sau này trấn sẽ bồi thường lại cho gia chủ.
- Hai là, chủ điền chỉ được thu tô như sau: Nhất đẳng điền một phần tư số thu hoạch. Nhị đẳng điền một phần năm số thu hoạch. Tam đẳng điền một phần mười số thu hoạch. Ai bỏ ruộng hoang, thì trấn sẽ cho tá điền cầy, rồi thu tô. Tô đó xung vào công nho.
- Ba là, đối với ngư nhân, mỗi ngày một đầu người đánh được hai mươi cân thì phải nộp thuế hai cân. Mỗi người đánh được ba mươi cân cũng chỉ nộp hai cân. Người nào đánh được năm mươi cân thì miễn thuế.
Vũ Khắc-Kim không hiểu:
- Thưa Khâm-sứ, thuộc hạ thấy chỉ thị của Khâm-sứ ban ra về tôi tớ, về ruộng thực là thương dân nghèo. Nhưng về ngư dân thì hơi bất công.
Thủ-Độ mỉm cười:
- Vũ tiên sinh không hiểu cũng phải. Chính sách thu thuế thủy sản của tên Thái-sư mặt lợn Đàm Dĩ-Mông đánh quá nặng theo số lượng; thành ra ngư dân đánh được nhiều, họ phải nộp thuế gần hết. Vì vậy họ chỉ làm đủ ăn mà thôi. Nay tôi đổi hẳn, họ sẽ thi nhau đánh ngày, đánh đêm. Họ sẽ mau giầu. Dân giầu thì nước mạnh.
Vũ Khắc-Kim chỉ là một viên Lang-trung bộ Lễ, có lẽ y làm quan cả đời cũng không hy vọng gì được bổ làm Huyện-lệnh. Bây giờ một bước được cử làm Tổng-trấn một trấn giầu có, rộng lớn, đến nằm mơ, y cũng không tưởng nổi.
Y rập đầu bái tạ.
Thủ-Độ bảo Đặng Vũ:
- Khi Đô-đốc ngồi đây, thì tôi đã sai sứ ban lệnh cho Cửu-Anh đem quân về. Cửu-Anh đang tiến quân vào trấn, trong khi quân của Đô-đốc lại đóng cách đây hơn trăm dặm. Giả như giờ này Đô-đốc chưa quy phục triều đình, thì e khó thoát khỏi bị chặt đầu. Thôi chúng ta lên bờ đón Vệ Tiên-yên.
Nghe Thủ-Độ nói, Đặng Vũ kinh hoảng. Y không tin bọn Cửu-Anh có thể chiếm trấn Tiên-yên dễ dàng như vậy. Tuy nhiên y cũng cứ theo Thủ-Độ lên bờ. Vừa rời thuyền, y phóng mắt nhìn khắp nơi, chỗ nào cũng thấy những thiếu niên dân dã cầm vũ khí canh phòng. Ngay trên các chiến hạm của y, cũng bị chiếm từ hồi nào.
Y càng kinh ngạc khi thấy dân chúng đứng đầy hai bên đường hướng mắt về phía phía chân núi chờ đón: Một đội thiếu niên, nam, nữ, y phục dân dã, hàng ngũ ngay thẳng, vũ khí sáng ngời, khí thế mạnh như núi lở băng tan; vừa thúc trống, vừa tiến bước về thị trấn. Người dẫn đầu là một thiếu nữ xinh đẹp. Chính là Cửu-Anh.
Nhìn khí thế đội hương binh Lĩnh-Nam, Đặng Vũ rùng mình:
- Mình nghe nói, Tuyên-phi Thụy-Hương là người Tống, sinh ra vua Cao-tông, đã ép nhà vua giải tán Thiên-tử binh, Kỵ-binh, Ngưu-binh, cùng các hiệu binh địa phương. Từ ngày ấy đến giờ, mỗi huyện chỉ có một đội tráng đinh. Cho nên giặc cướp nổi lên khắp nơi, mà triều đình bó tay. Gần đây, họ Trần mộ hương binh, tổ chức lại quân đội, lập trật tự. Sở dĩ họ Trần thành công là nhờ các Vệ hương binh Lĩnh-Nam. Mình cứ khinh thường các Vệ này ô hợp, trong khi đó dân chúng đồn rằng tổ chức bang Lĩnh-Nam trải ra khắp đất nước. Mỗi thôn, mỗi xóm đều quy tụ những thiếu niên khí tiết. Các Vệ của họ hùng tráng vô cùng. Mấy hôm trước mình nhận chỉ dụ mật của Thái-hậu, đem quân đi đánh Vệ Tiên-yên. Cũng may, chưa đụng độ, bằng không, khí thế của chúng mạnh dường ấy, thì mình đương sao nổi?
Vệ Tiên-yên tiến vào thị trấn, mau chóng dàn ra trước bến dân thuyền. Cửu-Anh hô lớn:
- Bọn thuộc hạ xin được ra mắt Đại-hãn.
Khi thu dụng bọn thiếu niên cùng khổ, bọn nam nữ hương thôn đem về huấn luyện, cho nhập bang Lĩnh-Nam; bọn Cửu-Anh đều nhân danh bang trưởng là Đại-hãn. Bang-chúng chưa bao giờ biết mặt bang trưởng. Họ chỉ nghe nói, bang trưởng là Đại-hãn. Đại-hãn còn trẻ, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Bang trưởng là người nhân từ, thiết tha với kẻ cùng khổ, một lòng bảo vệ Xã-tắc. Bây giờ nghe Khả-hãn Cửu-Anh hô, chúng mới ngước mắt nhìn vị Đại-hãn bang chủ của chúng: Một thiếu niên hùng vĩ, mắt có hai con ngươi, chiếu ra tia hàn quang sáng ngời, khiến chúng không dám nhìn thẳng vào mặt.
Thu-Độ cất tiếng nói như chuông:
"... Các em thân mến.
Từ hơn trăm năm trước nạn gà mái gáy trong hậu cung nhà Lý kéo dài đến nay cũng chưa dứt. Đất nước ngày càng rối loạn. Kỷ cương, luân thường bị phế bỏ. Phong hóa ngày càng suy đồi. Giặc dã nổi lên khắp nơi. Dân chúng đói khổ đến nỗi sống không nổi, mà chết cũng không xong. Trong triều, vua thì nhu nhược, các quan thì toàn một bọn tham ô. Ngoài dã, giặc cướp nổi lên như ong. Nạn đói hoành hành, người chết như rạ.
Vì thế, bang Lĩnh-Nam của chúng ta được thành lập với mục đích nối tiếp sự nghiệp của vua Trưng, của chư vị anh hùng thời Lĩnh-Nam, lấy phương châm:
" Dân quý nhất,
Xã tắc thứ nhì,
Vua thứ ba".
Lại lấy cương là ba lời thề: Lời thề Chân-giáo, lời thề hồ Tây và lời thề Hy-cương.
Khởi đầu bằng việc ta kết hợp bọn thiếu niên cùng khổ, bị đời khinh rẻ, đói không cơm ăn, khát không nước uống, rét không quần áo che thân, ngủ đường ngủ chợ. Rồi dần dần tiến tơí quy tụ dân vô sở bất chí, không tấc đất cắm dùi, bị cường hào ác bá hương thôn áp bức, để lập những trang ấp mới, tạo đơì sống mới. Bang chúng ta ngày một mở rộng.
Ta lại ra lệnh quy tụ thiếu niên hương thôn, dạy văn, luyện võ cho họ có đủ khả năng tự vệ. Rồi vì nhu cầu chống giặc, ta cho kết hợp thành Vệ.
Giữa lúc đó, vì quốc sự, ta phải rời xa quê hương một thời gian. Tuy nhiên trong thời gian ta vắng mặt, trong bang đã có Nguyên-sư, Tả Hữu hộ pháp, Lục-vị thiện nhân, Tổng-lĩnh Khả-hãn điều hành chư sự. Nên bản bang ngày càng mở rộng, ngày càng trở thành hữu ích cho dân chúng. Trong các cuộc biến động vừa qua, khắp nước đều lâm vào cảnh giặc dã nổi lên, chém giết, cướp bóc. Tuy nhiên những nơi có các Khả-hãn của ta lãnh đạo, những vùng có các Vệ của ta trấn đóng, thì dân chúng lại sống an vui.
Tại trấn Tiên-yên này, nằm sát biên giới, xa Thăng-long, mà dân chúng lại sống trong những ngày thanh bình, sung sướng như thời vua Hùng, vua Trưng; là nhờ công lao của Khả-hãn Cửu-Anh, là nhờ các em. Nhân danh Đại-hãn của những người cùng khổ, nhân danh bang trưởng bang Lĩnh-Nam, nhân danh người kế tục sự nghiệp vua Trưng, ta gửi tới các em lời khen ngợi của ta.
Hôm nay, ta long trọng tuyên cáo với các em rằng chúng ta bắt đầu thực hiện lời thề Chân-giáo, Tây-hồ, Hy-cương".
Vì các thiếu niên bang Lĩnh-Nam đều là con em trong trấn, mấy hôm trước họ phải rời gia đình ẩn thân. Bây giờ họ xuất Giữa lúc đó thì con quỷ ba đầu lại xuất hiện tại Đông-cung, là nơi của Thái-tử ở. Nhưng từ ngày Long-Sảm lên ngôi vua thì Đông-cung bỏ hoang. Lần khác, trong khi Kiến-vũ hoàng hậu đang thính chính tại triều thì nó xuất hiện giữa ban ngày tại cung Long-thụy nhát nhà vua. Nhà vua sợ quá, ngất đi đến nửa ngày mới tỉnh.
Sang tháng 10, bệnh nhà vua trở thành nguy ngập. Tôn thất, triều đình hội lại nghị sự tâu xin lập Thái-tử. Sau khi bàn với Hoàng-hậu trong hai ngày, nhà vua quyết định lập công chúa Chiêu-Thánh làm Thái-tử. Khi chiếu chỉ ban ra, bị hoàng tộc phản đối dữ dội. Vì họ muốn nhà vua chọn một thiếu niên thông minh trong hàng tôn thất, đem vào cung nuôi dạy, rồi lập làm Thái-tử. Ngược lại, các đại thần thì rửng rưng trước biến cố này. Vì từ lâu rồi, trong tâm tư của họ, thì triều Lý không còn nữa. Việc cai trị hoàn toàn do Trung-hòa vương Trần Thừa cùng các quan làm. Mấy năm qua quốc gia vô sự, dân sống an vui, học phong thịnh, mùa màng trúng.
Giữa tháng 10, bệnh nhà vua biến đổi. Suốt ngày hò hét, chạy nhảy như trẻ con. Từ sáng đến tối, không múa hát thì lại ngủ li bì. Tôn thất, hoàng tộc cho rằng nhà vua bị ma trêu, quỷ ám. Họ nghĩ đến con quỷ ba đầu, là hồn ma của Thái-tử Long-Xưởng trả cái thù vua Cao-tông chiếm mất ngôi. Họ còn tin rằng, việc Long-Xưởng với vợ, con, gia thuộc bị cướp giết cả nhà là do vua Cao-tông với Chiêu-Thiên thái hậu đã ra tay. Nên bây giờ con quỷ ba đầu nhập vào nhà vua, để trả thù. Họ mời sư Chân-Minh, trị sự chùa Chân-giáo vào Đông-cung cũ, nay bỏ hoang ; làm chay, giải oan cho mấy trăm người chết liền 49 ngày.
Thế nhưng bệnh nhà vua không thuyên giảm.
Biết bệnh mình không khỏi được nữa, nhà vua bàn với Kiến-vũ hoàng hậu, rồi ban chỉ truyền ngôi cho Thái-tử Chiêu-Thánh. Còn ngài thì đi tu ở chùa Chân-giáo trong thành. Thái-tử lên ngôi, lấy niên hiệu là Thiên-chương hữu đạo nguyên niên, quần thần tôn hiệu là Chiêu-Hoàng. Tân quân ban chỉ đại xá thiên hạ, tôn phụ hoàng làm Thái-thượng hoàng, tôn Hoàng-hậu Kiến-vũ làm Linh-từ Kiến-vũ hoàng thái hậu. Vì tân quân còn nhỏ tuổi, triều đình thể theo lệ có từ hồi vua Cao-tông, chọn Tứ-trụ đại thần nhiếp chính. Đó là:
Đệ nhất là Thái-sư Trần Thừa, lĩnh Bình-chương quân quốc trọng sự, thống bách quan, bình thứ chính (Tức chỉ huy tất cả các quan, cai trị trăm họ).
Đệ nhị là Hiệp-tán Thái-bảo Phùng Tá-Chu, lĩnh quyền Tể-tướng.
Đệ tam là Dao-thụ Thái-phó Phạm Kính-Ân, lĩnh quyền phó Tể-tướng, nhiếp các bộ Hộ, Lễ, Công.
Đệ tứ là Đặc-tiến Thiếu-sư Tô Trung-Từ lĩnh quyền phó tể tướng lĩnh các bộ Binh, Hình, Lại.
Kiến-vũ thái hậu buông rèm thính chính.
Thăng các quan lên một bậc.
Sau khi Thượng-hoàng thọ giới tỳ kheo với sư Chân-Minh, lấy đạo hiệu là Huệ-Quang. Thái-hậu với Trung-Hòa vương Trần Thừa làm phụ chính. Về chính sự, nhân sự nhất thiết giữ nguyên.
Tổng-lĩnh thị vệ Trần Thủ-Độ được lệnh chỉ hộ tống Thượng-hoàng rời Hoàng-thành ra chùa Chân-giáo. Có ba thái giám cũng thọ giới, theo hầu ngài. Lạ lùng thay, từ lúc ra chùa Chân-giáo, bệnh tình Thượng-hoàng giảm mau lẹ. Ngài không còn hò hét, ca hát nữa. Suốt ngày ngài ngồi trên bồ đoàn nhập thiền.
Ghi chú của thuật giả
Đoạn này, gia phả của con cháu Trần Ích-Tắc chép rất chi tiết. Xin nhắc lại, Chiêu-quốc vương Trần Ích-Tắc là con của công chúa Thuận-Thiên, tức là cháu ngoại của vua Huệ-tông. Cho nên trong gia phả con cháu vương chép về nhà vua bằng giọng văn cực kỳ kính trọng. Tạm lược dịch một đoạn:
Trung-vũ đại vương (Ghi chú: Tức Trần Thủ-Độ) thân đánh xe đưa đại sư Huệ-Quang (Tức Huệ-tông) ra chùa Chân-giáo. Giáp-sĩ hai hàng, nghi trượng rực rỡ đi hai bên. Hòa-thượng Chân-Minh đón ở cổng chùa, nói rằng:
- Đại phàm đã vào chốn Không-môn thì những gì của trần tục như vua quan, giầu nghèo, già trẻ không còn nữa. Nay Thượng-hoàng bỏ ngôi báu, tìm lẽ giải thoát, mà còn dùng báu xa, nghi trượng, thì sao thoát khỏi trầm luân? Bây giờ thì nào là Kiến-gia thiên tử, nào là triều đình, nào là Hoàng-thành nào là Long-an, Long-thụy, đều trở thành không cả. Lẽ vô thường là thế đó.
Rồi dẫn Huệ-Quang vào tăng phòng chỉ có cái bồ đoàn bằng rơm, giảng yếu chỉ kinh Kim-cương. Huệ-Quang thọ lĩnh rất mau. Chỉ sau một tuần, Huệ-Quang trở thành trầm mặc, không còn la hét, ca hát nữa.
Hơn tháng sau, Trung-vũ đại vương vâng chỉ ra chùa thăm Huệ-Quang, thì thấy ngài đang xuất thần đứng tần ngần dưới gốc cây chép bài sấm khắc trên thân (Xem hồi 33). Vương hỏi:
- Có hiểu không?
- Tối nghĩa quá. Ta không hiểu được.
Bèn giảng:
- Thiên-đia huyền hoàng là trời đất này ảo diệu vô cùng, khó ai biết trước. Cương la mênh mang, là lưới trời lồng lộng. Kẻ nào làm ác, thì trước sau gì cũng mắc lưới trời. Dĩ oán báo đức, là lấy oán hận mà báo ân đức. Thập bát tử thành. Chữ thập, chữ bát, chữ tử là chữ lý đấy. Họ Lý đã lấy oán báo đáp lại kẻ có ơn với mình.
Hỏi:
- Thế còn các câu sau?
- Tự tìm hiểu lấy.
Sư Chân-Minh thuật chuyện cũ: Gần hai chục năm trước, Trung-vũ đại vương bị 5 người đánh đến chết đi sống lại, sau thoát được, từng ngất đi dưới gốc cây này. Huệ-Quang tỉnh ngộ, nhớ lại rằng chính mình cùng bọn Phạm Bỉnh-Du, Đoàn Thượng đã đánh Trần Thủ-Độ. (Ngài) nhìn Vương, rồi cúi đầu xuống không nói gì. Vương nói với Huệ-Quang:
- Trước kia đã gây nghiệp, thì không thể nào tránh khỏi quả. Hãy liệu mà trả đi chứ?
Thời gian Chiêu-Hoàng làm vua rất ngắn. ĐVSKTT chép như sau:
Ất Dậu, Thiên-chương Hữu-đạo thứ nhì (DL.1225), từ tháng 12 về sau là niên hiệu Kiến-trung nguyên niên đời vua Trần Thái-tông, bên Trung-nguyên là niên hiệu Bảo-khánh nguyên niên đời Tống Lý-tông.
Mùa Đông tháng 10, ban chiếu tuyển con em đại thần sung vào các chức sắc trong nội cung: Sáu đội lính thị vệ, Chi-hậu (chức văn quan trong cung), Nội nhân thị nội (Chức hầu cận trong cung), ngày đêm thay phiên chầu hầu. Điện-tiền chỉ huy sứ Trần Thủ-Độ coi giữ mọi việc trong Hoàng-thành và Kinh-thành.Cháu gọi Trần Thủ-Độ bằng chú là Trần Bất-Cập làm Cận-thị thư lục chi hậu (Bí thư riêng trong cung). Trần Thiêm làm Chi ứng cục. Trần Cảnh làm Chính-thủ (trình hồ sơ, mài mực, giữ việc chuyển công văn, Cảnh sau là Trần Thái-tông).
Cảnh lúc ấy mới tám tuổi,chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong.Chiêu-hoàng trông thấy, lấy làm ưa. Mỗi khi chơi đêm, cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm Cảnh bưng nước đứng hầu, Chiêu-Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu. Đến khi Cảnh bưng khăn trầu, thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về ngầm nói với Thủ-Độ. Thủ-Độ nói: "Nếu được như thế thì họ nhà ta thành hoàng tộc hay diệt tộc đấy". Lại một hôm, Chiêu-Hoàng lấy khăn trầu ném cho Cảnh. Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không?Thần xin vâng mệnh".Chiêu-hoàng cười và nói: "Tha tội cho người chứ! Nay người đã khôn rồi đó". Cảnh về nói với Thủ-Độ. Thủ-Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả nhà. Bấy giờ mới đem gia thuộc thân thích vào trong Hoàng-thành. Lại truyền đóng cửa thành, các cửa cung, sai người canh giữ. Các quan muốn vào chầu không vào được.Thủ-Độ báo với các quan:"Bệ-hạ có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu.
Ngày 21 tháng 10, các quan vào chầu lạy mừng. Chiêu-Hoàng xuống chiếu rằng:
"Từ xưa, nước Nam Việt đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối trên hai trăm năm. Chỉ vì Thượng-hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng suy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi. Từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi, trẫm là nữ chúa, tài đức không đủ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm đấng hiền lương quân tử để cùng giúp chính sự, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi.
Kinh Thi có câu:
Quân tử hảo cầu,
Cầu chi bất đắc.
Ngụ mị tư phục,
Du tai du tai.
(Quân tử tìm bạn, cầu mãi không được, thức ngủ không nguôi, buồn thay, buồn thay).
Nay trẫm suy đi, tính lại một mình, duy có Trần Cảnh văn chất đầy đủ, thực là thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thần văn thánh võ, dù Hán Cao-tổ, Đường Thái-tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ kỹ từ lâu, xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ, mọi người đều biết".
Tháng 12 ngày 11, Mậu Dần, Chiêu-Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên-an, ngự trên sập báu. Các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu-Hoàng trút bỏ ngự bào, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến-trung nguyên niên, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện-Hoàng (Hoàng đế được nhường ngôi), sau đổi là Văn-Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là:
Khải vận, lập cực, chí nhân, chương hiếu hoàng đế.
Phong Trần Thủ-Độ làm Quốc-thượng phụ, nắm giữ mọi việc trị nước.
Thủ-Độ nói: "Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thượng giữ mạn Đông, Nguyễn Nộn giữ mạn Bắc. Các châu Quảng-oai, Đại-viễn cũng chưa dẹp yên. Triều Lý suy yếu, thế nước chông chênh, nữ chúa Chiêu-Hoàng không gánh vác nổi, mới ủy thác cho Nhị-lang (Trần Cảnh là con trai thứ nhì Trần Thừa. Con cả là Trần Liễu). Nhưng Nhị-lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chỗ thiếu sót, mà vận nước mới mở, lòng dân chưa an, mối họa thực không nhỏ. Ta tuy là chú, mà học thức không nhiều, còn phải rong ruổi Đông,Tây để dẹp giặc cướp. Không gì bằng tôn thánh phụ làm Thượng-hoàng tạm coi việc nước. Một hai năm sau, thiên hạ nhất thống, lại giao quyền cho Nhị-lang". Các quan đều cho là phải, mời Thánh-phụ Trần Thừa nhiếp chính.
(ĐVSKTT, Lý kỷ, Chiêu-Hoàng kỷ).
Ghi chú của thuật giả
Qua bộ Anh hùng Đông-a,, độc giả biết rõ ràng nhờ đâu, do đâu, làm thế nào, mà họ Trần được thiên hạ; chứ không đơn thuần nhờ nhan sắc.
Từ xưa, khi nghe nói Trần gia dĩ nhan sắc đắc thiên hạ, người ta cứ cho rằng nhờ Linh-từ Kiến-vũ hoàng thái hậu, nhũ danh Trần Kim-Dung có nhan sắc, làm vợ vua Lý Huệ-tông, rồi họ Trần được ngôi vua. Nhan sắc đây không hẳn chỉ một mình Linh-từ thái hậu, mà nhờ Trần Cảnh đẹp trai, được Chiêu-Hoàng cưới làm chồng, rồi được truyền ngôi vua. Chỉ độc giả Anh hùng Đông-a mới biết rõ uyên nguyên mà thôi.
Ngôi vua từ họ Lý sang họ Trần, là một biến cố cực kỳ vĩ đại. Nếu biến cố này xẩy ra ở Trung-quốc, ít ra các sử gia cũng chép hàng trăm trang. Thế nhưng dù ĐVSKTT, dù VSL, dù KĐVSTGCM, cũng cũng chỉ chép không quá một trang. Xét kỹ biến cố này, ta thấy đây là một vở kịch dàn cảnh có lớp lang.
Thứ nhất, Từ trước đến giờ các sử gia thường tin vào mấy giòng trên đây của ĐVSKTT mà cho rằng cuộc hôn nhân Trần Cảnh Chiêu-Hoàng, cũng như việc truyền ngôi do Trần Thủ-Độ xếp đặt. Tôi thấy hoàn toàn vô lý. Bởi Linh-từ Kiến-vũ hoàng thái hậu là mẹ của Chiêu-Hoàng, buông rèm thính chính. Nói khác đi, là bà làm vua. Trần Thừa là cha Trần Cảnh làm Thái-sư Bình-chương quân quốc trọng sự, phụ chính ở ngoài. Trong khi Thủ-Độ chỉ là Điện-tiền chỉ-huy sứ. Nếu không có lệnh của Thái-hậu, của Trần Thừa, liệu Thủ-Độ có dám làm không?
Thứ nhì. Vua Lý Huệ-tông có hai công chúa. Công chúa Thuận-Thiên năm trước mới chín tuổi, đã hạ giá với con trưởng Trần Thừa là Trần Liễu. Bây giờ Chiêu-Hoàng mới tám tuổi, đã...lấy Trần Cảnh. Cuộc hôn nhân xếp đặt rõ ràng: Xưa nay, những con trai muốn vào hầu trong cung làm thái giám thì một là sinh ra...cái ấy teo như quả ớt, hoặc ái nam, ong bốn hạm đội thì một hạm đội trấn đóng ở Đồn-sơn để tu bổ, huấn luyện. Một hạm đội túc trực ở Thăng-long. Một hạm đội tuần hành tại phía Bắc. Và một hạm đội tuần hành dọc bờ biển cho tới Chiêm-thành. Từ khi Phụ-quốc thái-úy Trần Thủ-Huy với công chúa Đoan-Nghi về điền dã, thì ba hạm đội bị giải tán, chỉ còn lại hạm đội Thần-phù mà thôi. Khi Thăng-long xẩy ra biến động, Đại đô-đốc Phùng Tá-Chu đem hạm đội về Thăng-long, thì căn cứ không có quân. Viên Tuyên-vũ sứ nhân dịp này, sai thuộc hạ đem Vệ Đồn-sơn, chiếm đóng hết các cơ sở như xưởng đóng thuyền, các trại binh. Hiện y không chịu theo lệnh trung ương.
- Y thuộc loại người nào?
- Y tên Ngô Khang, xuất thân là Tổng-lĩnh thái giám, hầu cận Đàm hoàng hậu, y được cử làm Tuyên-vũ sứ. Mới đây Hoàng-hậu được tôn làm Thái-hậu, bà ban chỉ phong cho y tước hầu. Y không biết võ, cũng chẳng có tài cai trị. Hiện mọi sự y đều trông vào Vệ Đồn-sơn của thuộc hạ. Thuộc hạ có thể bắt y như bắt ba ba trong rọ. Đại-hãn yên tâm.
- Được! Ta cử Thị-lang Phạm Hồng-Quy làm Tuyên-vũ sứ Đồn-sơn. Em hãy trở về bắt y trao quyền cho Hồng-Quy.
- Bây giờ tới Diễn-châu. Khả-hãn Thất-Anh cho biết tình hình.
- An-phủ sứ Diễn-châu là người văn võ kiêm toàn, tên Cao Bình-Chu, tuổi tương đối còn trẻ. Mấy năm trước y đỗ võ Tiến-sĩ, cùng khoa với Đại-hãn. Y được bổ làm Phó An-phủ sứ. Khi mới nhậm chưc, y tổ chức một toán võ sĩ 18 người làm chân tay. Y đi đâu, cũng có bọn này theo bên cạnh. Trong cuộc biến động vừa qua, y giết An-phủ sứ, rồi nắm lấy quyền. Nếu muốn hạ y, thì phải chấp nhận một cuộc giao chiến. Không có cách nào khác.
- Đành vậy. Bản lãnh y so với em thế nào?
- Nếu bình thường giao đấu, khó biết lắm. Nhưng võ công y là võ công Hoa-sơn. Nếu muội dùng pho Lôi-giáng Hoa-nhạc thì thắng y dễ dàng.
- Ta cử Thị-lang Lê Trọng-Anh làm An-phủ sứ Diễn-châu. Em hãy về hạ tên Cao Bình-Chu, rồi trao quyền cho Lê Thị-lang.
Thủ-Độ hỏi Nhất-Hào, Tứ-Hào:
- Còn các em?
- Mọi chuyện đã ổn định.
Nhất-Hào trả lời bằng giọng tự tin:
- Ngay từ khi xẩy ra biến động. Đám An-phủ sứ bắt bọn em mang quân về theo Hoàng-tử Thẩm. Lập tức hai chúng em suất lĩnh đệ tử bắt giam chúng lại, tìm người có tài, có đức thuộc bang Lĩnh-Nam cử lên thay thế. Hiện các An-phủ sứ này với chúng em như tay phải với tay trái, tổ chức cai trị, dân chúng sống an vui, hạnh phúc vô cùng. Chúng em đã tập trung hết hương binh, bang chúng kết lại, lập ba Vệ thành một Đạo, bốn Đạo thành một Hiệu. Hiện hiệu Long-hưng của em có bốn Đạo bộ binh là Tiền, Hậu Tả, Hữu, và một Trung-đạo Ngưu-binh. Hiệu Hải-Đông của Tứ-Hào cũng tổ chức như Hiệu của em, nhưng thêm một Vệ Kỵ-binh nữa. Cái con mụ Đàm Thái-hậu nhiều lần sai mật sứ phong hàm tướng quân, tước hầu cho bọn em. Mà bọn em không theo.
Thủ-Độ đứng dậy ban lệnh:
- Đồn-sơn, Diễn-châu Tiên-yên mới có một Vệ, thì xuất không đủ chống với giặc. Thủ không đủ giữ an ninh trong vùng. Vậy ba Khả-hãn khẩn kết hợp các hương binh lại, thành lập một hiệu, phỏng theo hiệu Hải-Đông, Long-hưng. Mỗi hiệu có bốn đạo bộ Tiền, Hậu, Tả, Hữu và một đạo Ngưu-binh. Nếu có thể thêm một Vệ hay một Đạo Kỵ-binh thì tốt.
Lại ra lệnh cho thuyền trưởng Quách Ty:
- Để duy trì liên lạc giữa ta với các Khả-hãn mau chóng. Ta thiết lập một hệ thống ngựa trạm Lưu-tinh. Ta trao cho sư đệ chỉ huy.
Quách Ty vui vẻ nhận lời.
Thủ-Độ nói với Chu Mạnh-Nhu, Tạ Quốc-Ninh:
- Dù muốn, dù không, hoàn cảnh chúng ta bây giờ cũng giống như một triều đình. Về lãnh thổ, ta đã có hai trấn, ba phủ. Về binh lực ta có một hạm đội, năm hiệu binh. So sánh với triều đình, với Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng, lãnh thổ, binh lực ta mạnh nhất. Tôi sinh ra là con công chúa, là con đại thần, nhưng từng là ăn mày, tôi không phải là con trời. Tôi cũng là người thường như mọi người. Nhưng tôi có tấc lòng son với Xã-tắc, tôi biết thương dân, biết chia sẻ cái bất hạnh của người nghèo. Tôi không thể cáng đáng được hết mọi sự. Vậy chúng ta hãy chia nhau gánh vác chung. Chúng ta tổ chức một cơ quan giống như Khu-mật viện. Không biết chúng ta nên đặt tên là gì cho có vẻ mới mẻ?
Tạ Quốc-Ninh đề nghị:
- Theo thiển ý của thuộc hạ, cơ quan này nên đặt là An-dân Quốc-vụ viện. Gọi tắt là An-quốc viện
- Hay lắm. Tôi cử Chu Manh-Nhu làm chánh viện. Tạ Quốc-Ninh làm phó viện. Còn lại, tất cả các Khả-hãn, Đô-đốc hạm đội Tiên-yên đều là An-quốc viện sứ.
Mấy hôm sau, sứ giả Thủ-Độ gửi đi các nơi lục tục trở về báo cáo: Các Khả-hãn cự kỳ hân hoan khi được tin Đại-Hãn trở về, và đang phát động đại kế thực hiện ba lời nguyền Chân-giáo, Tây-hồ và Hy-cương. Năm vùng quanh Thăng-long, các Khả-hãn là nữ, nên mỗi người chỉ thành lập được một Đạo hương binh. Còn lại các Khả-hãn khác, mỗi người đã lậäp được một hiệu binh rất hùng mạnh.
Chu Mạnh-Nhu vui mừng:
- Như vậy, về lãnh thổ, trên toàn quốc có 5 trấn, 24 phủ. Ta kiểm soát được 2 trấn, 11 phủ, và nửa kinh thành Thăng-long. Ta đã có nửa giang sơn. Về binh lực thì ta mạnh nhất, với 13 hiệu binh, và 5 đạo ở Thăng-long. Thưa Đại-hãn, đã đến lúc chúng ta theo gương cũ, kéo cờ thế thiên hành đạo được rồi.
- Thế thiên hành đạo là gì vậy thưa Tiên-sinh? Đạo này là đạo gì?
- Thế thiên hành đạo là thay trời thực thi cái đạo. Đạo đây không phải đạo Phật, đạo Lão, mà là đạo của trời đất. Cái đạo lấy dân làm gốc, tạo hạnh phúc cho dân làm căn bản. Thời cổ bên Trung-hoa, vua Kiệt vô đạo, vua Thành-Thang kéo cờ nghĩa, diệt bạo, lập một triều đình mới lấy dân làm gốc. Vua Trụ tàn ác, bạo ngược, vua Võ khởi binh diệt Trụ, lập ra nhà Chu. Bên Đại-Việt ta, vua Hùng thứ 88 vô đạo, vua An-Dương kéo cao cờ nghĩa, đánh kẻ ác, lập ra triều đại mới. Lại nữa, gần đây, vua Ngọa-triều tàn ác, vô đạo, triều thần tôn Điện-tiền chỉ-huy sứ Lý Công-Uẩn lên làm vua, lập ra tiều Lý.
Thủ-Độ lắc đầu:
- Như vậy, phàm khi kéo cao cờ nghĩa, thì phải có hai điều căn bản. Một là kẻ đang cai trị tàn ác, vô đạo. Điều này thì trên trăm năm qua, các ông vua, các bà Thái-hậu, Hoàng-hậu triều Lý đã làm nhiều rồi. Dù chặt hết trúc ở núi Nam-sơn làm bút cũng không chép hết. Hai là, kẻ kéo cao cờ nghĩa phải là người có ân đức trải khắp thiên hạ. Điều này thì ta không có. Tôi chỉ là con một phò mã, với một công chúa. Tuổi còn trẻ, đức không, tài không, tôi không xứng đáng làm cái việc đó. Tuy vậy....
Hầu ghé miệng vào tai Chu nói nhỏ một lúc. Chu gật đầu tán thưởng:
- Đại-hãn quả là người trông rộng, nhìn xa. Vậy bây giờ Đại-hãn ra lệnh cho các Khả-hãn thực thi chính sách nô bộc, ruộng đất, nhẹ thuế mà Đại-hãn đã ban hành. Khiến dân chúng vùng kiểm soát của bang Lĩnh-Nam no ấm, hạnh phúc. Bấy giờ, ta bảo họ nhảy vào nước, vào lửa họ cũng không từ nan. Còn Đại-hãn thì tập trung một vài hiệu binh lưu động, cứ thấy bọn An-phủ sứ nào ác độc, tàn bạo, thì ban hịch cho dân chúng, rồi ta kéo quân tới bình định. Như vậy, trong một vài năm, thì ta làm chủ cả giang sơn này.