Taran muốn rèn một thanh gươm; nhưng bác Coll, vốn phải chịu trách nhiệm duy trì việc dạy dỗ thiết thực đối với cậu, lại quyết định rèn móng ngựa. Thế là suốt buổi sáng chỉ toàn móng ngựa. Hai cánh tay của Taran nhức nhối, bồ hóng bám đen kịt cả mặt cậu. Cuối cùng, cậu buông rơi chiếc búa và quay sang bác Coll, ông đang nhìn cậu vẻ trách cứ. “Tại sao chứ?” Taran kêu lên. “Tại sao lại phải là móng ngựa chứ? Làm như chúng ta có ngựa không bằng!” Bác Coll vóc người to khoẻ, chắc mập và cái đầu hói của ông bóng lên hồng hồng. “Thật may cho lũ ngựa.” ông chỉ nói có vậy trong khi liếc nhìn công trình của Taran. “Cháu có thể rèn gươm tốt hơn nhiều.” Taran phản đối. “Cháu biết cháu làm được mà.” Và trước khi bác Coll kịp trả lời thì cậu đã vồ lấy cái kẹp, liệng một thanh sắt đỏ rực lên chiếc đe và bắt đầu quai búa nhanh hết mức có thể. “Khoan, khoan đã!” Bác Coll kêu lên. “Làm thế không đúng!” Không để ý đến bác Coll, thậm chí còn không nghe thấy ông nói nữa vì tiếng búa nện, Taran lại càng đập mạnh hơn. Những tia lửa bắn tung toé khắp nơi. Nhưng cậu càng nện búa mạnh bao nhiêu thì thanh kim loại lại càng cong queo vẹo vọ bấy nhiêu, cho đến khi nó nảy bật ra khỏi chiếc kẹp và rơi xuống đất. Taran chán nản nhìn xuống. Cậu dùng chiếc kẹp nhặt thanh sắt cong queo lên ngắm nghía. “Không hẳn là một lưỡi gươm dành cho một vị anh hùng nhỉ.” Bác Coll nhận xét. “Nó bị hỏng rồi.” Taran rầu rĩ đồng tình. “Trông như một con rắn bị ốm ấy.” Cậu ủ rũ nói thêm. “Ta đã cố nói với cháu ban nãy đấy.” Bác Coll nói. “Cháu làm sai rồi. Phải cầm cái kẹp… như thế này này. Khi nện búa, lực phải truyền từ vai xuống và thả lỏng cổ tay ra. Cháu sẽ nghe được nếu làm đúng. Nó phát ra một âm thanh gần như tiếng nhạc vậy. Với lại,” Ông nói thêm, “đây đâu phải là thứ kim loại dùng để rèn vũ khí.” Bác Coll đặt lưỡi gươm bị vặn vẹo dị hình trở lại lò, ở đó nó hoàn toàn bị biến dạng. “Ước gì cháu có một thanh gươm của riêng mình,” Taran thở dài. “Và bác sẽ dạy cháu đấu gươm.” “Ước với chả muốn!” Bác Coll kêu lên. “Cháu muốn học cái đó làm gì cơ chứ? Ở Caer Dallben này có đánh nhau bao giờ đâu.” “Chúng ta cũng có ngựa đâu.” Taran cãi lại. “Thế mà bác cháu mình vẫn phải rèn móng ngựa đấy thôi.” “Thôi đi.” Bác Coll nói, không chút động lòng. “Đó là để rèn luyện mà.” “Thì cái này cũng là để rèn luyện.” Taran nài nỉ. “Xin bác hãy dạy cháu đấu gươm đi. Hẳn bác phải biết rõ thuật đấu gươm.” Cái đầu nhẵn bóng của bác Coll càng ửng hồng hơn. Một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt ông, như thể ông đang nghiềm ngẫm một điều thì đó rất thú vị. “Đúng thế,” ông khẽ nói “trước kia ta cũng đã từng cầm gươm một đôi lần.” “Xin bác dạy cháu ngay bây giờ đi.” Taran van vỉ. Cậu chộp lấy một thanh cời và vung nó lên, chém vào không khí và nhảy tới lui trên nền đất nện chặt. “Bác thấy chưa.” cậu reo lên, “Cháu đã biết hầu hết các ngón rồi đấy.” “Giơ tay lên.” Bác Coll bật cười. “Nếu cháu mà tấn công ta với cái kiểu vừa nhảy nhót vừa làm trò như thế thì giờ này ta đã có thể chặt cháu ra thành từng mảnh rồi.” Ông ngần ngừ một lát. “Xem đây.” Ông nói nhanh, “Ít ra cháu cũng phải biết tư thế đúng và tư thế sai là như thế nào.”Ông cầm lấy một que cời khác. “Đây.” Ông ra lệnh, với một cái nháy mắt hoen đầy bồ hóng. “Đứng cho ra dáng nam nhi xem nào.” Taran vung que cời của mình lên. Trong khi bác Coll la hét những lời chỉ dẫn, hai bác cháu bắt đầu gạt đỡ và lao tới tấn công giữa vô số tiếng loảng xoảng, làm náo loạn cả lên. Trong một thoáng, Taran ngỡ mình đã thắng thế so với bác Coll, nhưng ông già xoay tránh nhẹ nhàng lẹ thường. Bây giờ đến lượt Taran phải cố gắng một cách tuyệt vọng để đỡ những cú đâm của bác ta. Bất thình lình, bác Coll ngừng lại. Taran cũng dừng theo, que cời giơ lên lưng chừng trong không trung. Xuất hiện ở khung cửa xưởng rèn là hình dáng cao lớn, hơi còng xuống của cụ Dallben. Cụ Dallben, chủ nhân của Caer Dallben, đã ba trăm bảy mươi chín tuổi. Bộ râu che mặt cụ kín đến nỗi lúc nào cụ cũng có vẻ như đang nhìn qua một màn mây xám. Ở cái trại nhỏ này, nơi Taran và bác Coll lo cày ruộng, gieo hạt, giẫy cỏ, gặt lúa và các việc đồng áng khác, thì cụ Dallben đảm trách việc ngồi thiền, một công việc đòi hỏi nhiều sức lực đến nỗi cụ chỉ có thể hoàn thành nó bằng cách nằm xuống và nhắm nghiền mắt. Cụ thiền một tiếng rưỡi sau bữa sáng, và một lần nữa muộn hơn trong ngày. Tiếng ồn ào ở xưởng rèn đã cắt ngang giờ thiền buổi sáng của cụ; chiếc áo choàng cụ mặc buông xộc xệch trên đôi đầu gối gầy guộc. “Ngưng cái trò vớ vẩn này lại ngay lập tức.” cụ nói. “Ta ngạc nhiên vì anh đấy,” cụ nói thêm, nhíu mày nhìn bác Coll. “Còn nhiều việc nghiêm chỉnh phải làm kia mà.” “Không phải tại bác Coll đâu ạ.” Taran ngắt lời. “Chính con đã xin được học đấu gươm.” “Ta đâu có nói ta ngạc nhiên vì con.” cụ Dallben nói. “Nhưng có lẽ ta cũng có ngạc nhiên đấy. Ta nghĩ tốt hơn hết con nên đi theo ta.” Taran theo ông cụ ra khỏi xưởng rèn, đi qua sân nuôi gà vịt và bước vào căn nhà nhỏ màu trắng lợp mái tranh. Ở đó, trong phòng riêng của cụ Dallben, hàng chồng sách mốc meo xếp chặt trên những chiếc giá đã võng xuống và tràn cả ra sàn nhà giữa hàng đống nào là nồi sắt, nào là thắt lưng đóng đinh, những chiếc đàn hạc cái có dây cái không, và vô số thứ lặt vặt khác. Taran ngồi xuống cái ghế gỗ dài, nơi cậu vẫn luôn ngồi mỗi khi cụ Dallben muốn khuyên bảo hay quở trách điều gì. “Ta rất hiểu,” cụ Dallben nói, ngồi vào sau chiếc bàn của mình, “trong việc sử dụng vũ khí, cũng như mọi thứ khác, cần phải có một kỹ năng nhất định. Nhưng những cái đầu khôn ngoan hơn con sẽ quyết định khi nào thì con cần học cái kỹ năng ấy.” “Con xin lỗi ạ,” Taran mở miệng “lẽ ra con không nên…” “Ta không giận đâu,” cụ Dallben nói, giơ một bàn tay lên. “Chỉ hơi buồn một chút thôi. Thời gian trôi qua thật nhanh, nhiều điều luôn xảy ra sớm hơn người ta dự kiến. Thế nhưng,” ông lẩm bẩm gần như nói với chính mình, “nó vẫn khiến ta lo ngại. Ta e là Vua Sừng có nhúng tay vào việc này.” “Vua Sừng?” Taran hỏi. “Chúng ta sẽ nói đến hắn sau.” Cụ Dallben đáp. Cụ kéo một tập sách nặng bọc da về phía mình, Sách về Bộ Ba, cuốn sách mà thỉnh thoảng cụ vẫn đọc to lên cho Taran nghe, và cậu bé tin rằng trong những trang sách ấy chứa đựng tất cả mọi thứ mà con người muốn biết. “Như ta đã giải thích với con trước kia,” cụ Dallben nói tiếp, “ – và rất có thể là con đã quên – Prydain là một xứ sở với rất nhiều vương quốc nhỏ và nhiều vị vua. Và tất nhiên còn có cả các vị tướng điều khiển các cuộc chiến và chỉ huy chiến binh nữa.” “Nhưng có một Đức Vua Tối Cao ở trên tất cả,”Taran nói “Math, con trai của Mathonwy. Tướng của người là vị tướng hùng mạnh nhất Prydain. Thầy đã kể cho con nghe về người. Ông hoàng Gwydion! Đúng thế,” Taran hăm hở nói tiếp, “con biết…” “Còn có những điều khác mà con không biết,” cụ Dallben nói. “vì một lý do hiển nhiên là ta chưa cho con biết. Nhưng lúc này thì ta không lưu tâm tới vương quốc của kẻ sống bằng vương quốc của người chết, Annuvin.” Taran rùng mình khi nghe thấy cái tên ấy. Ngay cả cụ Dallben cũng chỉ dám thì thầm nói ra nó. “Và cả vua Arawn, chúa tể của Annuvin nữa.” cụ Dallben nói. “Con phải biết điều này,” cụ nói tiếp thật nhanh. “Annuvin không chỉ là vùng đất của người chết. Nó còn là một kho báu, chứa đựng không phải là vàng bạc và đá quý mà là tất cả những gì có lợi cho con người. Từ thuở xa xưa, loài người làm chủ những vật báu này. Bằng những mưu mẹo xảo quyệt và lừa đảo, Arawn đã ăn cắp chúng, từng thứ một, để phục vụ những mục đích xấu xa của riêng hắn. Một vài vật báu đã được giành lại từ tay hắn, nhưng phần lớn vẫn còn bị giấu kín sâu trong lòng Annuvin, nơi Arawn canh giữ chúng hết sức cẩn mật.” “Nhưng Arawn đã không trở thành chúa tể của Prydain.” Taran nói. “Con phải lấy làm biết ơn là chuyện đó đã không xảy ra.” cụ Dallben nói. “Hắn đã có thể thống trị xứ sở này nếu như không có Các Con của Don, những người con trai của Phu Nhân Don và chồng của người là Belin, Vua Mặt Trời. Cách đây rất lâu, họ đã làm một cuộc hành trình từ Vương quốc Mùa Hè đến Prydain và thấy vùng đất này thật màu mỡ và tươi đẹp, mặc dù loài người có rất ít tài sản cho riêng mình. Các Con Trai của Don đã xây dựng pháo đài của họ tại Caer Dathyl, ở phía bắc của Núi Đại Bàng. Từ đó, họ đã giúp thu hồi lại ít ra là một phần những gì Arawn đã lấy cắp, và trở thành người bảo hộ chúng ta khỏi mối đe doạ luôn cận kề của Annuvin.” “Con không thích nghĩ tới điều sẽ xảy ra nếu các Con Trai của Don không tới nơi này.” Taran nói. “Đúng là số phận may mắn đã đưa họ đến đây.” “Ta không dám chắc như thế đâu.” cụ Dallben đáp với một nụ cười châm biếm. “Người dân xứ Prydain đã trở nên lệ thuộc vào sức mạnh của Dòng họ Don, chẳng khác nào một đứa trẻ bám chặt lấy mẹ nó. Ngày nay vẫn vậy. Math, Đứa Vua Tối Cao, là dòng dõi của Don. Ông hoàng Gwydion cũng thế. Nhưng tất cả cũng chỉ là vậy thôi. Prydain đã được tận hưởng thái bình - đến hết mức mà con người có thể có được – cho đến tận lúc này. Có một điều con không biết,” cụ Dallben nói tiếp, "đó là: đã có tin đến tai ta rằng một vị tướng cực kì hùng mạnh mới nổi dậy, uy quyền không kém gì Gwydion; có người còn nói là uy quyền hơn nữa kia. Nhưng hắn là một kẻ xấu xa, với hắn cái chết là một thú vui đen tối. Hắn đùa bỡn với cái chết như ta đùa với một chú chó vậy.” “Hắn là ai ạ?” Taran kêu lên. Cụ Dallben lắc đầu. “Không ai biết tên hắn, cũng chưa ai nhìn thấy mặt hắn. Hắn luôn mang một chiếc mặt nạ có sừng, và vì thế người ta gọi hắn là Vua Sừng. Mục đích của hắn là gì thì ta không rõ. Ta nghi ngờ có bàn tay của Arawn nhúng vào, nhưng bằng cách nào thì ta không thể biết được. Ta nói cho con biết là để bảo vệ con.” Cụ Dallben nói thêm. “Theo như những gì ta thấy sáng nay thì đầu óc con nhồi nhét đầy những ý nghĩ vớ vẩn về các chiến công oanh liệt. Con có ý tưởng gì đi chăng nữa thì ta cũng khuyên con nên quên ngay chúng đi. Có một mối hiểm nguy khó lường đang rình rập bên ngoài. Con mới chỉ ngấp nghé đến ngưỡng tuổi trưởng thành, và ta có trách nhiệm trông nom sao cho con đến được cái tuổi ấy mà vẫn còn nguyên vẹn da thịt. Vì thế con không được rời Caer Dallben trong bất kỳ trường hợp nào, không được đi quá vườn cây ăn quả, và nhất là không được vào rừng – ít nhất là trong khoảng thời gian này.” “Trong khoảng thời gian này ư!” Taran thốt lên. “Con thì nghĩ là lúc nào cũng là “khoảng thời gian này”, và suốt đời con sẽ chỉ toàn là rau cỏ và móng ngựa thôi!” “Chậc,” cụ Dallben nói, “còn có những thứ khác tồi tệ hơn nhiều. Con định trở thành một vị anh hùng oai phong lẫm liệt sao? Con tưởng rằng chỉ việc vung kiếm và thúc ngựa phi nước đại là được sao? Còn về chuyện oai phong lẫm liệt thì…” “Thế Ông hoàng Gwydion thì sao?” Taran kêu lên. “Đúng thế! Con mong có thể trở nên giống như người!” “Ta e là điều đó hoàn toàn không thể được,” cụ Dallben tiếp. “Nhưng tại sao chứ ạ?” Taran đứng bật dậy. “Con biết nếu như con có cơ hội…” “Tại sao ấy à?” Cụ Dallben ngắt lời. “Trong một vài trường hợp,” cụ nói, “chúng ta muốn học từ việc tìm kiếm câu trả lời cho một câu hỏi và thường không tìm thấy nó nhiều hơn là học được từ chính câu trả lời ấy. Đây là một trong những trường hợp như thế. Ta có thể cho con biết tại sao, nhưng vào lúc này thì nó chỉ làm cho mọi việc thêm rối rắm mà thôi. Nếu con lớn lên mà có chút trí khôn – đôi khi con còn làm ta nghi ngờ điều này đấy – thì con sẽ tự rút ra được kết luận cho bản thân mình. Các kết luận của con có thể không đúng,” cụ nói thêm. “tuy nhiên, vì chúng là của riêng con, con sẽ thấy hài lòng với chúng hơn.” Taran ngồi xuống ghế, ủ rũ và lặng lẽ. Cụ Dallben lại đã bắt đầu thiền. Cằm cụ từ từ hạ xuống xương đòn; bộ râu của cụ bồng lên quanh hai tai như một màn sương mù; và cụ bắt đầu ngáy một cách bình thản. Mùi hương mùa xuân của những bông hoa táo bay vào qua ô cửa sổ. Bên ngoài phòng cụ Dallben, Taran thoáng trông thấy màu xanh xám của bìa rừng. Những cánh đồng sẵn sàng được cày xới, chẳng mấy chốc sẽ chuyển sang màu ánh vàng khi hè tới. Cuốn Sách về Bộ Ba đang nằm trên bàn. Taran chưa bao giờ được phép tự đọc cuốn sách; bây giờ cậu dám chắc nó chứa đựng nhiều hơn những gì cụ Dallben cho cậu biết. Trong căn phòng tràn ngập ánh nắng, với Dallben vẫn đang thiền và không hề có dấu hiệu gì chứng tỏ cụ sắp ngừng lại, Taran liền đứng dậy và bước tới giữa những tia nắng lung linh. Từ cánh rừng vẳng tới tiếng rúc buồn tẻ của một con bọ nào đó. Bàn tay cậu chạm tới bìa cuốn sách. Taran buột một tiếng kêu đau đớn và vội rụt tay lại. Từng ngón tay của cậu nhức nhối như thể chúng đều bị ong bắp cày đốt vậy. Cậu nhảy lùi lại, vấp phải chiếc ghế và ngã lăn ra sàn, ở đó cậu thiểu não đưa tay lên miệng mút. Dallben mở mắt. Cụ săm soi nhìn Taran và chậm rãi ngáp dài. “Con nên đến tìm bác Coll để bôi thuốc cho hai bàn tay đi.” cụ khuyên. “Không thì ta sẽ không ngạc nhiên nếu thấy chúng bị phồng rộp đâu.” Với những ngón tay đau nhức, Taran ngượng ngùng chạy ra khỏi căn nhà tranh và tìm thấy bác Coll ở gần vườn rau. “Hẳn cháu đã mó vào cuốn Sách về Bộ Ba.” Bác Coll nói. “Chẳng khó khăn gì mà không đoán ra được. Bây giờ thì cháu đã biết rồi đấy. Thôi, dù sao thì đó cũng là một trong ba nền móng của việc học tập: thấy nhiều, học nhiều, chịu đau đớn nhiều.” Ông dẫn Taran đến chuồng ngựa, nơi cất giữ thuốc men cho gia súc và đổ thuốc lên những ngón tay của Taran. “Học nhiều thì ích lợi gì kia chứ, khi mà cháu chẳng được thấy gì cả?” Taran vặn lại. “Cháu nghĩ số phận đã định rằng cháu sẽ không bao giờ được biết hay làm điều gì thú vị cả. Chắc chắn là cháu sẽ chẳng trở thành cái gì cả. Cháu chẳng là cái gì, ngay cả ở Caer Dallben này!” “Được thôi,” bác Coll nói, “nếu điều đó làm cháu bận lòng, thì ta sẽ ban cho cháu một danh hiệu gì đó. Từ giờ trở đi, cháu sẽ là Taran, Phụ - Chăn lợn. Cháu sẽ giúp ta chăm sóc Hen Wen: lo cho máng ăn của nó luôn được đầy, xách nước cho nó, và cứ cách một ngày lại kì cọ nó cho thật kĩ.” “Bây giờ cháu vẫn đang làm các việc ấy đấy thôi.” Taran cay đắng nói. “Càng tốt,” Coll nói “bởi vì nó sẽ làm mọi việc càng dễ dàng hơn. Nếu cháu muốn trở thành một cái gì đó có tước hiệu thì ta không thể nghĩ ra được cái gì đúng hơn cả. Vả lại, không phải chú bé nào cũng có thể trở thành người phụ việc chăm sóc một con lợn có tài tiên tri. Thật ra, nó là con lợn duy nhất có tài tiên tri ở xứ Prydain này, và là con lợn quý giá nhất.” “Quý giá đối với thầy Dallben thôi,” Taran nói. “Nó chẳng bao giờ nói cho cháu biết điều gì cả.” “Cháu nghĩ là nó sẽ nói chắc?” Bác Coll trả lời. “Với Hen Wen thì phải biết hỏi cho đúng cách – cái gì thế kia?” Bác Coll đưa tay lên che mắt. Một đám mây đen kêu vo ve bay lên từ vườn quả, lao tới và vụt qua đầu Coll sát đến nỗi ông phải nhảy qua một bên. “Đàn ong!” Taran hét. “Chúng đang chia tổ đấy!” “Chưa đến lúc mà,” Coll kêu lên. “Có điều gì đó không ổn rồi.” Đám mây bay lên cao về phía mặt trời. Đúng lúc đó, Taran nghe thấy một tiếng cục tác rất to từ phía chuồng gà. Cậu quay lại và thấy năm con gà mái cùng với chú gà trống đang đập cánh. Cậu chưa kịp nhận ra là chúng đang cố bay thì chúng đã bay vụt lên. Taran và bác Coll lao tới chuồng gà nhưng không kịp bắt lại đàn gia cầm. Với chú gà trống dẫn dầu, đàn gà vụng về bay trên không trung và biến mất sau một sườn đồi. Ở khu chuồng gia súc, một cặp bò rống lên và đảo mắt vẻ khiếp hãi. Cụ Dallben thò đầu ra cửa sổ. Cụ có vẻ hết sức bực bội. “Không thể thiền toạ được gì cả.” cụ nói, đưa cái nhìn nghiêm khắc về phía Taran. “Ta đã cảnh cáo con một lần rồi kia mà…” “Có điều gì đó khiến các con vật hoảng sợ.” Taran cãi lại. “Đầu tiên là đàn ong, sau đó cả đàn gà cũng bay mất…” Gương mặt cụ Dallben trở nên nghiêm trọng. “Ta không hề hay biết gì về việc này cả.” cụ nói với bác Coll. “Phải hỏi Hen Wen việc này ngay lập tức, và chúng ta cần có thẻ bài. Nhanh lên, giúp ta đi tìm chúng ngay.” Bác Coll vội vã đi về phía căn nhà. “Để ý đến Hen Wen đấy.” bác ra lệnh cho Taran. “Đừng để nó lọt khỏi tầm mắt cháu.” Bác Coll biến vào trong nhà để lục tìm thẻ bài của Hen Wen, chúng là những thanh gỗ tần bì có khắc những câu thần chú. Taran vừa sợ hãi vừa háo hức. Cậu biết cụ Dallben chỉ đến hỏi ý kiến Hen Wen trong những trường hợp cấp bách nhất. Trong trí nhớ của Taran thì việc này chưa bao giờ xảy ra. Cậu chạy vội đến chuồng lợn. Hen Wen thường ngủ đến tận trưa. Sau đó bất chấp thân hình béo tròn, nó sẽ lon ton chạy đến một góc chuồng có bóng râm và nằm nghỉ một cách thoải mái cho đến hết ngày. Cô lợn nái màu trắng này lúc nào cũng ủn ỉn một mình, và mỗi khi nhìn thấy Taran, nó lại ngẩng bộ mặt to tướng, tinh ranh lên để cậu gãi bên dưới cằm. Nhưng hôm nay thì nó chẳng thèm để ý đến cậu. Hen Wen đang vừa thở khò khè vừa điên cuồng đào bới lớp đất mềm phía bên kia chuồng, nhanh đến nỗi chẳng mấy chốc nó sẽ thoát ra được. Taran hét gọi nó, nhưng những cục đất vẫn bay lên tới tấp. Cậu nhảy qua hàng rào. Cô lợn có tài tiên tri liền dừng lại và nhìn quanh. Trong khi Taran tiến về phía cái hố, giờ đã khá lớn, Hen Wen liền chạy ngay sang phía đối diện chuồng và lại bắt đầu đào một cái hố mới. Taran rất khoẻ và dài chân, nhưng cậu thất đảm nhận ra Hen Wen còn chạy nhanh hơn. Cậu vừa xua nó khỏi cái hố thứ hai thì nó đã nhanh chóng xoay những chiếc chân ngắn ngủn và chạy về cái hố ban đầu. Cả hai cái hố giờ đều đã đủ to cho nó chui đầu và vai qua. Taran điên cuồng cào đất lấp cái hố. Hen Wen đào nhanh hơn cả một con lửng, hai chân sau trụ chắc, hai chân trước cào tới. Taran tuyệt vọng cố chặn nó lại. Cậu bò qua hàng rào và nhảy đến chỗ Hen Wen sắp chui ra, định túm lấy nó và cứ giữ như thế cho tới khi cụ Dallben và bác Coll xuất hiện. Cậu đã không lường trước được Hen Wen nhanh và khoẻ đến thế nào. Đất và sỏi đá bắn tung lên khi cô lợn lao qua hàng rào và đẩy bật Taran lên không trung. Cậu ngã xuống mạnh đến nỗi không thở được. Hen Wen đã chạy qua cánh đồng và lao vào rừng. Taran liền đuổi theo. Trước mặt cậu, cánh rừng vươn cao tối tăm và đầy vẻ đe doạ. Cậu hít một hơi dài và lao theo sau Hen Wen.