au đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau ngày lễ 1-5, hơn 9 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao và mang theo túi thuốc cấp cứu. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó, sau đó Mao chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ kiểu Tôn Trung Sơn, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc, nồng nhiệt đón chào chúng tôi. Lát sau Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh đến giơ tay chào Mao theo lối quân đội. Mao ra hiệu chúng tôi ngồi vào xe limousine và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Từ năm 1949, sau khi trở về Trung Quốc những ngày lễ 1-5 và quốc khánh 1-10 tôi thường xuyên đi dự ở quảng trường Thiên An Môn, đó là những ngày đầy tự hào, sung sướng. Dưới lễ đài, quần chúng hân hoan với rừng cờ, biểu ngữ, từng đoàn diễu hành, đoàn quân nhạc đi qua lễ đài. Ngắm nhìn các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước đứng trên lễ đài vẫy tay chào đón nhân dân, những ngày lễ khơi dậy trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay không còn đứng dưới quảng trường, tôi được đứng trên lễ đài cùng với những nhà lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước chào đón, ngắm nhìn quần chúng hân hoan dưới quảng trường Thiên An Môn.
Tôi ngồi xe đầu tiên cùng La Thuỵ Khanh. Khi xe đến phía sau cổng Thiên An Môn, La Thuỵ Khanh xuống khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, kính cẩn mở cửa, nâng tay lãnh tụ. Mao nhìn La với vẻ không hài lòng, tự xuống xe, cáu kỉnh nói:
- Đừng vô ý như thế, tôi không cần giúp, người cần giúp là phó chủ tịch Tống Khánh Linh.
Ngày lễ quốc tế Lao động 1-5, chính phủ cộng sản bề ngoài vẫn duy trì Mặt trận thống nhất liên hiệp giữa những người cộng sản với phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người đại diện và phát ngôn viên của chính sách đại đoàn kết thống nhất dân tộc là bà Tống Khánh Linh, phu nhân của cố tổng thống Tôn Trung Sơn. La Thuỵ Khanh chạy sang, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp và duyên dáng, đây là lần đầu tiên tôi thấy bà trên lễ đài. Bà toát lên vẻ đôn hậu, dịu dàng, thân mật bắt tay từng người.
Một số người khác được mệnh danh nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược, tất cả tỏ vẻ cao ngạo, lạnh nhạt chào mọi người, uể oải, bước từng bước chậm chạp như đã già cả, yếu sức. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh, lịch thiệp nhường bà dẫn đầu lên phòng khách trên cổng Thiên Bình, giúp Tống Khánh Linh bước lên các bậc thềm đá thô nháp.
Khi chúng tôi lên đến trên, một tràng vỗ tay vang lên đón khách của nhiều người đã có mặt. Tôi không ngờ phía tiền sảnh và phòng tiếp khách rộng lớn đến thế, có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt và bày rất nhiều thức ăn, đồ uống, hoa quả. Vì thế các nhà lãnh tụ tối cao có thể ngồi ở đây 5 đến 6 giờ liền để xem đoàn diễu hành nhưng không thấy thể hiện mệt mỏi.
Mao bắt tay tất cả khách mời, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ, cờ đỏ rực rỡ, được ngăn với tiền sảnh phòng đón tiếp bằng một tấm rèm lớn, người ngoài không thể nhìn thấy bên trong. Tôi theo Mao lên lễ đài, nhìn mọi người ngưỡng mộ chào mừng, ông giơ tay vẫy chào, chậm rãi, nghiêm trang, đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở dưới quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết ông rất tự hào, tràn trề niềm vui. Tôi cũng cảm thấy hoàn toàn như thế. Quảng trường giống như một biển người dập rờn, nhấp nhô nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được, áo trắng của hàng ngàn sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi tiền phong, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân và trí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, đám đông ồn ào chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, khẩu hiệu hô vang ca ngợi đảng cộng sản, Trung Hoa mới và Mao chủ tịch.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Sát dưới lễ đài, quân nhạc cử quốc ca. Đại bác bắn 21 phát chào mừng. Tiếp theo quân nhạc tiếp tục hoà tấu bản “Đông phương hồng”, “Quốc tế ca”, cuối cùng, bài “Hành quân ca”.
Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho hải, lục, không quân trang phục chỉnh tề diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc vang những khúc quân hành, Mao chủ tịch và các vị lãnh đạo đứng trên lễ đài xem đoàn quân diễu binh. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không rời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
- Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thêm bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, càng yêu tổ quốc mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về tổ quốc vĩ đại, sẵn sàng cống hiến hết sức mình.
Tháng Tám, tôi, Lý Liên và đứa cháu gái, Lý Linh, sang Chicago. Trong thời gian Lý Liên chữa bệnh, tôi ở bên lo liệu chăm sóc món ăn kiêng và thuốc thang. Cũng trong thời gian này, Lý Liên thúc giục tôi viết từ những gì ghi chép trong nhật ký, nhưng tôi không thể làm được vì chẳng còn tâm trí.
Đến tháng Mười hai, Lý Liên bị cảm, tình trạng sức khỏe càng tồi tệ. Tôi đưa Lý Liên vào viện, làm tất cả những gì có thể nhưng nhà tôi không qua được, vĩnh biệt ngày 12-1-1989.
Trước khi hôn mê, nhà tôi nhắc đi nhắc lại cố gắng viết kể lại những chuyện xảy ra trong 40 năm qua. Nhà tôi nhấn mạnh:
- Mình phải viết, không những cho mình mà còn vì tôi, vì hậu thế vì đứa cháu đích tôn sắp ra đời. Xin lỗi mình, tôi không thể giúp gì mình hơn được nữa.
Tháng Ba 1989, tôi lục chồng vở nhật ký trong đáy hòm và bắt tay viết, hy vọng cuốn sách được xuất bản để tạ lòng với Lý Liên.
Tôi hy vọng đọc những trang hồi ký này mọi người sẽ hiểu sự thật cuộc đời Mao Trạch Đông người ta đang truyền tụng. Nếu như đọc cuốn sách này, độc giả hiểu được sự thật, yêu tự do hơn như trong hiện tại, cũng là điều tôi và Lý Liên đã từng mong mỏi và yêu quý nhất trong đời.
*
Năm 1949, sau hơn 20 năm chiến tranh đẫm máu, Đảng cộng sản cuối cùng đã đánh thắng Quốc dân đảng, dựng lên nước CHND Trung Hoa.
Năm 1948, tôi là bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Á-Úc Châu ở Sydney cho đến hè 1949. Hè năm ấy tôi nhận được thư của thứ trưởng Bộ Y tế trong Ban Đối ngoại của Quân uỷ trung ương đảng cộng sản qua anh cả tôi, mời tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tôi nhận lời, đến Hương Cảng gặp vợ tôi, Lý Liên, cả hai cùng trở về Bắc Kinh, thành phố quê hương. Lúc ấy tôi 29 tuổi đời.
Vị thứ trưởng phân công tôi làm việc ở khu điều trị Đồi Hương, phía tây ngoại ô Bắc Kinh, một khu điều trị trực thuộc Văn phòng Trung ương đảng cộng sản. Sau này chuyển sang khu điều trị Trung Nam Hải, tổng hành dinh Trung ương đảng.
Tôi chăm chỉ cần cù trong công tác, chiếm được cảm tình hầu hết các lãnh đạo cao cấp. Năm 1952, trong Bộ tổng nhất trí bầu tôi cán bộ loại A, cũng năm ấy, tôi tham gia chính phủ của đảng cộng sản Trung Quốc, được chỉ định là Viện trưởng khu điều trị Trung Nam Hải, giám đốc Văn phòng Y tế, phó tổng giám đốc Uỷ ban Y tế thuộc Bộ Y Tế công cộng kiêm chủ tịch Bệnh viện 305 của Giải phóng quân.
Năm 1954, tôi được Uông Đông Hưng, giám đốc Cục bảo vệ trung ương với sự đồng thuận của Trương Xuân Kiều, giám đốc Văn phòng trung ương và La Thuỵ Khanh Cục trưởng Cục bảo vệ nội bộ và được thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, tôi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông sau đó làm trưởng ban bảo vệ sức khoẻ cho chủ tịch. Từ đó cho đến khi Mao chủ tịch qua đời năm 1976, trong suốt 22 năm chịu trách nhiệm chăm nom sức khoẻ Mao, tôi là người gần gũi Mao nhất ở Bắc Kinh hay bất cứ Mao đi công tác nơi nào.
Khi bắt tay vào việc chăm nom sức khoẻ cho Mao, điều làm tôi ngạc nhiên nhất, lối sống kỳ lạ khác hẳn bất cứ người bình thường nào. Mao không theo bất cứ một quy tắc nào trong lối sống từ bữa ăn đến giấc ngủ. Với ông, không phân biệt ngày hay đêm trong khoảng 24 giờ trong một ngày có chăng chỉ thoáng qua. Hoạt động thường ngày hay trước công chúng kể cả những cuộc họp, gặp gỡ đoàn ngoại giao nước ngoài, ông có những cuộc hẹn rất lạ theo sở thích riêng của ông.
Mao ưa lối làm việc theo tính cách cá nhân khuấy động phong trào nhưng không hề báo trước, ngay cả những người kế cận cũng không đoán nổi ông sẽ yêu cầu làm gì tiếp theo. Trong khi đó đảng cộng sản Trung Quốc có quyền lực rất lớn và rất bí mật. Mao từng chỉ thị “Đừng có bép xép những chuyện trong cơ quan”. Kết quả, đời thực của ông chìm trong màn sương dầy đặc, ông như một người bí hiểm và uy quyền tuyệt đối.
Mãi đến năm 1959 tôi mới ngưỡng mộ Mao, mặc dù là bác sĩ riêng thường xuyên bên Mao nhưng có một điều bí ẩn huyền bí như một bức tường kiên cố như ngăn cách hai người. Tôi không thể nào hiểu được đời sống thực tại của Mao. Sau năm 1959 tôi mới được phép vượt qua bức rào ngăn cách và chứng kiến bộ mặt thật của Mao trong cuộc sống hàng ngày. Giống như một kịch sĩ, khi lên sân khấu được hoá trang công phu tỉ mỉ khác hẳn khuôn mặt của đời thường.
Đầu thập niên 1950, Mao ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh tương trợ Xô-Trung ủng hộ chiến lược ngoại giao “Liên minh một phái”, làm cho mọi người nhầm tưởng mối quan hệ thật gắn bó với Liên Xô. Nhưng chẳng ai hiểu nguyên nhân sâu xa từ những năm 1930 Mao đã từng bất đồng quan điểm với Stalin và Đảng cộng sản Liên Xô, kiểu “xanh vỏ đỏ lòng”, như hoa turnip “nhị trắng hoa đỏ” mà thôi. Trong lần đầu tiên thay mặt chính phủ, Mao sang thăm hữu nghị Liên Xô vào mùa đông 1949-50, đã bị Stalin đón tiếp thật lạnh nhạt, ở lại đến 2 tháng trời ròng rã, chẳng đạt được một kết quả nào đáng kể. Chỉ sau khi Mao tuyên bố ra về Stalin mới chịu ký hiệp ước hữu nghị. Mao hiểu Nga là đối thủ nguy hiểm nhất của Trung Hoa, nhưng không nói ra mà thôi. Phải đến đầu thập niên 1960, sự rạn vỡ quan hệ Trung-Xô người ta mới hiểu một cách rõ ràng.
Trong những năm 1930, đi theo đại bản doanh của đảng cộng sản ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây, phóng viên Edgar Snow và đồng nghiệp Hoa Kỳ đã đưa tin về sự kiện phi thường về đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng từ đó Mao rất coi trọng, thiện cảm với chính phủ Mỹ nhất là với nhân dân Hoa Kỳ. Từ thập niên 1950 dù chủ trương đường lối “dựa vào Liên Xô”, thanh niên đua nhau học tiếng Nga, nhưng Mao lại không, không những thế ông lại học tiếng Anh. Mao nhiều lần tự hỏi “Lời nói không đi đôi với hành động”.
Trong số cán bộ quanh Mao, làm tham gia những công việc tối mật, hầu hết những trí thức đó kể cả tôi đều được đào tạo trong các trường Anh-Mỹ. Mao không cho phép tuyển những trí thức, hay bất cứ cá nhân nào đào tạo tại Liên Xô làm việc cho ông.
Chiến tranh Triều Tiên và Việt nam đã đẩy Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuộc đối đầu. Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến chiến tranh là do Hoa Kỳ chưa hiểu rõ bản chất đích thực của Mao đối với Mỹ vì thế những người lãnh đạo Hoa Kỳ đã coi chính quyền cộng sản Trung Quốc là kẻ thù địch. Ngay từ cuối thập niên 1960 Mao đã làm hết sức mình để quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện cho đến khi Mao qua đời. Mao tuy coi Tưởng Giới Thạch là kẻ thù nhưng vẫn đánh giá Tưởng là người yêu nước, người có công trong mối bang giao với Hoa Kỳ. Mao từng nói: “Tưởng giới Thạch và tôi đều chỉ công nhận một nước Trung Hoa, cả hai chúng tôi đều có ý kiến chung về một nước Trung Hoa thống nhất”.
Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực lãnh đạo trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương đảng đầy phức tạp, khó hiểu. Từ “phong trào chống tả khuynh” năm 1957, người ta gọi là “ cuộc khủng hoàng nhóm Bành Đức Hoài chống đảng” thành chiến dịch từ 1959 đến Cách mạng văn hoá 1966, hầu các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo bị xáo trộn do rất nhiều nguyên nhân. Trong thực tế dù sự thay đổi gì chăng nữa Mao vẫn cố tình nắm chặt quy tắc cơ bản, giữ quyền lãnh đạo tối cao.
Như trong chiến dịch chống Stalin và tệ sùng bái cá nhân do Khrushchev và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô năm 1959 đã đe doạ chính vị trí và quyền lực tối cao của Mao trong đảng cộng sản Trung Quốc. Mao đã có hàng loạt động thái để bảo tồn quyền lực tối thượng của ông. Như Uông Đông Hưng nói: ” Mao tán thành chống tệ sùng bái và chuyên quyền trong đảng, nhưng với ông thì không”.
Về đời tư của Mao thật kinh khủng. Giữa công chúng, Mao xuất hiện như một lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân, thân thiện, cởi mở chiếm được cảm tình tối đa của quần chúng đối với một lãnh tụ có tuổi kính mến. Nhưng cuộc đời thực Mao là kẻ háu gái. Càng về già Mao càng thể hiện sự dâm dục háo sắc đến kinh khủng gây biết bao chuyện động trời, không ai có thể đếm xuể số các thiếu nữ phải ăn nằm với Mao. Uông Đông Hưng từng nhận xét: “Có lẽ Mao nghĩ sắp đến ngày gần đất xa trời nên cố chiếm được bao nhiêu các cô gái thì cố, cho nên Mao mới ham muốn đến như vậy”. Giang Thanh, vợ Mao, từng nói về chồng: “Giải quyết mọi khó khăn, khủng hoảng chính trị, không có một lãnh tụ Trung Hoa hay Xô viết hơn Mao. Trong lĩnh vực tình dục cũng không ai bằng Mao”.
Tôi không viết tiểu sử Mao Trạch Đông, tôi chỉ ghi lại những sự việc bản thân đã thấy, đã nghe, đã biết trong 22 năm gần Mao với tư cách là bác sĩ riêng chăm nom sức khoẻ cho ông. Cuốn sách này để tưởng nhớ Lý Liên, người vợ thân yêu đã đồng cam cộng khổ với tôi trong những năm tháng dưới thời Mao. Không có sự động viên, khuyến khích của Lý Liên tôi không thể hoàn thành cuốn sách này.
Lý Chí ThoảNguyễn Học và
Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh
The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa