Chương 7

Dịch giả: Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh
Chương 7

     au đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau ngày lễ 1-5, hơn 9 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao và mang theo túi thuốc cấp cứu. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó, sau đó Mao chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ kiểu Tôn Trung Sơn, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc, nồng nhiệt đón chào chúng tôi. Lát sau Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh đến giơ tay chào Mao theo lối quân đội. Mao ra hiệu chúng tôi ngồi vào xe limousine và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Từ năm 1949, sau khi trở về Trung Quốc những ngày lễ 1-5 và quốc khánh 1-10 tôi thường xuyên đi dự ở quảng trường Thiên An Môn, đó là những ngày đầy tự hào, sung sướng. Dưới lễ đài, quần chúng hân hoan với rừng cờ, biểu ngữ, từng đoàn diễu hành, đoàn quân nhạc đi qua lễ đài. Ngắm nhìn các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước đứng trên lễ đài vẫy tay chào đón nhân dân, những ngày lễ khơi dậy trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay không còn đứng dưới quảng trường, tôi được đứng trên lễ đài cùng với những nhà lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước chào đón, ngắm nhìn quần chúng hân hoan dưới quảng trường Thiên An Môn.
Tôi ngồi xe đầu tiên cùng La Thuỵ Khanh. Khi xe đến phía sau cổng Thiên An Môn, La Thuỵ Khanh xuống khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, kính cẩn mở cửa, nâng tay lãnh tụ. Mao nhìn La với vẻ không hài lòng, tự xuống xe, cáu kỉnh nói:
- Đừng vô ý như thế, tôi không cần giúp, người cần giúp là phó chủ tịch Tống Khánh Linh.
Ngày lễ quốc tế Lao động 1-5, chính phủ cộng sản bề ngoài vẫn duy trì Mặt trận thống nhất liên hiệp giữa những người cộng sản với phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người đại diện và phát ngôn viên của chính sách đại đoàn kết thống nhất dân tộc là bà Tống Khánh Linh, phu nhân của cố tổng thống Tôn Trung Sơn. La Thuỵ Khanh chạy sang, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp và duyên dáng, đây là lần đầu tiên tôi thấy bà trên lễ đài. Bà toát lên vẻ đôn hậu, dịu dàng, thân mật bắt tay từng người.
Một số người khác được mệnh danh nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược, tất cả tỏ vẻ cao ngạo, lạnh nhạt chào mọi người, uể oải, bước từng bước chậm chạp như đã già cả, yếu sức. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh, lịch thiệp nhường bà dẫn đầu lên phòng khách trên cổng Thiên Bình, giúp Tống Khánh Linh bước lên các bậc thềm đá thô nháp.
Khi chúng tôi lên đến trên, một tràng vỗ tay vang lên đón khách của nhiều người đã có mặt. Tôi không ngờ phía tiền sảnh và phòng tiếp khách rộng lớn đến thế, có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt và bày rất nhiều thức ăn, đồ uống, hoa quả. Vì thế các nhà lãnh tụ tối cao có thể ngồi ở đây 5 đến 6 giờ liền để xem đoàn diễu hành nhưng không thấy thể hiện mệt mỏi.
Mao bắt tay tất cả khách mời, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ, cờ đỏ rực rỡ, được ngăn với tiền sảnh phòng đón tiếp bằng một tấm rèm lớn, người ngoài không thể nhìn thấy bên trong. Tôi theo Mao lên lễ đài, nhìn mọi người ngưỡng mộ chào mừng, ông giơ tay vẫy chào, chậm rãi, nghiêm trang, đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở dưới quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết ông rất tự hào, tràn trề niềm vui. Tôi cũng cảm thấy hoàn toàn như thế. Quảng trường giống như một biển người dập rờn, nhấp nhô nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được, áo trắng của hàng ngàn sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi tiền phong, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân và trí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, đám đông ồn ào chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, khẩu hiệu hô vang ca ngợi đảng cộng sản, Trung Hoa mới và Mao chủ tịch.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Sát dưới lễ đài, quân nhạc cử quốc ca. Đại bác bắn 21 phát chào mừng. Tiếp theo quân nhạc tiếp tục hoà tấu bản “Đông phương hồng”, “Quốc tế ca”, cuối cùng, bài “Hành quân ca”.
Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho hải, lục, không quân trang phục chỉnh tề diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc vang những khúc quân hành, Mao chủ tịch và các vị lãnh đạo đứng trên lễ đài xem đoàn quân diễu binh. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không rời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
- Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thêm bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, càng yêu tổ quốc mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về tổ quốc vĩ đại, sẵn sàng cống hiến hết sức mình.
Tháng Tám, tôi, Lý Liên và đứa cháu gái, Lý Linh, sang Chicago. Trong thời gian Lý Liên chữa bệnh, tôi ở bên lo liệu chăm sóc món ăn kiêng và thuốc thang. Cũng trong thời gian này, Lý Liên thúc giục tôi viết từ những gì ghi chép trong nhật ký, nhưng tôi không thể làm được vì chẳng còn tâm trí.
Đến tháng Mười hai, Lý Liên bị cảm, tình trạng sức khỏe càng tồi tệ. Tôi đưa Lý Liên vào viện, làm tất cả những gì có thể nhưng nhà tôi không qua được, vĩnh biệt ngày 12-1-1989.
Trước khi hôn mê, nhà tôi nhắc đi nhắc lại cố gắng viết kể lại những chuyện xảy ra trong 40 năm qua. Nhà tôi nhấn mạnh:
- Mình phải viết, không những cho mình mà còn vì tôi, vì hậu thế vì đứa cháu đích tôn sắp ra đời. Xin lỗi mình, tôi không thể giúp gì mình hơn được nữa.
Tháng Ba 1989, tôi lục chồng vở nhật ký trong đáy hòm và bắt tay viết, hy vọng cuốn sách được xuất bản để tạ lòng với Lý Liên.
Tôi hy vọng đọc những trang hồi ký này mọi người sẽ hiểu sự thật cuộc đời Mao Trạch Đông người ta đang truyền tụng. Nếu như đọc cuốn sách này, độc giả hiểu được sự thật, yêu tự do hơn như trong hiện tại, cũng là điều tôi và Lý Liên đã từng mong mỏi và yêu quý nhất trong đời.

*

Năm 1949, sau hơn 20 năm chiến tranh đẫm máu, Đảng cộng sản cuối cùng đã đánh thắng Quốc dân đảng, dựng lên nước CHND Trung Hoa.
Năm 1948, tôi là bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Á-Úc Châu ở Sydney cho đến hè 1949. Hè năm ấy tôi nhận được thư của thứ trưởng Bộ Y tế trong Ban Đối ngoại của Quân uỷ trung ương đảng cộng sản qua anh cả tôi, mời tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tôi nhận lời, đến Hương Cảng gặp vợ tôi, Lý Liên, cả hai cùng trở về Bắc Kinh, thành phố quê hương. Lúc ấy tôi 29 tuổi đời.
Vị thứ trưởng phân công tôi làm việc ở khu điều trị Đồi Hương, phía tây ngoại ô Bắc Kinh, một khu điều trị trực thuộc Văn phòng Trung ương đảng cộng sản. Sau này chuyển sang khu điều trị Trung Nam Hải, tổng hành dinh Trung ương đảng.
Tôi chăm chỉ cần cù trong công tác, chiếm được cảm tình hầu hết các lãnh đạo cao cấp. Năm 1952, trong Bộ tổng nhất trí bầu tôi cán bộ loại A, cũng năm ấy, tôi tham gia chính phủ của đảng cộng sản Trung Quốc, được chỉ định là Viện trưởng khu điều trị Trung Nam Hải, giám đốc Văn phòng Y tế, phó tổng giám đốc Uỷ ban Y tế thuộc Bộ Y Tế công cộng kiêm chủ tịch Bệnh viện 305 của Giải phóng quân.
Năm 1954, tôi được Uông Đông Hưng, giám đốc Cục bảo vệ trung ương với sự đồng thuận của Trương Xuân Kiều, giám đốc Văn phòng trung ương và La Thuỵ Khanh Cục trưởng Cục bảo vệ nội bộ và được thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, tôi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông sau đó làm trưởng ban bảo vệ sức khoẻ cho chủ tịch. Từ đó cho đến khi Mao chủ tịch qua đời năm 1976, trong suốt 22 năm chịu trách nhiệm chăm nom sức khoẻ Mao, tôi là người gần gũi Mao nhất ở Bắc Kinh hay bất cứ Mao đi công tác nơi nào.
Khi bắt tay vào việc chăm nom sức khoẻ cho Mao, điều làm tôi ngạc nhiên nhất, lối sống kỳ lạ khác hẳn bất cứ người bình thường nào. Mao không theo bất cứ một quy tắc nào trong lối sống từ bữa ăn đến giấc ngủ. Với ông, không phân biệt ngày hay đêm trong khoảng 24 giờ trong một ngày có chăng chỉ thoáng qua. Hoạt động thường ngày hay trước công chúng kể cả những cuộc họp, gặp gỡ đoàn ngoại giao nước ngoài, ông có những cuộc hẹn rất lạ theo sở thích riêng của ông.
Mao ưa lối làm việc theo tính cách cá nhân khuấy động phong trào nhưng không hề báo trước, ngay cả những người kế cận cũng không đoán nổi ông sẽ yêu cầu làm gì tiếp theo. Trong khi đó đảng cộng sản Trung Quốc có quyền lực rất lớn và rất bí mật. Mao từng chỉ thị “Đừng có bép xép những chuyện trong cơ quan”. Kết quả, đời thực của ông chìm trong màn sương dầy đặc, ông như một người bí hiểm và uy quyền tuyệt đối.
Mãi đến năm 1959 tôi mới ngưỡng mộ Mao, mặc dù là bác sĩ riêng thường xuyên bên Mao nhưng có một điều bí ẩn huyền bí như một bức tường kiên cố như ngăn cách hai người. Tôi không thể nào hiểu được đời sống thực tại của Mao. Sau năm 1959 tôi mới được phép vượt qua bức rào ngăn cách và chứng kiến bộ mặt thật của Mao trong cuộc sống hàng ngày. Giống như một kịch sĩ, khi lên sân khấu được hoá trang công phu tỉ mỉ khác hẳn khuôn mặt của đời thường.
Đầu thập niên 1950, Mao ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh tương trợ Xô-Trung ủng hộ chiến lược ngoại giao “Liên minh một phái”, làm cho mọi người nhầm tưởng mối quan hệ thật gắn bó với Liên Xô. Nhưng chẳng ai hiểu nguyên nhân sâu xa từ những năm 1930 Mao đã từng bất đồng quan điểm với Stalin và Đảng cộng sản Liên Xô, kiểu “xanh vỏ đỏ lòng”, như hoa turnip “nhị trắng hoa đỏ” mà thôi. Trong lần đầu tiên thay mặt chính phủ, Mao sang thăm hữu nghị Liên Xô vào mùa đông 1949-50, đã bị Stalin đón tiếp thật lạnh nhạt, ở lại đến 2 tháng trời ròng rã, chẳng đạt được một kết quả nào đáng kể. Chỉ sau khi Mao tuyên bố ra về Stalin mới chịu ký hiệp ước hữu nghị. Mao hiểu Nga là đối thủ nguy hiểm nhất của Trung Hoa, nhưng không nói ra mà thôi. Phải đến đầu thập niên 1960, sự rạn vỡ quan hệ Trung-Xô người ta mới hiểu một cách rõ ràng.
Trong những năm 1930, đi theo đại bản doanh của đảng cộng sản ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây, phóng viên Edgar Snow và đồng nghiệp Hoa Kỳ đã đưa tin về sự kiện phi thường về đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng từ đó Mao rất coi trọng, thiện cảm với chính phủ Mỹ nhất là với nhân dân Hoa Kỳ. Từ thập niên 1950 dù chủ trương đường lối “dựa vào Liên Xô”, thanh niên đua nhau học tiếng Nga, nhưng Mao lại không, không những thế ông lại học tiếng Anh. Mao nhiều lần tự hỏi “Lời nói không đi đôi với hành động”.
Trong số cán bộ quanh Mao, làm tham gia những công việc tối mật, hầu hết những trí thức đó kể cả tôi đều được đào tạo trong các trường Anh-Mỹ. Mao không cho phép tuyển những trí thức, hay bất cứ cá nhân nào đào tạo tại Liên Xô làm việc cho ông.
Chiến tranh Triều Tiên và Việt nam đã đẩy Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuộc đối đầu. Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến chiến tranh là do Hoa Kỳ chưa hiểu rõ bản chất đích thực của Mao đối với Mỹ vì thế những người lãnh đạo Hoa Kỳ đã coi chính quyền cộng sản Trung Quốc là kẻ thù địch. Ngay từ cuối thập niên 1960 Mao đã làm hết sức mình để quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện cho đến khi Mao qua đời. Mao tuy coi Tưởng Giới Thạch là kẻ thù nhưng vẫn đánh giá Tưởng là người yêu nước, người có công trong mối bang giao với Hoa Kỳ. Mao từng nói: “Tưởng giới Thạch và tôi đều chỉ công nhận một nước Trung Hoa, cả hai chúng tôi đều có ý kiến chung về một nước Trung Hoa thống nhất”.
Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực lãnh đạo trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương đảng đầy phức tạp, khó hiểu. Từ “phong trào chống tả khuynh” năm 1957, người ta gọi là “ cuộc khủng hoàng nhóm Bành Đức Hoài chống đảng” thành chiến dịch từ 1959 đến Cách mạng văn hoá 1966, hầu các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo bị xáo trộn do rất nhiều nguyên nhân. Trong thực tế dù sự thay đổi gì chăng nữa Mao vẫn cố tình nắm chặt quy tắc cơ bản, giữ quyền lãnh đạo tối cao.
Như trong chiến dịch chống Stalin và tệ sùng bái cá nhân do Khrushchev và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô năm 1959 đã đe doạ chính vị trí và quyền lực tối cao của Mao trong đảng cộng sản Trung Quốc. Mao đã có hàng loạt động thái để bảo tồn quyền lực tối thượng của ông. Như Uông Đông Hưng nói: ” Mao tán thành chống tệ sùng bái và chuyên quyền trong đảng, nhưng với ông thì không”.
Về đời tư của Mao thật kinh khủng. Giữa công chúng, Mao xuất hiện như một lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân, thân thiện, cởi mở chiếm được cảm tình tối đa của quần chúng đối với một lãnh tụ có tuổi kính mến. Nhưng cuộc đời thực Mao là kẻ háu gái. Càng về già Mao càng thể hiện sự dâm dục háo sắc đến kinh khủng gây biết bao chuyện động trời, không ai có thể đếm xuể số các thiếu nữ phải ăn nằm với Mao. Uông Đông Hưng từng nhận xét: “Có lẽ Mao nghĩ sắp đến ngày gần đất xa trời nên cố chiếm được bao nhiêu các cô gái thì cố, cho nên Mao mới ham muốn đến như vậy”. Giang Thanh, vợ Mao, từng nói về chồng: “Giải quyết mọi khó khăn, khủng hoảng chính trị, không có một lãnh tụ Trung Hoa hay Xô viết hơn Mao. Trong lĩnh vực tình dục cũng không ai bằng Mao”.
Tôi không viết tiểu sử Mao Trạch Đông, tôi chỉ ghi lại những sự việc bản thân đã thấy, đã nghe, đã biết trong 22 năm gần Mao với tư cách là bác sĩ riêng chăm nom sức khoẻ cho ông. Cuốn sách này để tưởng nhớ Lý Liên, người vợ thân yêu đã đồng cam cộng khổ với tôi trong những năm tháng dưới thời Mao. Không có sự động viên, khuyến khích của Lý Liên tôi không thể hoàn thành cuốn sách này.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

Truyện Chương 7 Lời nói đầu Sơ lược tiểu sử tác giả Chương 1 Chương 1 (tt) Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 31 Chương 32 Chương 34 Chương 36 Ch. Một vệ sĩ nói với tôi, ông từng sống ở Trung Quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung Quốc từ thức ăn, quần áo đến nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông nói tiếng Trung rất thạo, do nhiều năm sống ở Vân Nam và Quảng Đông, hai tỉnh giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, tôi rất mến mộ ông. Mao, vị tư lệnh đầy uy quyền, còn Hồ Chí Minh tính tình chan hoà, cởi mở, dễ gần không làm người khác khiếp sợ.
Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi phí hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể, chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy lương công nhân trung bình khoảng 30 nhân dân tệ một tháng. Về sau tôi coi tất cả những buổi lễ được tổ chức đều quá lãng phí và tội lỗi. Đặc biệt, những ngày lễ tổ chức trong thời kỳ “ba năm đói kém, mất mùa” hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi cũng mất ý nghĩa.
Đối với Mao cũng vậy, ông thấy không cần thiết tổ chức lễ hội. Một năm hai ngày, Quốc khánh và Quốc tế lao động đã làm ông kiệt sức. Vì thế Mao chỉ đến đúng giờ khai mạc, hơn nữa ông thường mất ngủ vào đêm trước buổi lễ vì quá lo lắng, càng làm bệnh mất ngủ của ông thêm tồi tệ. Trước sự quá hân hoan, hăng hái của quần chúng nhân dân làm ông vui vẻ đã tiếp sức mạnh giúp ông dự hết buổi. Nhưng thường sau những ngày ấy ông bị cảm, đôi khi chuyển sang viêm phế quản, ốm đến tuần lễ. Khi ông có tuổi, bệnh viêm phế quản thường xuyên bội nhiễm biến thành viêm phổi.
Mao rất ghét phải đóng bộ để dự lễ. Một trong những lý do ông từ chức chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vì ông không muốn có mặt trên lễ đài những ngày lễ 1-5 và ngày Quốc khánh. Ông muốn bỏ bớt những buổi lễ mệt nhọc và các cuộc gặp gỡ ngoại giao. Giữa thập niên 1960, ông yêu cầu ngày 1-5 cứ 5 năm mới tổ chức một lần để giảm bớt lãng phí thời gian và tiền bạc của nhân dân. Trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực tăng cao, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung Quốc, thổi vào họ những luồng khí lực kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương lực lượng vượt quá tiền chi cho buổi lễ do nhà nước tổ chức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí. Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên Xô tháng 9-1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ.
Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang vui mừng thích thú, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông, chẳng quan tâm chuyện tốn kém tiền bạc.
Tôi đợi đến cuối buổi lễ để được quay về xum họp gia đình. Nhưng lại có vấn đề nảy sinh. Tôi ngạc nhiên khi biết Mao rất thích khiêu vũ một cách cuồng nhiệt. Sau cách mạng hơn chục năm, khiêu vũ bị cấm, các vũ trường bị đóng cửa, coi như đó là lối sống tư sản. Tuy nhiên đằng sau bức tường Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Buổi khiêu vũ thường tổ chức ở phòng Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi bắn pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.
Tôi theo Mao vào đại sảnh. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ trong bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrots, van-xơ (waltzes) và tango, còn Mao nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy chưa đẹp, nhưng đúng nhịp, khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông thường nói chuyện với bạn nhảy đôi lời khoảng 5 phút sau đó đổi bạn nhảy. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh đêm ấy vắng mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu, tuy nhiên Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ có tham dự. Sàn nhảy có một chiếc bàn, Mao và hai lãnh đạo ngồi xung quanh. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế các cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.
Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung Quốc. Kinh kịch, môn nghệ thuật cổ điển truyền thống, thường là một chuyện tình sướt mướt, mưu mô, xảo quyệt, thậm chí đôi khi thiếu đứng đắn. Bản thân nhạc Trung Quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, khác hẳn tiết tấu nhạc khiêu vũ Tây phương. Tôi ngạc nhiên đêm đó lại vang lên bản kinh kịch của Thục Sơn Khải Kiệt, kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa mọi người chiều theo ý Chủ tịch ra sàn nhảy, nhạc kinh kịch nhưng khiêu vũ lối phương tây.
Khuya rồi, tưởng nhiệm vụ đã xong, tôi gặp Lý Ẩm Kiều báo cáo về nhà, nhưng anh ta nói:
- Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch đang vui nhảy, nhưng vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí về, Chủ tịch đánh giá giữa chúng ta có cái gì trục trặc, tôi sẽ bị khiển trách.
Tôi ngạc nhiên:
- Thế là thế nào? Giữa chúng ta có mâu thuẫn gì đâu.
Lý trả lời:
- Đúng thế, nhưng đồng chí chưa hiểu Chủ tịch. Hãy nghe tôi, sau này sẽ hiểu.
Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở đâu, bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình, nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa, tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:
- Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?
Anh ta nói thêm:
- Đồng chí nên đi ngay!
Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do trời mưa to. Tuy nhiên sau một giờ, tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện, nói, Mao chủ tịch trao cho anh nhiệm vụ đón tôi. Sau đấy, tôi hiểu, mình phải luôn có mặt bên Mao.
Phải vài năm sau tôi mới hiểu, Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra, đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.
Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư giãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.
Phó Chủ tịch Uỷ ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành, một Uỷ viên Bộ chính trị trung thực, thẳng thắn và người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố, Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng đã thoả mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung Quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nữ nhân viên làm việc phục vụ Ban chấp hành trung ương.
Nhưng buổi khiêu vũ lần đầu đêm 1-5-1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó. Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Tôi khước từ buổi dạ tiệc của Uông Đông Hưng, ấy thế mãi đến gần hai giờ sáng tôi mới được về với vợ con.
Lý Liên đưa tôi bát cơm rang, rất thất vọng vì ngày vui của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối mới ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi ngủ lại nhà bà nội.
Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày đảo lộn, Lý Liên nhận xét:
- Anh đã nhiễm thói quen của Mao chủ tịch!
Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tụ, cuộc sống của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn, khác trước hoàn toàn. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ thường vắng mặt tôi. Trong 22 năm làm việc với Mao tôi chỉ có một tuần nghỉ phép.
Theo lịch công tác, Mao thường yêu cầu tôi phải có mặt vào sáng sớm, về nhà quá nửa đêm, Lý Liên vẫn thức chờ tôi và rất lo lắng.
Mao thường xuyên đi, tôi phải tháp tùng ông, đôi khi vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi nên ăn ngủ kém. Thằng con thứ hai của tôi, Erchong sinh năm 1956, ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.
Không chỉ giữa tôi và Lý Liên thường xuyên xa cách, tôi còn bị cuốn vào vòng xoáy của Bắc Kinh, nhưng Lý Liên vẫn không được vào đảng. Người ta không thể tin về chính trị vợ tôi do thành phần xuất thân, do đã từng ở làm sở của Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được Lý Liên trong những cuộc bão táp chính trị, gây ra bao cái chết của những người vô tội.
Trong những năm ấy, vợ tôi hy sinh tất cả cho gia đình, nuôi dạy con cái, chăm sóc mẹ già. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà bầu không khí ấm cúng hạnh phúc để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà, giúp tôi cảm thấy sung sướng và yên tâm làm việc. Lý Liên trở về Trung Quốc khi còn trẻ, hiền lành và đầy nghị lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, hăng hái. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức tôi cảm thấy đau lòng và thất vọng. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định trong cuộc sống mới ở Trung Quốc, khiến vợ tôi trầm cảm.
- Chúng ta sống như chiếc bè phiêu dạt. Có gia đình cũng như không.
Vợ tôi than thở trước khi nhắm mắt.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 12 năm 2013

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--