Đừng nghĩ đến chuyện có thể nuôi chim ưng làm cảnh. Ở đây không có chỗ cho sự ủy mị. Xét ở góc độ nhất định, đó là nghệ thuật của một bác sĩ tâm thần. Là một cuộc đấu trí giữa hai bên với động cơ và lợi ích chết người! CHIM ƯNG, T. H. WHITE Để tưởng nhớ bà tôi Ethel May Rider hi Edward Carney chào tạm biệt vợ là Percey, anh không hề nghĩ rằng đó sẽ là lần cuối cùng anh được nhìn thấy cô. Anh trèo vào chiếc xe đang đậu trên một khoảng trống hiếm hoi ở phố Tám mươi mốt Đông trong khu Mahattan của mình và hoà vào dòng xe trên đường. Vốn là người có óc quan sát bẩm sinh, Carney chợt để ý thấy một chiếc xe thùng màu đen đang đậu gần nhà anh. Một chiếc xe thùng với những cửa kính gương phản quang lấm tấm vết bùn. Anh liếc nhìn chiếc xe cà tàng và nhận thấy nó mang biển số bang West Virginia, anh chợt nhớ ra là đã mấy lần nhìn thấy chiếc xe ngoài phố trong vài ngày vừa qua. Nhưng rồi dòng xe trước mặt anh bỗng nhiên tăng tốc. Anh kịp chạy vọt lên khi đèn giao thông vừa chuyển sang màu vàng và hoàn toàn quên bẵng chiếc xe thùng. Trong giây lát anh đã rẽ ra đường cao tốc FDR[1], hướng thẳng về phía bắc. Hai mươi phút sau, anh nhấc điện thoại gắn trong xe và gọi cho vợ. Anh hơi bồn chồn khi không thấy cô nghe máy. Theo kế hoạch thì lẽ ra Percey sẽ bay cùng anh hôm nay – đêm qua họ đã tung đồng xu để tranh nhau chiếc ghế bên trái[2]trong buồng lái và cô là người chiến thắng, thậm chí cô còn tặng anh một nụ cười đắc chí không lẫn vào đâu được. Nhưng rồi lúc ba giờ sáng nay, cô thức dậy với một cơn đau nửa đầu nhức buốt đến hoa mắt suốt cả ngày không dứt. Sau vài cuộc điện thoại họ đã tìm được một phi công phụ thay thế, Percey uống một viên Fiorinal và quay lại giường nằm nghỉ. Cơn đau nửa đầu là chứng bệnh duy nhất có thể bắt cô ở lại mặt đất. Edward Carney – năm nay bốn mươi lăm tuổi, với thân hình xương xương và cao lòng khòng, mái tóc vẫn để húi cua kiểu quân đội – hơi nghiêng đầu, căng tai lắng nghe tiếng chuông điện thoại đang đổ dồn cách đó vài dặm[3]. Chiếc máy trả lời tự động ở nhà bật lên, anh đặt điện thoại xuống giá để ống nghe, bắt đầu thấy lo lắng. Anh giữ cho xe chạy ở tốc độ chính xác 60 dặm một giờ, căn chính giữa làn đường bên phải; giống như các phi công khác, anh là người bảo thủ khi ngồi sau vô lăng. Anh tin tuởng những phi công khác nhưng lại cho rằng hầu hết dân lái xe trên đường đều là lũ điên rồ. Trong văn phòng công ty bay dịch vụ Hudson Air Charters nằm trong sân bay khu vực Mamaroneck ở Westchester, một chiếc bánh ngọt đã chờ sẵn. Bà Sally Anne nghiêm nghị và chỉn chu – người thơm nức chẳng khác gì gian bán nước hoa tại một cửa hàng Macy – đã tự tay nướng chiếc bánh để chào mừng hợp đồng mới của công ty. Cài trên đầu chiếc trâm xấu mù hình chiếc máy bay hai tầng cánh bằng kim cương giả do lũ cháu nội tặng từ hồi Giáng sinh năm ngoái, bà nhìn một lượt khắp phòng để bảo đảm là mỗi người trong số hơn chục nhân viên công ty đều đã có phần bánh to bự của mình. Ed Carney ăn qua loa vài miếng bánh và trao đổi về chuyến bay đêm nay với Ron Talbot, cái bụng khổng lồ của người đàn ông này khiến người ta có cảm giác ông ta thích bánh trái, mặc dù thực tế ông ta sống chủ yếu bằng thuốc lá và cà phê. Talbot đảm nhiệm cả hai cương vị giám đốc điều hành bay và giám đốc kinh doanh, ông ta không giấu nổi nỗi lo lắng liệu chuyến hàng có đưa tới nơi kịp thời gian không, liệu khoản tiêu hao nhiên liệu cho chuyến bay được tính toán chính xác chưa, và liệu họ đề nghị mức giá như vậy đã thỏa đáng chưa. Carney đưa nốt cho ông ta chỗ bánh còn lại của mình và bảo ông ta cứ yên tâm. Chợt anh lại nghĩ đến Percey và bước vào phòng làm việc của mình, nhấc điện thoại lên. Vẫn không thấy có ai ở nhà nhấc máy. Giờ thì cảm giác bồn chồn đã trở thành lo lắng thực sự. Những người có con cái và những người có công ty riêng bao giờ cũng phải ngay lập tức nhấc điện thoại đang đổ chuông. Anh dập mạnh ống nghe xuống, tho&aa “bảo hắn biến khỏi hiện trường vụ án của cô ngay”. “Jim, biến ra khỏi hiện trường vụ án của tôi ngay.” “Nếu không cô sẽ báo cho cấp trên của hắn.” “Nếu không tôi sẽ báo cho cấp trên của anh.” “Ô kìa, cứ nhất định là phải như vậy sao?” Anh ta giơ cả hai tay lên ra dấu hiệu đầu hàng. Câu tán tỉnh cuối cùng tắc lại trong nụ cười nhăn nhở của anh ta. “Tiếp tục đi, Sachs.” Tay cảnh sát bảnh trai lững thững bước đi đủ chậm rãi để cố vớt vát chút sĩ diện. Anh ta cũng ngoái lại một lần nhưng cái lườm sắc lẹm của cô khiến anh ta phải câm bặt. Amelia Sachs bắt đầu bước theo khung chia ô. Có nhiều cách để tiến hành khám nghiệm các hiện trường vụ án. Kiểm tra tổng quát – bước dọc hiện trường theo một đường ngoằn ngoèo – thường được áp dụng cho những hiện trường ngoài trời vì có thể bao quát môt diện tích lớn trong khoảng thời gian ngắn. Nhưng Rhyme không bao giờ chấp nhận cách này. Anh sử dụng cách kiểm tra theo mô hình khung tọa độ vuông – tức là rà soát toàn bộ diện tích hiện trường từ đầu này đến đầu kia theo một hướng, mỗi lần chỉ được bước từng bàn chân một, sau đó rẽ theo một hướng vuông góc và bắt đầu bước tiếp theo chiều đó. Hồi Rhyme còn phụ trách IRD, “bước tọa độ” cũng đồng nghĩa với việc khám nghiệm hiện trường gây án, và có trời mới cứu được bất kỳ nhân viên cảnh sát nào bị Rhyme bắt quả tang đi đường tắt hoặc lơ đễnh khi họ đang bước trên khung tọa độ đó. Lần này Sachs mất cả nửa tiếng đồng hồ đi đi lại lại. Mặc dù chiếc xe phun nước có thể đã xóa sạch các dấu vân tay và những bằng chứng dấu vết, nhưng nó cũng không thể nào phá hủy được những bằng chứng lớn hơn mà biết đâu tên Vũ công đã làm rơi, vả lại nó cũng xóa mất những dấu chân hoặc dấu cơ thể nằm ép xuống còn in trên bãi lầy bên cạnh đường băng. Nhưng cô không tìm thấy gì. “Chết tiệt thật, Rhyme, chẳng có gì cả.” “Kìa, Sachs, tôi cá là thế nào cũng có. Tôi dám cá là có rất nhiều ấy chứ. Chỉ cần chịu khó nỗ lực hơn một chút so với hầu hết các hiện trường khác. Tên Vũ công không giống những hung thủ khác, hãy nhớ thế.” Ôi trời, lại là chuyện đó. “Sachs”. Giọng anh bỗng trầm xuống dỗ dành. Cô bỗng thấy rùng mình. “Hãy nhập vào hắn”, Rhyme thì thầm. “Cô hiểu ý tôi mà.” Cô hiểu chính xác ý anh là gì. Căm ghét ý nghĩ đó. Nhưng, ôi trời, đúng vậy, Sachs biết. Những nhà hình sự học cừ khôi nhất phải có khả năng tìm thấy một chỗ nào đó trong tâm trí mình, nơi mà ranh giới giữa kẻ đi săn và con mồi dường như không còn tồn tại. Họ bước qua những hiện trường vụ án không phải với cương vị cảnh sát đang đi tìm đầu mối mà là chính bản thân hung thủ, cảm nhận được những dục vọng, khát khao và nỗi sợ hãi của hắn. Rhyme sở hữu khả năng bẩm sinh đó. Và mặc dù Sachs cố gắng phủ nhận thì thực tế là cô cũng có. (Mới tháng trước cô đã khám nghiệm một hiện trường – một người cha đã sát hại vợ và con của mình – và tìm được hung khí gây án sau khi tất cả những người khác đã bó tay. Sau khi vụ án kết thúc, cả tuần liền cô không thể nào làm việc được và liên tục bị hành hạ bởi cảm giác kinh hoàng rằng chính cô là kẻ đã đâm chết các nạn nhân. Chứng kiến khuôn mặt họ, nghe rõ mồn một tiếng gào thét của họ.) Một thoáng im lặng. “Hãy nói với tôi đi”, anh nói. Và cuối cùng sự gay gắt trong giọng nói của anh biến mất. “Cô chính là hắn. Cô đang bước qua những chỗ hắn đã từng bước qua, cô đang nghĩ hệt như cách hắn đang nghĩ…” Tất nhiên trước đây anh vẫn nói những lời như vậy với cô. Nhưng lần này – cũng như tất cả những gì liên quan đến tên Vũ công – Sachs có cảm giác Rhyme còn ấp ủ nhiều điều trong đầu chứ không đơn giản chỉ là tìm kiếm những bằng chứng mơ hồ. Không, cô linh cảm thấy anh đang khát khao muốn biết tất cả những gì có thể ở tên giết người này. Hắn là ai, điều gì khiến hắn ra tay như vậy. Lại một cái rùng mình. Một hình ảnh hiện lên trong suy nghĩ của cô: Quay lại cái đêm hôm đó. Những ánh đèn pha trên sân bay, âm thanh của những động cơ máy bay, mùi xăng cháy phụt ra từ động cơ phản lực. “Cố lên, Amelia… Cô chính là hắn. Cô là Vũ công Quan tài. Cô biết Ed Carney đang ở trên máy bay, cô biết cô phải gài quả bom lên máy bay. Hãy tập trung một, hai phút nghĩ về điều đó.” Và cô làm theo, khơi dậy từ đâu đó trong tiềm thức một khát khao được giết. Anh vẫn tiếp tục, với một giọng nói nghe thật du dương, kỳ ảo. “Cô rất quỷ quyệt”, anh nói. “Cô hoàn toàn không có những rào cản về đạo đức. Cô sẽ giết bất kỳ ai. Cô sẽ làm bất kỳ điều gì để đạt được mục đích của mình. Cô đánh lạc hướng, cô lợi dụng người khác… Vũ khí đáng sợ nhất của cô là đánh lạc hướng.” Tôi nằm chờ đợi. Vũ khí đáng sợ nhất của tôi… Cô nhắm nghiền mắt lại. …là đánh lạc hướng. Sachs cảm thấy một niềm hy vọng đen tối, một sự cảnh giác, một khát khao săn mồi. “Tôi…” Anh khẽ khàng tiếp lời. “Có chỗ nào để đánh lạc hướng không, bất kỳ nơi ẩn nấp nào?” Lúc này cô mở choàng mắt. “Toàn bộ khu vực này trống trải. Không có gì để đánh lạc hướng các phi công cả.” “Cô đang trốn ở đâu vậy?” “Tất cả các hangar đều bị đóng kín. Cỏ mọc xung quanh lại quá thấp nên không thể trốn ở đó được. Không có xe tải hay thùng phuy dầu nào cả. Không ngóc ngách. Không góc khuất.” Trong thâm tâm cô là sự tuyệt vọng. Mình phải làm gì bây giờ? Mình phải gài quả bom. Mình không còn nhiều thời gian nữa. Đèn pha… đèn pha sáng rực khắp mọi nơi. Cái gì? Mình phải làm gì bây giờ? Cô nói: “Tôi không thể trốn ở bất kỳ đâu bên ngoài những hangar này. Có rất nhiều công nhân. Địa hình quá trống trải. Chắc chắn họ sẽ nhìn thấy tôi”. Trong giây lát, Sachs lại chìm đắm vào dòng suy tưởng của mình và cô tự hỏi, như cô vẫn thường làm, tại sao Lincoln Rhyme lại có được quyền năng nhập hồn cô vào người khác. Thỉnh thoảng điều đó khiến cô tức giận. Thỉnh thoảng nó lại làm cô phấn khích. Đổ phịch người xuống như một kẻ đang cần náu mình, bất chấp cơn đau ở hai đầu gối do chứng viêm khớp đã hành hạ Sachs dở sống dở chết suốt mười năm qua, trong cuộc đời ba mươi hai năm của cô. “Ở đây quá trống trải. Tôi cảm thấy bị phơi ra trần trụi.” “Lúc này cô đang nghĩ gì?” “Có rất nhiều người đang săn lùng tôi. Tôi không thể để họ tìm thấy tôi. Tôi không thể!” Như thế này thật nguy hiểm. Phải lẩn trốn. Phải thấp người xuống. Không có chỗ nào để trốn. Nếu mình bị nhìn thấy, tất cả sẽ tan thành mây khói. Họ sẽ phát hiện ra quả bom, họ sẽ biết mình đang bám theo ba nhân chứng kia. Họ sẽ đưa các nhân nhân chứng vào chương trình bảo vệ đặc biệt. Mình sẽ không bao giờ hạ được chúng. Mình không thể để điều đó xảy ra. Cảm nhận được nỗi hoảng sợ của hắn, cô quay lại đối diện với nơi duy nhất có thể lẩn trốn được. Chiếc hangar ngay bên cạnh đường băng. Trên bức tường trước mặt cô lúc này là một khung cửa sổ duy nhất bị vỡ, kích thước khoảng 3x4 feet. Trước đó cô đã bỏ qua nó vì khung cửa sổ được che kín bằng một tấm gỗ dán mục nát, được đóng đinh chặt với khung cửa từ phía bên trong. Cô chậm rãi lại gần. Nền đất phía trước được trải sỏi; hoàn toàn không có dấu chân. “Có một cửa sổ được đóng kín, Rhyme. Chắn bằng gỗ dán từ phía trong. Cửa kính bị đập vỡ.” “Nó có bẩn không, mảng kính còn lại trên cửa số ấy?” “Bẩn lắm.” “Còn mép kính?” “”Không, rất sạch sẽ.” Cô chợt hiểu tại sao anh lại hỏi câu hỏi đó. “Tấm kính mới bị đập vỡ!” “Chính xác. Đẩy tấm gỗ đi. Đẩy mạnh vào.” Nó đổ ập vào bên trong một cách dễ dàng và đập xuống nền nghe đánh rầm một tiếng rất to. “Tiếng gì vậy?”, Rhyme quát lên. “Sachs, cô không sao đấy chứ?” “Chỉ là tấm gỗ rơi xuống thôi”, cô trả lời, lại bắt đầu cảm thấy ớn lạnh vì sự bứt rứt và căng thẳng của anh. Cô rọi chiếc đèn pin halogen của mình vào trong hangar. Nó bị bỏ không. “Cô thấy những gì, Sachs?” “Trống trơn. Vài cái hộp bụi bặm. Trên sàn nhà có sỏi…” “Đúng là hắn rồi!”, Rhyme trả lời. “Hắn phá cửa sổ và ném sỏi vào trong, để hắn có thể đứng trên sàn nhà mà không để lại dấu chân. Đó là một thủ đoạn xưa như Trái Đất. Có dấu chân nào ở phía trước cửa sổ không? Thế nào chả đầy sỏi”, anh chua chát nói thêm. “Đoán đúng rồi đấy.” “Được rồi. Kiểm tra cửa sổ. Rồi trèo vào bên trong. Nhưng nhớ đề phòng xem có cái bẫy mìn nào không. Hãy nhớ chuyện thùng rác cách đây vài năm.” Thôi đi, Rhyme. Thôi ngay đi. Sachs lại lia đèn pin vào bên trong chiếc hangar một lần nữa. “Sạch sẽ, Rhyme. Không có bẫy gì cả. Tôi đang kiểm tra khung cửa sổ.” Thiết bị PoliLight không hiển thị được gì ngoài một dấu mờ mờ của ngón tay đi găng vải để lại. “Không có sợi, chỉ có hoa văn của vải bông thôi.” “Có gì trong hangar không? Bất kỳ thứ gì đáng đánh cắp?” “Không. Hầu như trống trơn.” “Tốt lắm”, Rhyme nói. “Sao lại tốt?”, cô hỏi. “Tôi đã bảo là chẳng có dấu vân tay nào cả.” “À, nhưng có nghĩa đó đúng là hắn rồi. Sẽ không logic nếu có ai đó khác phá cửa vào đây mà lại còn mang găng tay vải trong khi chẳng có gì đáng để ăn cắp cả.” Cô thận rọng kiểm tra. Không dấu vân tay, không dấu chân, không có bất kỳ bằng chứng nào. Cô cho chạy thiết bị hút bụi Dustbuster và cho những thứ hút được vào túi. “Mảnh thủy tinh và sỏi”, cô hỏi. “Cho vào túi giấy chứ?” “Ừ.” Hơi ẩm thường phá hủy những bằng chứng dạng vi chất và mặc dù trông có vẻ không được chuyên nghiệp cho lắm thì thực tế là một số bằng chứng sẽ được bảo quản và vận chuyển tốt nhất trong những túi giấy màu nâu thay vì dùng túi nhựa. “Được rồi, Rhyme. Tôi sẽ chuyển chúng về chỗ anh trong vòng bốn mươi phút nữa.” Họ cắt liên lạc. Trong lúc cẩn thận xếp đặt những chiếc túi vào trong chiếc RRV, Sachs cảm thấy bồn chồn, khó chịu, giống như mọi lần sau khi khám nghiệm một hiện trường mà cô không tìm thấy bằng chứng cụ thể nào – dao hoặc súng hay ít nhất cũng là ví của mhung thủ. Những dấu vết mà cô thu thập được có thể là đầu mối để lần ra tên Vũ công là ai và hắn đã trôn ở đâu. Nhưng toàn bộ nỗ lực của cô có thể cũng chỉ là vô ích. Cô nóng lòng muốn quay lại phòng thí nghiệm của Rhyme để kiểm tra xem mình đã tìm được những gì. Sachs trèo lên chiếc wagon và lái xe quay trở lại văn phòng Hudson Air. Cô vội vã bước vào phòng làm việc của Ron Talbot. Ông ta đang nói chuyện với một người đàn ông cao gầy đứng quay lưng về phía cửa. Sachs lên tiếng, “Tôi vừa phát hiện ra nơi hắn ẩn nấp, ông Talbot. Hiện trường được giải phóng. Ông có thể thông báo cho Đài Kiểm soát…”. Người đàn ông kia quay mặt lại. Đó là Brit Hale. Anh ta cau mày, cố gắng nghĩ đến tên cô, rồi cũng nhớ ra. “Ồ, sĩ quan Sachs. Này. Công việc của cô thế nào rồi?” Theo phản xạ tự nhiên cô đang định gật đầu chào lại, rồi bỗng ngưng phắt lại. Anh ta làm gì ở đây thế này? Lẽ ra anh ta phải đang ở trong ngôi nhà an toàn rồi chứ. Cô nghe thấy tiếng nức nở khe khẽ và nhìn vào trong phòng họp. Trong đó là Percey Clay đang ngồi bên cạnh Lauren, cô nàng ngăm đen xinh đẹp mà theo Sachs nhớ là trợ lý của Ron Talbot. Lauren đang khóc và Percey, cứng cỏi ngay trong nỗi đau khổ của chính mình, đang cố an ủi cô ta. Percey ngước lên, nhận ra Sachs và gật đầu chào cô. Không, không, không… Và rồi cú sốc thứ ba. “Xin chào, Amelia”, Jerry Banks vui vẻ thốt lên, vừa nhấp cà phê vừa đứng bên cạnh cửa sổ, nơi anh ta đang chiêm ngưỡng chiếc Learjet đậu trong hangar. “Chiếc máy bay đó thật ấn tượng phải không?” “Họ đang làm gì ở đây vậy?”, Sachs hỏi giật giọng, chỉ tay về phía Hale và Percey, quên phắt rằng Banks có cấp bậc cao hơn cô. “Họ có vấn đề gì đó liên quan đến một tay thợ cơ khí”, Banks nói. “Percey muốn ghé qua đây. Cố gắng tìm…” “Rhyme”, Sachs quát lên vào máy bộ đàm. “Chị ta đang ở đây.” “Ai cơ?”, anh gắt gỏng hỏi. “Và đây là ở đâu chứ?” “Percey. Và cả Hale nữa. Ở sân bay.” “Không! Lẽ ra họ phải đang ở trong ngôi nhà an toàn chứ.” “Hừ, họ không ở đó. Họ đang đứng ngay trước mặt tôi.” “Không, không, không!”, Rhyme gầm lên. Một khoảnh khắc nặng nề trôi qua. Rồi anh hỏi, “Hỏi Banks xem họ có thực hiện quy trình lái xe chống bị bám đuôi không?” Banks lúng túng trả lời là không. “Cô ấy cứ khăng khăng là phải cho họ ghé qua đây trước đã. Tôi đã tìm mọi cách thuyết phục cô ấy…” “Lạy Chúa, Sachs. Hắn đang ở đó. Tên Vũ công. Tôi biết là hắn đang ở đó.” “Làm sao hắn có thể làm thế được?” Ánh mắt của Sachs lia ra ngoài cửa sổ. “Cho họ nằm thấp xuống”, Rhyme ra lệnh. “Tôi sẽ đề nghị Dellray điều một chiếc xe thùng bọc thép từ văn phòng địa bàn White Plains của FBI tới.” Percey nghe thấy cuộc cãi vã. “Tôi sẽ tới ngôi nhà an toàn của các vị sau khoảng một giờ nữa. Tôi phải tìm bằng được một thợ cơ khí để tiếp tục công việc…” Sachs vẫy tay ra hiệu cho cô im lặng và nói, “Jerry, giữ họ ở yên đây”. Cô chạy lại phía cửa và căng mắt nhìn khắp khoảng trống mênh mông của sân bay đúng lúc một chiếc máy bay phản lực đang ầm ầm lao xuống đường băng. Cô kéo cần mic lại gần miệng hơn. “Bằng cách nào, Rhyme?”, cô hỏi. “Hắn có thể tấn công chúng tôi bằng cách nào?” “Tôi không biết nữa. Hắn có thể làm bất kỳ điều gì.” Sachs cố gắng nhập trở lại suy nghĩ của tên Vũ công, nhưng không thể. Tất cả những gì cô nghĩ lúc này, đánh lạch hướng… “Khu vực đó có được bảo đảm an ninh không?”, Rhyme hỏi. “Khá chặt chẽ. Hàng rào thép gai. Cảnh sát vũ trang canh gác lối ra vào, kiểm tra vé và giấy tờ tùy thân.” Rhyme hỏi, “Nhưng họ không kiểm tra giấy tờ tùy thân của cảnh sát, đúng không?” Sachs nhìn những nhân viên cảnh sát mặc sắc phục và nhớ lại họ đã nhanh nhảu vẫy tay cho cô đi qua như thế nào. “Ôi, chết tiệt, Rhyme, có đến hàng tá xe mang biển hiệu cảnh sát ở đây. Và vài chiếc xe bình thường khác. Tôi lại không biết mặt những nhân viên cảnh sát hay thám tử ở đây… Hắn có thể là bất kỳ ai trong số họ.” “Được rồi, Sachs. Nghe này, hãy tìm hiểu xem có cảnh sát địa phương nào bị mất tích không. Trong vòng hai đến ba tiếng đồng hồ vừa qua. Rất có thể tên Vũ công đã sát hại một người và đánh cắp giấy tờ cùng sắc phục của nạn nhân.” Sachs gọi một người cảnh sát vũ trang của bang lại bên cửa, kiểm tra mặt và phù hiệu của anh ta rất kỹ lưỡng, rồi khẳng định anh ta chính là người trong ảnh. Cô nói, “Chúng tôi cho rằng tên giết người có thể ở gần đây, có thể hắn đang đóng giả một sĩ quan cảnh sát. Tôi cần anh cho kiểm tra tất cả mọi người ở đây. Nếu có ai mà anh không biết mặt, hãy thông báo cho tôi ngay. Còn nữa, hãy kiểm tra xem có cảnh sát nào trong khu vực bị mất tích trong vài tiếng đồng hồ vừa qua không”. “Tôi sẽ làm ngay, sĩ quan.” Cô trở lại văn phòng. Trên các cửa sổ không có rèm che và Banks đã đưa cả Percey cùng với Hale tới căn phòng phía trong. “Có chuyện gì thế?”, Percey hỏi. “Hai người sẽ đi khỏi đây trong vòng năm phút nữa”, Sachs nói, mắt vẫn nhìn về phía cửa sổ, cố gắng suy đoán xem tên Vũ công sẽ ra tay bằng cách nào. Cô hoàn toàn không có manh mối gì. “Tại sao?” Người nữ phi công hỏi, cau mày lại. “Chúng tôi cho rằng kẻ giết chồng chị đang ở đây. Hoặc đang trên đường tới đây.” “Ôi, thôi đi. Cảnh sát chẳng có mặt ở khắp mọi nơi còn gì. Ở đây tuyệt đối an toàn. Tôi cần phải…” Sachs gằn giọng quát, “Không tranh cãi gì hết”. Nhưng Percey vẫn không thôi. “Chúng tôi không thể đi được. Thợ cơ khí chính của chúng tôi vừa mới bỏ việc. Tôi còn phải…” “Perce”, Hale nhẹ nhàng nói, “có lẽ chúng ta cần phải nghe theo lời cô ấy”. “Chúng ta phải làm cho cái máy bay kia…” “Quay vào. Trong kia kìa. Và im lặng đi.” Percey há hốc miệng vì sững sờ. “Cô không được nói với tôi cái kiểu ấy. Tôi không phải là tù nhân.” “Sĩ quan Sachs? Xin chào?” Người cảnh sát vũ trang mà cô vừa nói chuyện bên ngoài văn phòng đang bước vào qua ngưỡng cửa. “Tôi vừa kiểm tra lướt qua tất cả những cảnh sát mặc sắc phục và cả các thám tử ở đây nữa. Không có ai lạ mặt cả. Và cũng không có báo cáo nào về trường hợp một sĩ quan cảnh sát của Westchester hay của bang bị mất thích. Nhưng trung tâm thông tin của chúng tôi có cho biết một chuyện mà có lẽ cô nên biết. Cũng có thể là chẳng có gì đâu. Nhưng…” “Anh nói đi.” Percey Clay nói, “Cô sĩ quan, tôi phải nói chuyện với cô…” Sachs phớt lờ cô ta và gật đầu với người cảnh sát. “Nói tiếp đi.” “Bộ phận Tuần tra Giao thông ở White Plains, cách đây khoảng hơn hai dặm. Họ phát hiện được một cái xác được giấu trong thùng rác. Họ cho rằng anh ta bị giết cách đây khoảng một giờ, có lẽ không đến.” ”Rhyme, anh vẫn nghe đấy chứ?” “Có.” Sachs hỏi viên cảnh sát. “Tại sao anh lại cho rằng đây là việc quan trọng?” “Vì cái cách mà nạn nhân bị giết. Cực kỳ khủng khiếp.” “Hỏi anh ta xem bàn tay và khuôn mặt của nạn nhân có bị mất không”, Rhyme nói. “Cái gì cơ?” “Cứ hỏi đi!” Cô làm theo, và tất cả mọi người trong văn phòng đều im bặt, tròn mắt nhìn Sachs. Viên cảnh sát vũ trang hấp háy mắt vì ngạch nhiên và thốt lên “Vâng, thưa cô, thưa sĩ quan. Vâng, ít nhất thì hai bàn tay cũng bị cắt. Nhân viên tổng đài không nói gì đến khuôn mặt cả. Nhưng làm sao cô lại biết…?”. Rhyme hét lên, “Nó đang ở đâu? Cái xác của nạn nhân ấy?”. Cô nhắc lại câu hỏi. “Trong xe của chuyên viên pháp y. Họ đang chở nó tới nhà xác của hạt.” “Không”, Rhyme nói. “Yêu cầu họ chở tới chỗ cô, Sachs. Tôi muốn cô khám nghiệm nó.” “Cái…” “Cái xác”, anh nói. “Nó có câu trả lời cho việc hắn sẽ tấn công cô như thế nào. Tôi không muốn cho Percey và Hale di chuyển đến chừng nào chúng ta biết phải đương đầu với điều gì.” Cô nhắc lại cho viên cảnh sát nghe yêu cầu của Rhyme. “Được rồi”, anh ta nói. “Tôi sẽ lo chuyện này. Mà… Ý cô là muốn chuyển cái xác tới đây sao?” “Đúng thế. Ngay bây giờ.” “Bảo họ đưa tới khẩn trương lên, Sachs”, Rhyme nói. Anh thở dài. “Ôi, chuyện này tệ thật, quá tệ.” Và Sachs chợt có suy nghĩ rất khó chịu rằng nỗi đau buồn sâu sắc của Rhyme lúc này không chỉ là dành cho người đàn ông mới không may bị giết một cách tàn nhẫn, cho dù anh ta là ai đi chăng nữa, mà còn cả cho những người, có thể, sắp trở thành nạn nhân tiếp theo. Người ta vẫn tưởng rằng súng trường là công cụ quan trọng của một xạ thủ bắn tỉa, nhưng họ lầm to. Đó chính là cái kính ngắm. Chúng ta gọi nó là gì, quân nhân? Chúng ta có gọi nó là một cái ống ngắm từ xa không? Hay gọi đơn giản là kính? Thưa ngài, chúng ta không gọi thế. Chúng ta gọi đó là kính ngắm. Đây là một chiếc kính ngắm hiệu Redfield, độ phóng đại 3x9 với khung ngắm hình chữ thập. Không thể có cái nào tốt hơn thế, thưa ngài. Chiếc kính ngắm mà Stephen đang lắp lên trên khẩu Model 40 có chiều dài là 12,75 inch và chỉ nặng hơn 12 ounce một chút. Nó được sản xuất đi kèm với đúng khẩu súng trường này, với những số sêri hoàn toàn ăn khớp và thước ngắm cũng đã được hiệu chỉnh rất kỳ công. Dung sai của kính ngắm cũng đã được kỹ sư quang học của nhà máy sản xuất cố định sao cho hình chữ thập nằm ở mép trên trái tim của một người cách đó khoảng 500 thước sẽ hầu như không dịch chuyển khi đầu người bắn nghiêng sang trái hoặc sang phải. Thiết bị quang học này được thiết kế chính xác đến nỗi lực giật của khẩu súng chỉ làm chiếc kính ngắm giật lùi khoảng một milimét về phía lông mày của Stephen mà không chạm vào lấy một sợi lông nào. Chiếc kính ngắm Redfield đen bóng loáng trông thật thích mắt, và Stephen luôn bọc nó rất cẩn thận trong một tấm vải nhung rồi đặt vào hộp xốp trong chiếc hộp đàn guitar của hắn. Giờ đây, nằm ẩn mình trong một chiếc ổ lót bằng cỏ cách khu hangar và văn phòng của Hudson Air khoảng 300 thước, Stephen lắp chiếc kính ngắm đen bóng vào khe nấc cài, vuông góc với khẩu súng (lần nào hắn cũng nghĩ đến cây thánh giá của bố dượng khi hắn lắp chiếc kính ngắm), rồi xoay cái ống hình trụ nặng trịch này vào vị trí với một tiếng tách rất vui tai. Hắn vặn nốt những con ốc thật chắc chắn. Quân nhân, anh có phải là một xạ thủ bắn tỉa cừ khôi không? Thưa ngài, tôi là người xuất sắc nhất. Những phẩm chất của anh là gì? Thưa ngài, tôi có tình trạng thể lực hoàn hảo, tôi là người cẩn thận, tôi thuận tay phải, tôi có thị lực 20/20, tôi không hút thuốc, uống ruợu hay sử dụng bất kỳ loại ma túy nào, tôi có thể nằm phục tại chỗ nhiều giờ liền, và tôi sống để nã đạn bắn tung đít kẻ thù của mình. Hắn nằm nép sâu vào trong đống lá khô và cỏ. Rất có thể ở đây có cả lũ giòi, hắn thầm nghĩ. Nhưng ngay lúc này hắn không hề cảm thấy nhớp nháp. Hắn đang thực hiện nhiệm vụ và điều đó hoàn toàn choán tâm trí của hắn. Stephen ôm khẩu súng, hít hà mùi dầu máy tỏa ra từ chốt kéo khóa nòng và mùi mỡ bò từ sợi dây đeo đã cũ, mềm mại như len angora. Khẩu Model 40 là loại súng trường bắn tỉa tiêu chuẩn của NATO sử dụng cỡ đạn 7,62 milimét và nặng khoảng tám pound, mười ounce. Lực kéo cò dao động trong khoảng từ ba đến năm pound, nhưng Stephen đã đặt cao hơn một chút vì hắn có những ngón tay cực khỏe. Khẩu súng có tầm hoạt động hiệu quả hơn 1000 thước, mặc dù Stephen đã từng thực hiện những phát bắn tiêu diệt mục tiêu ở cự ly hơn 1300 thước. Stephen hiểu tường tận khẩu súng. Trước kia bố dượng hắn thường nói, trong các đội bắn tỉa, bản thân xạ thủ bắn tỉa không được phép tháo lắp súng, và ông ta nhất định không bao giờ cho phép hắn tháo súng. Nhưng đối với Stephen thì nguyên tắc đó của ông ta hoàn toàn chẳng có gì là thỏa đáng và thế là, trong một hành động ương bướng rất khác với bản tính hay tuân thủ mệnh lệnh của hắn, Stephen đã bí mật tự mày mò cách tháo lắp khẩu súng trường, lau chùi sạch sẽ, sửa chữa, thậm chí cả những bộ phận cơ khí cần được hiệu chỉnh hoặc thay thế. Qua chiếc kính ngắm hắn lia mắt qua Hudson Air. Hắn không nhìn thấy Người vợ, mặc dù hắn biết cô ta đang ở đó hoặc không sớm thì muộn cũng tới đó. Khi nghe lại cuốn băng ghi âm lén đường dây điện thoại của Hudson Air, Stephen đã nghe thấy cô ta nói chuyện với ai đó tên là Ron rằng họ sẽ thay đổi kế hoạch; thay vì đi tới ngôi nhà an toàn họ sẽ lái xe tới sân bay để tìm một vài thợ cơ khí có thể làm nốt công việc còn dang dở trên chiếc máy bay. Sử dụng kỹ thuật trườn thấp người, lúc này Stephen đang di chuyển về phía trước cho đến khi hẳn ở trên một gờ đất thấp, vẫn nằm ẩn sau rặng cây và cỏ nhưng lại có thể quan sát tốt hơn toàn bộ hangar, khu văn phòng, bãi đỗ xe phía trước, chia tách hắn khỏi những bãi cỏ bằng phẳng và hai đoạn đường băng. Đây thật là một khu vực tiêu diệt lý tưởng. Rộng rãi. Hầu như không có chỗ ẩn náu. Từ đây có thể dễ dàng phong tỏa được toàn bộ đường vào và lối ra. Có hai người đứng bên ngoài cửa trước. Một người là cảnh sát của hạt hoặc của bang. Người kia là một phụ nữ – mái tóc đỏ rực thò ra dưới một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày. Rất xinh đẹp. Cô ta cũng là cớm, dù mặc thường phục. Hắn có thể nhìn thấy đường viền vuông vắn của một khẩu Glock hoặc Sig-Sauer bên hông cô ta. Hắn nâng chiếc thước ngắm đo khoảng cách lên và chiếu hình ảnh rời rạc đó lên mái tóc màu đỏ của người phụ nữ, hắn chậm rãi chỉnh chiếc vòng nhỏ cho đến khi những hình ảnh rời rạc đó khớp lại hoàn toàn với nhau. 316 thước. Hắn đặt thước ngắm khoảng cách xuống và giương khẩu súng trường lên, nhắm thẳng vào người phụ nữ, đặt hình chữ thập trong kính ngắm vào mái tóc cô ta một lần nữa. Hắn liếc nhìn khuôn mặt xinh đẹp của cô ta. Vẻ quyến rũ của người phụ nữ làm hắn thấy khó chịu. Hắn không thích điều đó. Không thích cô ta. Bất giác hắn tự hỏi tại sao. Cỏ bắt đầu loạt soạt xung quanh hắn. Hắn thầm nghĩ: Lũ giòi. Bắt đầu cảm thấy nhớp nhúa. Khuôn mặt trên khung cửa sổ… Hắn chỉnh hình chữ thập xuống ngực cô ta. Cảm giác nhớp nhúa chợt biến mất. Quân nhân, phương châm của một xạ thủ bắn tỉa là gì? Thưa ngài, đó là “Một cơ hội, một phát súng, một mục tiêu bị tiêu diệt”. Những điều kiện lúc này quả là hoàn hảo. Hơi có gió nhẹ thổi ngang từ phải sang trái, theo ước tính của hắn là với tốc độ khoảng bốn dặm một giờ. Độ ẩm trong không khí khá cao sẽ làm viên đạn ăn lên đôi chút. Hắn đang bắn qua một địa hình thống nhất giữa các luồng nhiệt tương đối cân bằng. Hắn trườn trở lại xuống dưới gờ đất một chút, dùng một que thông nòng đầu có gắn vải bông mềm lau sạch nòng khẩu Model 40. Bao giờ cũng phải lau sạch súng trước khi bắn. Chỉ cần một giọt hơi nước hoặc dầu nhỏ nhất đọng lại trong nòng súng cũng có thể làm chệch phát súng khoảng một inch là ít. Rồi hắn quấn dây đeo súng lại và nằm xuống chiếc ổ của mình. Stephen nạp năm viên đạn vào băng, Chúng đều là đạn tiêu chuẩn M-118, được sản xuất tại nhà máy lừng danhLakeCity. Bản thân viên đạn nặng 173 grain[51] có đầu nhọn hình đuôi thuyền, xuyên thẳng vào mục tiêu với tốc độ hơn nửa dặm một giây. Tuy nhiên Stephen đã chỉnh sửa lại đầu đạn một chút. Hắn đã khoan sâu vào lõi đạn và đổ vào đó một lượng nổ bổ sung, đồng thời thay lớp vỏ thép tiêu chuẩn của viên đạn bằng đầu đạn gốm đặc biệt có khả năng xé toang bất kỳ loại áo giáp chống đạn nào. Hắn lấy ra một tấm khăn rộng chuyên dùng để lau bát đĩa và trải nó xuống mặt đất để hứng những vỏ đạn bắn văng ra. Rồi hắn quấn thêm một vòng dây đeo súng quanh bắp tay trái của mình và tì khuỷu tay đó thật chắc chắn trên mặt đất, giữ cho cánh tay trước vuông góc tuyệt đối với mặt đất – như một giá đỡ bằng xương. Hắn “bắt cố định” má mình và ngón tay cái bên phải vào phần báng súng ngay phía trên tay cò. Rồi hắn bắt đầu chậm rãi lia mắt qua khu vực tiêu diệt. Thật khó có thể nhìn được bên trong khu văn phòng nhưng Stephen chợt thoáng thấy bóng Người vợ. Đúng rồi! Chính là cô ta. Cô ta đang đứng phía sau một người đàn ông to béo tóc xoăn mặc một chiếc áo sơ mi trắng nhàu nhĩ. Tay anh ta cầm một điếu thuốc. Một người đàn ông trẻ tuổi tóc vàng mặc bộ com lê, thắt lưng cài tấm phù hiệu, đẩy hai người vào trong, khuất khỏi tầm nhìn. Cứ kiên nhẫn… cô ta sẽ lại thò mặt ra ngay. Chúng không biết là mình ở đây. Mình có thể chờ cả ngày cũng được. Chừng nào lũ giòi… Lại những ánh đèn pha nhấp nhoáng. Một chiếc xe cấp cứu của hạt xộc thẳng vào bãi đỗ xe. Cô ả cảnh sát tóc đỏ nhìn thấy nó ngay. Mắt cô ta sáng rực lên vì phấn khích. Cô ta chạy vội về phía chiếc xe. Stephen hít một hơi thật sâu. Một cơ hội… Ngắm súng vào mục tiêu đi, quân nhân. Góc nâng thông thường của khoảng cách 316 thước sẽ là khoảng ba phút, thưa ngài. Hắn chỉnh kính ngắm sao cho nòng súng sẽ được chỉnh ăn lên một chút để bù lại độ rơi của đường đạn do tác động của trọng lực. Một phát súng… Tính toán tác động của gió thổi ngang, quân nhân. Thưa ngài, công thức tính là nhân khoảng cách vài trăm thước này với vận tốc của đường đạn rồi chia cho 15. Stephen tính rất nhanh trong đầu: Độ chệch do gió sẽ vào khoảng gần một phút. Hắn chỉnh lại kính ngắm theo thông số đó. Thưa ngài, tôi đã sẵn sàng, thưa ngài. Một mục tiêu bị diệt… Một vệt nắng hắt ra từ phía sau đám mây và chiếu sáng mặt tiền của khu văn phòng. Stephen bắt đầu thở thật sâu và chậm rãi. Hắn gặp may; lũ giòi đã lánh xa. Và không còn khuôn mặt nào đang theo dõi hắn đằng sau những khung cửa sổ. Chú thích
[50] Ninhydrin: Tên khoa học là triketohydrindene hydrate, một loại hóa chất dùng để xác định dấu vân tay. [51] Grain: Đơn vị đo trọng lượng, tương đương 0,065gam.
[50] Ninhydrin: Tên khoa học là triketohydrindene hydrate, một loại hóa chất dùng để xác định dấu vân tay. [51] Grain: Đơn vị đo trọng lượng, tương đương 0,065gam.