ấy giờ khi anh đã qua khỏi tình trạng nguy kịch, sức khỏe của anh tiến triển từng ngày. Vẫn còn nhiều thương tổn cần chữa trị, nhưng tôi không còn lo anh sẽ đột ngột ra đi mỗi khi tôi rời căn phòng đó nữa. Lúc đầu, anh không muốn nói chuyện về cuộc đời mình. Tôi không chắc đó là bởi anh cảm thấy xấu hổ vì cuộc đời làm lính đánh thuê của mình hay vì trận đánh đó đau đớn đến nỗi khó có thể nhớ lại. Nhưng vì không được bàn tán gì cuộc đời anh, tôi bèn lôi cuộc đời tôi ra làm chủ đề trò chuyện. Anh dường như bị cuốn hút vì nó, vì tôi, một điều tôi không tài nào lý giải nổi. Cuộc đời trong tu viện thì có thể có gì hay ho chứ? Nhưng mắt anh sáng lên khi tôi kể cho anh nghe về công việc của tôi trong phòng viết, và anh đã hào hứng hỏi về quần áo của mình. Tôi lấy chúng ra khỏi tủ. Dù chúng hầu như chỉ còn là những mảnh rách rưới, các xơ không thể vất đi những thứ không thuộc về họ. Mũi tên đã đâm xuyên qua ngực chiếc áo giáp không tay của anh và vùng xung quanh gần như đã bị cháy sém hết, nhưng tôi vẫn có thể cảm thấy một vật khá nặng hình chữ nhật nằm trong túi áo khâu ngược vào trong. Anh rút vật này ra, nó được gói trong những lần vải. Mũi tên gãy vẫn kẹt ở phần trước của vật này, đầu mũi tên hầu như không xuyên qua phía sau. Anh lật vật ấy trên tay vài lần, ngạc nhiên vì tấm khiên bất ngờ này đã ngăn không cho mũi tên đâm sâu hơn vào ngực mình. Sau khi rút đầu mũi tên ra, anh ấn nó vào tay tôi và bảo tôi làm gì với nó cũng được. Tôi chẳng cần phải suy nghĩ gì; tôi nói ngay lập tức là mình đã biết phải làm gì với nó rồi. “Thế đó là gì vậy?” “Tôi sẽ đưa nó lại cho anh,” tôi trả lời, “sau khi tôi nhờ cha Sunder ban phước lành cho nó. Rồi ngực anh sẽ chấp nhận nó như một lá bùa bảo vệ chứ không phải một thứ làm hại mình.” “Tôi rất trông chờ đến ngày đó,” anh nói khi đưa cái gói cho tôi. “Tôi có thứ này từ một người bạn đã qua đời.” Tôi mở cái gói ra, bên trong là một cuốn sách viết tay với những vệt cháy sém ở phần rìa dây cả bụi than ra tay tôi. Tôi tự hỏi làm sao cuốn sách có thể nguyên vẹn không bị ngọn lửa nuốt chửng chứ? Tôi đặt nó lại vào ngực anh, và nó vừa khít với những vết bỏng. Phần da không bị cháy chính là nơi cuốn sách đã bị mũi tên găm vào, và nó cũng giải thích cho vết cắt nhỏ ở chính giữa cái hình chữ nhật không bị lửa viếng thăm đó. Tôi lật qua cuốn sách, nhận thấy càng về cuối vết rạch trên những trang giấy càng nhỏ dần, và tôi hỏi anh về người đã mất. Anh trả lời, “Có hai người Ý trong đội của chúng tôi. Một bị giết trên chiến trường, một người rất tốt tên Niccolò. Cuốn này là của anh ấy.” Việc các đội quân condotta thuê người ngoại quốc cũng là bình thường, miễn là họ có năng lực đặc biệt. Đội lính đánh thuê của anh đã tuyển các cung thủ người Ý và đó thực ra là lý do ngay từ đầu đội quân các anh lại gọi là condotta; đó là thuật ngữ Ý chỉ các đội lính đánh thuê, và các binh lính rất thích cách phát âm đó. Người Ý là một trong những cung thủ giỏi nhất anh từng thấy, và họ rất thân thiện với anh và Brandeis. Anh không thông thạo tiếng của họ lắm nhưng cả Benedetto - anh người Ý còn lại - và Niccolò đều có khả năng xoay xở với tiếng Đức, và trong suốt những năm tháng sống cùng nhau, anh dần cảm phục họ với tư cách là cung thủ cũng như những người đàn ông chân chính. Các anh tin tưởng lẫn nhau tới mức tâm sự với nhau rằng mình đều dần trở nên quá chán ghét chiến tranh. Khi Niccolò chết, Benedetto nhận thấy mình chịu đựng thế là quá đủ. Vì anh ấy đã suốt ngày phải liều mạng trên chiến trường rồi, có liều mình đào ngũ thì cũng đâu là gì. Nỗi sợ hãi bị truy đuổi cuối cùng đã bị lấn át bởi nỗi sợ phải tiếp tục ở lại. Thay vì cứ thế bỏ đi không lời từ biệt, Benedetto cho Brandeis và anh cơ hội nhập bọn. Anh đã cân nhắc ý tưởng đó, nhưng cuối cùng quyết định không. Herwald có thể cho qua chuyện một người nước ngoài tự dưng biến mất, nhưng nếu cả ba cung thủ cùng biến mất một lúc thì không thể tránh khỏi hậu quả cực kỳ khủng khiếp. Nhưng, quan trọng hơn hết thảy, cả anh lẫn Brandeis đều không dám làm như Benedetto. Thật ra các anh sợ đội quân của chính mình còn hơn sợ kẻ thù. Tuy thế, hai người vẫn rất ngưỡng mộ Benedetto và thấy cần phải giúp anh ấy, phần vì tình bạn, phần vì cảm giác hồi hộp khi làm việc đó. Benedetto thấy cũng là chuyện đúng đắn nếu cố mang tất cả những gì có thể đến cho vợ và hai con trai của Niccolò ở Firenze. “Bọn cần phải giữ thứ gì đó thuộc về cha chúng khi chúng lớn lên.” Thế là, trong bóng đêm, ba người các anh đã xếp hết di vật của người chết ra xem xét cẩn thận. Có một túi tiền, quần áo, một đôi ủng, một cuốn sách và một cây cung. Benedetto giữ túi tiền, một món đồ giá trị để trao cho người vợ, và cây cung, anh ấy nghĩ đây là món quà xứng đáng cho những người con của một chiến binh. Mặc dù thực sự không cần cuốn sách, anh cũng ấn vào tay Benedetto một chút tiền để mua nó. “Người cha không còn nữa, họ sẽ cần cái này hơn vài lời nói suông.” Benedetto gật đầu, nói rằng không hiểu tại sao bạn mình lại có một cuốn sách. “Có vẻ như nó được viết bởi một nhà thơ nổi tiếng xứ Firenze, nhưng tôi đã luôn trêu Niccolò về chuyện đó. Đàn ông như chúng ta cần thơ ca làm gì chứ?” Buổi sáng hôm sau, anh và Brandeis phải giả vờ bất ngờ như tất cả những người khác trước chuyện Benedetto biến mất. Kuonrat Háo Danh sốt sắng đòi tiến hành cuộc truy lùng quy mô lớn để “tìm giết kẻ phản bội!” Herwald thì suy nghĩ chín chắn hơn. Ông ấy đã quyết chỉ để cho một nhóm nhỏ đuổi theo Benedetto, và chỉ trong một thời gian ngắn thôi. Herwald lý luận, “Anh người Ý đó sẽ trở về quê thôi. Cứ để anh ấy đi. Anh ấy không phải người Đức; anh ấy không phải một trong số chúng ta. Nhưng đừng có nghĩ việc này sẽ gợi ý một sự thay đổi trong đường lối hoạt động của đội. Nếu một binh lính Đức trốn chạy, chúng ta sẽ không ngừng truy đuổi cho tới khi tìm giết được kẻ đó. Dù có mất bao nhiêu năm đi nữa.” Bài phát biểu này xoa dịu cả đoàn quân, hầu hết đều chẳng ưa gì việc mấy tay nước ngoài cứ lố nhố giữa bọn họ. Đối với họ, sự ra đi của cả hai tay người Ý, cách này hay cách khác, là quá đủ rồi. Kuonrat Háo Danh vẫn còn tức giận trước sự biến mất của Benedetto, nhưng lời đe dọa nóng hổi về cái chết dành cho những kẻ đào ngũ người Đức đã mang lại một nụ cười đểu cáng trên khuôn mặt hắn. Tuy thế, hắn vẫn kịp nhận ra đây là một cơ hội hoàn hảo để thì thầm những lời vu khống. “Ông già Herwald đã dần trở nên mềm yếu rồi.” Đúng lúc này thì anh đột ngột dừng câu chuyện, rồi nhìn xuống sàn bệnh xá Engelthal với vẻ bối rối đến nỗi tôi phải hỏi ngay là có chuyện gì không. “Cuốn sách này,” anh nói, “có gì đó rất lạ lùng. Khi tôi nhìn thấy nó lần đầu tiên, nó dường như đang gọi tôi. Như thể nó muốn tôi nhận lấy nó vậy.” “Cũng chẳng có gì quá kỳ lạ đâu. Những cuốn sách lúc nào chẳng làm tôi có cảm giác đó.” “Nhưng xơ Marianne,” anh thú nhận, “tôi không biết đọc.” Tôi không hiểu vì sao anh nghĩ tôi trông chờ anh biết đọc. Tôi ý thức rõ khả năng đọc của mình rất khác thường, không phải ai cũng làm được. Nếu như anh không lấy quyển sách, tôi chỉ ra, mũi tên đã có thể đâm xuyên tim và giết chết anh rồi. “Chắc chắn anh nhận ra nhiều giá trị của cuốn sách này,” tôi nói, “hơn bất cứ thứ gì tôi từng đọc.” Anh đã biết, hoặc ít nhất anh cũng đoán ra được, cuốn sách đó được viết bằng tiếng Ý chứ không phải tiếng Đức. Tôi xác nhận lại điều đó, nhưng cũng nói thêm là tôi có thể dịch được. Anh khá ấn tượng, vì anh không nghĩ là ai đó có thể đọc được một ngôn ngữ, nói gì đến hai. Tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ khi quay trở về phòng, và sẽ cho anh biết nó viết về cái gì. Điều này làm anh hài lòng, nhưng anh vẫn muốn xin tôi một ân huệ nữa. “Hãy cầu nguyện cho linh hồn người bạn đã chết Niccolò của tôi và vợ con anh ấy. Và cho cả Brandeis nữa. Tôi có thể tự làm việc đó, nhưng tôi sợ những lời cầu nguyện của tôi không có giá trị như của xơ.” Tôi đảm bảo với anh rằng lời cầu nguyện của tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, nếu được nói ra với một trái tim chân thành, nhưng chắc chắn tôi sẽ làm theo yêu cầu của anh. Buổi tối hôm đó, tôi bắt tay vào dịch sách. Cuốn sách có rất nhiều hình ảnh tôn giáo, vì thế cuốn kinh cầu nguyện của Paolo thực sự rất hữu ích, nhưng nó dường như được viết bởi một giọng văn đặc địa phương, một thách thức đối với tôi. Ngay từ đầu nó rõ ràng không giống với bất cứ cuốn sách nào tôi từng đọc. Đây cũng sẽ là một cuốn sách cần được giữ kín khỏi mọi tai mắt của các nữ tu khác. Địa ngục, bìa sách viết, của Dante Alighieri. Dù Dante rõ ràng là một người rất sùng đạo, nhưng ông cũng chẳng mấy coi trọng các hoạt động thường nhật của Giáo hội. Tôi há hốc mồm khi đọc đến đoạn miêu tả khu giam giữ những Giáo hoàng dị giáo dưới Địa ngục. Một trong những Giáo chủ đó là Đức ngài Boniface, Giáo hoàng đương nhiệm. Gertrud và thậm chí cả mẹ Christina đều rất coi trọng ông. Đêm tôi dịch khẩn trương, và ngày tôi lại chăm sóc anh. Khi các xơ y tá đi ra ngoài cầu kinh theo lịch, tôi đọc cho anh nghe những gì tôi vừa dịch đêm hôm trước. Tôi cảm thấy chúng ta đang chia sẻ với nhau một cái gì đó rất xấu xa, nhưng xấu xa một cách tuyệt vời. Câu chuyện đã đưa chúng ta tới những nơi khác nhau. Thứ ngôn ngữ bình dân không trau chuốt và những hình ảnh thô cứng đã mang tôi đến với thế giới của anh, nhưng những ý tưởng về tôn giáo lại mang anh đến cuộc sống tâm linh của tôi. Bằng cách nào đó chúng ta đã gặp nhau trong cuốn sách. Tôi luôn được dạy rằng mình có thể tìm thấy Chúa ở khắp mọi nơi, trong tất cả tạo vật, nhưng chẳng bao giờ tôi thực sự làm được. Tôi được dạy rằng nếu tôi không tìm thấy Chúa, tôi sẽ phải cầu nguyện để nhận được thêm nhiều chỉ dẫn, hoặc để làm bản thân thanh khiết hơn sao cho Người có thể đến với tôi. Vì thế hãy tưởng tượng tôi đã bất ngờ thế nào khi tôi bắt đầu hiểu rõ hơn về Chúa Thánh Thần thông qua giọng nói của Dante, và sau cả cuộc đời chìm đắm trong những lời chỉ dạy của Thiên đường, cuối cùng tôi đã có thể tìm được Chúa sau khi nhìn thấy thế nào là Địa ngục. Những giây phút riêng tư giữa hai chúng ta không bao giờ là đủ. Các nữ tu rồi cũng quay trở lại và chúng ta sẽ phải chuyển chủ đề sang những thứ không liên quan đến cuốn sách đó. Thời gian trôi qua và anh dần hé lộ về cuộc đời làm lính đánh thuê của mình. Tôi bị mê hoặc bởi tất cả những gì anh kể, kể cả lý do anh trở thành lính đánh thuê. Khi còn nhỏ, anh luôn nghĩ mình sẽ theo bước cha trở thành thợ nề. Anh được cha chỉ dạy và cuộc đời anh dường như đã được định đoạt cho tới những năm đầu niên thiếu, khi cha anh bị đá đè khi chuyển đá xây dựng, và mẹ anh cũng mất không lâu sau đó, vì một căn bệnh không ai biết nổi tên, nói gì đến chữa trị. Thế là từ con trai của một gia đình tử tế, anh trở thành một đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Thành phố tịch thu nhà của anh, và vì chẳng có người thân thích nào khác, anh đã tự dạy mình cách sinh tồn trên đường phố. Trộm cắp vặt dường như không phải tội lỗi gì ghê gớm lắm khi nó là cách kiếm cơm duy nhất của anh. Một ngày nọ anh đã cố trộm một chút tiền từ ví của Herwald, lúc đó ông đang vào thị trấn để kiếm đồ tiếp tế. Khi bắt quả tang anh, ông đã bị ấn tượng bởi nghị lực hơn là khó chịu vì hành động sai trái của anh. Ông đã đề nghị anh gia nhập đội quân của mình, và anh cũng thấy chẳng việc gì phải từ chối cả. Anh rất hào hứng trước lời đề nghị, và cứ xét một cách đơn giản thôi, anh lúc đó cũng không thể tưởng tượng nổi còn có giải pháp nào tốt hơn nữa. Gia nhập đội quân condotta thực ra cũng không hẳn là một lựa chọn quá tệ, hay ít ra nó cũng có vẻ như thế. Việc tranh giành quyền lực giữa Giáo hoàng và Hoàng đế Louis khiến tất cả những hoàng thân quốc thích còn sót lại trên khắp đất nước rơi vào cảnh rối loạn. Khi quân đội Đức cuối cùng cũng trở nên kiệt quệ, các lãnh chúa quý tộc bắt đầu lập những đội quân cho riêng mình. Tình thế đã trở nên phức tạp đến nỗi chính họ cũng chẳng biết đâu là bạn đâu là thù và điều chắc chắn duy nhất là những đội lính đánh thuê chả bao giờ thiếu việc. Khi tôi hỏi anh đứng về phe nào - Giáo hoàng John hay Hoàng đế - anh trả lời rằng một khi đã tham gia vào chiến tranh thì ở bất cứ phe nào cũng đều sai cả. “Tiến trình lịch sử chỉ xoay quanh việc người này cố giành lấy một thứ gì đó từ một người khác, và thường thì thứ gì đó ấy thực ra cũng chẳng phải của bất cứ bên nào.” Quan điểm này của anh giải thích tại sao anh có thể xoay xở qua ngày với cây cung trên tay. Đó chỉ là vì anh thực tế. Tôi chưa từng nghe ai nói thẳng thừng như anh, thậm chí cả người buôn giấy da cũng không nói với tôi những điều như thế. Tôi không thích mình cảm thấy thích thú vì điều đó, nhưng sự thực là thế. Tôi luôn thấy thanh thản khi tưởng tượng lính tráng chỉ là những cỗ máy giết người vô tri không hơn không kém, nhưng anh đã chứng minh ngược lại. Tôi có lý do để mà phần nào có thể tự cao tự đại về cuộc đời nghiên cứu sách vở của mình, nhưng tôi cũng phải thừa nhận có nhiều điều anh biết mà tôi lại không hay. Phần thịt nơi ngực anh ngày càng rúm lại khi vết thương dần lành miệng. Anh đã nhờ tôi khoét hở ngực để nó có thể phát triển. Tôi không muốn làm thế, và phải nhìn anh chịu đau đớn vì con dao trong tay tôi là điều tôi không thể chịu nổi. Nó khác với lúc tôi cắt bỏ phần thịt thối rữa của anh, vì hồi đầu, tôi vẫn còn có khả năng kiềm chế cảm xúc của mình. Nhưng anh cố đòi bằng được. Anh cảm thấy điều này rất cần thiết, anh có thể cảm nhận được điều đó dựa trên nỗi đau đớn khi phải giơ tay lên. Vì thế cứ vài ngày anh lại ngậm một miếng vải cuộn gọn ghẽ trong miệng và tôi sẽ rạch vài vết trên ngực anh để làm giảm sự co rúm. Việc ấy thật kinh khủng và tôi phải vừa làm vừa tránh nhìn, nhưng những tiếng thét nghẹn ứ của anh thì vẫn còn đó. Anh không thể biết tôi ngưỡng mộ lòng can đảm của anh đến mức nào đâu. Cách điều trị này có vẻ mang lại kết quả tốt: cuối cùng anh cũng có thể rời giường bệnh để đi lại vài bước ngắn, và thỉnh thoảng tay chúng ta lại vô tình chạm vào nhau. Những lời đồn thổi không thể tránh khỏi rốt cuộc cũng bắt đầu lan khắp Engelthal. Các xơ y tá, khi trở về từ buổi cầu nguyện, đã tìm mọi cách gián đoạn câu chuyện Địa ngục để tìm hiểu bí mật giữa chúng tôi. Và không ai không nhận ra có gì đó sâu đậm hơn quan hệ y tá và bệnh nhân trong cách chúng tôi nhìn nhau. Thời gian chúng tôi ở bên nhau không còn được lý giải chỉ để cho việc điều trị nữa. Tôi chắc chắn Gertrud và Agletrudis đứng đằng sau tất cả mọi chuyện. “Tên lính đánh thuê đã làm vấy bẩn xơ Marianne đáng yêu của chúng ta.” Tôi nghĩ điều này cũng chẳng có gì sai, vì tôi đã nhận ra mình hoàn toàn có thể yêu nhiều hơn chỉ một vị Chúa. Thực tế, tôi đã nhận ra rằng yêu nhiều hơn chỉ một vị Chúa thực ra còn tốt hơn ấy chứ. Chuyện gì đến cũng phải đến. Mẹ Christina quyết định tống anh đi, nhưng vì anh vẫn chưa hoàn toàn bình phục, bà bèn gửi anh đến chỗ cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. “Để giúp anh dần quay lại với cuộc sống,” bà nói. “Mọi thứ đã lo liệu xong cả rồi.” Tôi chẳng thể nói gì, vì tôi đã thề dành cả đời tận tâm phục vụ nữ tu viện trưởng của mình. Vậy là anh thu dọn chút đồ đạc ít ỏi của mình và cám ơn tất cả chúng tôi, cám ơn những cô xơ y tá khác nhiều như cám ơn tôi vậy, vì đã quan tâm chăm sóc anh tử tế. Cách chia tay của anh quy củ đến mức làm tim tôi nhói đau, nhưng tôi nghĩ những người lính giỏi nhất biết rõ những trận đánh nào cần phải tránh xa. Cứ thế, anh bị đưa ra khỏi cuộc đời tôi rồi được đặt vào bàn tay chăm sóc của những người khác. Tôi tự nhủ làm thế là tốt hơn cả, và tôi thậm chí còn quyết tâm bắt mình phải tin điều đó. Đã đến lúc tiến về phía trước. Chúa không ban cho tôi năng lực ngôn ngữ kỳ diệu để dịch những tác phẩm báng thánh bổ thần của các nhà thơ Ý, thế nên tôi đã khóa kín Địa ngục vào trong rương của mình. Tôi tự nhủ tình cảm tôi dành cho anh thực sự chẳng hơn gì một thử thách, để tôi có thể vượt qua mọi ham muốn thế tục và vì thế có thể phụng sự Chúa hết lòng hết dạ hơn. Tôi dự tất cả các buổi cầu nguyện và làm việc cho tới tận khuya tại phòng viết, tập trung vào Die Gertrud Bibel. Gertrud đã bắt đầu thiết kế bìa cho cuốn sách và đôi khi lớn tiếng băn khoăn liệu trang sức đính kèm có nhiều quá không. Tôi trấn an bà rằng để tôn vinh Chúa thì chẳng có gì là quá xa xỉ cả. Chuyện này kéo dài được một tuần rồi tôi cũng ngộ ra vài điều. Tôi không thể cứ khóa kín Địa ngục trong rương mãi được, vì nó thực ra có phải của tôi đâu. Trả nó lại cho anh thì mới đúng đạo. Cũng như chuyện các nữ tu không được phép hủy quần áo tư trang của anh, tôi cũng chẳng có quyền giữ sách của anh. Thế này cũng là một dạng trộm cắp, và tôi biết chắc Chúa không hề mong tôi trở thành một tên trộm. Tôi quyết định lẻn đi gặp cha Sunder, sao lại không chứ? Tôi đã đi đêm đến nhà ông bao lần rồi, vậy tại sao mọi thứ lại phải thay đổi chỉ vì anh ở đó? Nếu tôi tránh không thực hiện thói quen hằng ngày của mình thì có khác nào cho phép sự hiện diện của anh thay đổi nếp sống của tôi - chính là điều mà tu viện trưởng đang cố ngăn cản. Cách duy nhất khiến anh không gây ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi nữa là lén lút viếng thăm ngôi nhà anh đang ở. Cha Sunder ra mở cửa và hất đầu về phía góc nhà nơi anh đang ngồi. “Cái người này,” ông nói, “cả tuần nay đã cố hết sức không đả động gì đến tên con rồi.” Khuôn mặt anh trông hồng hào hơn nhiều so với khi tôi gặp anh lần cuối, và khi anh đứng lên thì tôi có thể thấy rõ phần thân trên của anh đã cử động được dễ dàng hơn. Chẳng mấy chốc anh sẽ khỏe lại rồi rời nơi này, tôi nghĩ, và ngay trong giây phút đó, tim tôi như ngừng đập. Tôi quay về phía cha Sunder hốt hoảng hỏi, “Thế con phải làm gì bây giờ?” Ông nhìn về phía huynh trưởng Heinrich và họ như trao đổi với nhau điều gì đó, một cái nhìn hay một ký ức, trước khi ông lại hướng sự chú ý về phía tôi mà ngọt ngào nói, “Xơ Marianne. Con sẽ rời Engelthal, dĩ nhiên.” Theo như tôi nhớ, cha Sunder đã luôn than trách về những tội lỗi thời trai trẻ của mình, vậy mà giờ đây ông lại đang khuyên tôi bỏ trốn khỏi Engelthal để dấn bước vào cái thế giới tội lỗi ấy sao? Do chẳng bao giờ dám nghĩ tới điều này nên tôi đã thì thầm, nhỏ đến nỗi anh chẳng thể nghe thấy, “Tại sao chứ?” “Ta đã ở cùng mẹ Christina vào cái đêm con được tìm thấy ngoài cổng,” cha Sunder thì thầm đáp lại, “và ta đã tranh luận với mọi người rằng sự hiện diện của con là một dấu hiệu của Chúa. Khi đó ta đã nghĩ rằng Chúa có một dự định đặc biệt nào đó cho con, và ta vẫn luôn nghĩ vậy. Nhưng ta không còn tin rằng những dự định đó có thể được thực hiện tại Engelthal.” Vẫn chưa đủ, tôi muốn ông giải thích thêm nữa. “Khi người đàn ông này xuất hiện, một lần nữa ta lại có mặt để chứng kiến. Ta đã thấy tình trạng của anh ta, và lẽ ra anh ta đã chết rồi - nhưng anh ta lại sống sót. Không ai có thể nghi ngờ chuyện con là nguyên do của điều kỳ diệu này. Ta không thể không nghĩ rằng cuộc hành trình của con với anh ta vẫn chưa kết thúc, và đó là một cuộc hành trình được Chúa mỉm cười đồng thuận.” “Nhưng chối bỏ lời thề của con là một tội lỗi.” “Ta không tin vào một vị Chúa coi tình yêu là tội lỗi,” cha Sunder thì thầm. Những lời đó chính là sự cho phép tôi cần, và tôi không biết phải nói gì để cảm ơn ông. Tôi vòng tay ôm chặt lấy ông, chặt đến nỗi ông phải xin tôi nới lỏng tay ra. Tôi quay trở lại phòng và thu dọn chỗ đồ đạc ít ỏi của mình. Vài bộ áo chùng, đôi giày tốt nhất và cuốn kinh cầu của Paolo: tôi chẳng còn gì đáng mang theo nữa. Trời đổ mưa khi tôi bắt đầu quay trở lại nhà cha Sunder, băng qua vườn. Như tất cả các xơ khác khi đi theo lối vườn, tôi đọc kinh Cầu hồn để cầu nguyện cho linh hồn những xơ đã khuất được chôn phía dưới, nhưng những lo nghĩ của tôi về tương lai đã làm tôi run lên, vì cả sợ hãi lẫn hy vọng. Thật tốt vì trời mưa, tôi nghĩ, như thể cơn mưa đó được gửi đến để rũ sạch mọi thứ liên quan đến tu viện khỏi người tôi. “Trông cô tay xách nách mang quá, xơ Marianne.” Đó là giọng nói của xơ Agletrudis. “Ít ra cô cũng đã nói lời tạm biệt với người bảo hộ của mình, tu viện trưởng rồi chứ nhỉ?” Đó quả là một cú đánh hoàn hảo. Tôi chẳng quan tâm việc Agletrudis và Gertrud sẽ nghĩ gì, nhưng tận trong sâu thẳm trái tim tôi cảm thấy mình đang phản bội mẹ Christina. Nhưng tôi có thể nói gì với bà chứ? Tôi làm sao có thể chịu đựng nổi nỗi đau trong mắt bà. Bà đã luôn tin tôi, thậm chí ngay cả khi tôi chẳng có chút lòng tin vào chính bản thân mình, và bà sẽ không bao giờ ngờ được tôi lại bất trung với bà thế này. Tôi cứ thế đi thẳng qua Agletrudis mà không thèm trả lời, và cô ta gọi với theo tôi. “Đừng lo gì về mẹ Christina. Tôi sẽ bảo đảm bà ấy không bao giờ quên cô.” Suýt nữa tôi đã quay người lại để hỏi xem cô ta nói thế là ý gì, nhưng làm thế thì được gì chứ? Thế là tôi cứ tiếp tục đi. Tôi biết Agletrudis sẽ không rung chuông thông báo vụ bỏ đi của tôi ngay đâu. Cô ta chẳng thích để tôi ra đi âm thầm lặng lẽ và lấy lại cái ghế trưởng phòng viết đang chờ sẵn quá ấy chứ. Khi đến được nhà cha Sunder thì tôi đã hoàn toàn rũ bỏ mọi suy nghĩ về Gertrud và Agletrudis ra khỏi đầu. Khuôn mặt mẹ Christina, tuy thế, vẫn còn vương vấn trong tâm trí tôi. Huynh trưởng Heinrich gói cho tôi chút thức ăn và dù cha Sunder đã gần bảy mươi, ông vẫn khăng khăng đòi tiễn chúng tôi một đoạn. Tôi lấy lý do trời mưa, nhưng ông cứ khoác áo tơi lên rồi đi. Khi chúng tôi đi, cha Sunder ở giữa, tôi không nghĩ gì về tương lai mà là về những gì tôi đã bỏ lại phía sau. Dù được những lời lẽ ân cần của cha Sunder động viên, tôi cũng chẳng thể bác lại sự thật trần trụi và đáng nguyền rủa rằng việc phá vỡ giao ước thiêng liêng của tôi là một tội lỗi. Tôi đã cố lý lẽ này nọ và, sau một nỗ lực đáng kể, tôi thậm chí còn chế ra được một bài tranh luận ra vẻ chính đáng. Trong tất cả các nữ tu tại Engelthal, tôi là người duy nhất không hề quyết định sẽ sống một cuộc đời như vậy. Dù đến đó khi còn trẻ, họ cũng đã từng biết đến một cuộc sống ngoài những bức tường tu viện; họ đã sống cuộc sống thế tục và biết mình đã mất những gì khi bước chân vào đời sống tu sĩ. Tôi chưa từng có cơ hội đó. Vì thế nếu tôi rời Engelthal cùng anh, và trở lại sau đó, cuộc sống tâm linh sẽ có giá trị hơn. Cuối cùng, ít nhất đó cũng là sự lựa chọn của tôi chứ không phải của ông bố bà mẹ nào đấy đã vứt tôi trước cổng: để biết được rằng liệu cuộc sống tu viện có phải là định mệnh dành cho tôi không, tôi phải rời bỏ nó đã. Sau khi chúng ta đi được khoảng một dặm, tôi thấy anh rất mệt. Cũng dễ hiểu thôi, vì thương tích của anh rất trầm trọng và từ sau tai nạn đó thì anh mới chỉ vận động chút đỉnh, nhưng anh đã quyết tâm thể hiện sự yếu đuối của mình càng ít càng tốt - để thuyết phục bản thân anh hay tôi rằng anh sẽ ổn, tôi cũng không rõ nữa. Tuy thế, cha Sunder là người dừng lại đầu tiên vì tuổi cao sức yếu. Ông nắm lấy tay anh và nhắc anh chăm sóc tôi thật tốt, và rồi ông kéo tôi qua một bên để chúng tôi có thể chuyện trò riêng tư một chút. Ông lấy một chiếc vòng cổ cất trong lần áo lễ và nhét vào tay tôi. Mặt dây là đầu mũi tên được lấy ra từ cuốn Địa ngục, rồi ông nói, “Ta đã làm những gì con yêu cầu, xơ Marianne, và cũng đã chúc phúc cho nó rồi.” Tôi định cám ơn nhưng ông đã giơ tay lên. “Ta vẫn còn có thứ muốn trao cho con.” Ông lại lần tay trong chiếc áo lễ và lấy ra vài mẩu giấy. “Mẹ Christina không mù cũng chẳng ngốc đâu. Bà ấy không nghĩ con sẽ ra đi thật, nhưng bà cũng liệu trước khả năng đó. Bà ấy đã nhờ ta giữ những thứ này, phòng khi cần đến.” Ông trao cho tôi hai mẩu giấy mà cha mẹ tôi đã để lại trong chiếc giỏ đựng tôi trước cổng. Trên đó, được viết bằng tiếng Đức và tiếng Latin, là những dòng chữ đã đi cùng tôi đến Engelthal. Một đứa trẻ của định mệnh, đứa con thứ mười trong một gia đình tử tế, được đem tới như món quà dành cho Chúa Cứu thế và tu viện Engelthal. Xin hãy đối xử với con bé như Chúa mong muốn. Chỉ khi đó tôi mới tuôn những giọt nước mắt đã cố giấu suốt từ khi ra quyết định. Trong một thoáng ngờ vực, tôi hỏi cha Sunder ông có thực sự tin rằng tôi đã lựa chọn đúng đắn hay không. “Marianne, con yêu thương nhất của ta,” ông nói, “ta tin chắc rằng nếu không nghe theo tiếng gọi của trái tim mình trong chuyện này, con sẽ mãi mãi phải hối tiếc đấy.”