QUẺ ĐOÁI

Đoái trên
= Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đoái, Tự quái nói rằng: Tốn là vào, vào mà sau mới đẹp lòng, cho nên tiếp đến quẻ Đoái. Đoái là đẹp lòng, loài vật vào nhau thì đẹp lòng nhau, đẹp lòng nhau thì vào nhau, vì vậy quẻ Đoái mới nôi quẻ Tôn.
LỜI KINH
兌予利貞.
Dịch âm. - Đoái hanh lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Đoái hanh, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đoái là đẹp lòng, đẹp lòng tức là cách đem đến sự hanh thông. Có thể đẹp lòng với người ta, người ta ai cũng đẹp lòng mà cùng với mình? Như thế đủ để đem đến sự hanh thông. Nhưng cái đạo làm sự đẹp lòng, lợi tại trinh chính, nếu trái đạo mà cầu đẹp lòng thì là tà xiêm, mà có hối lỗi, cho nên răn rằng “lợi về chính bền”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoái là đẹp lòng. Một Âm tiến lên trên hai Dương, tức là sự mừng hiện ra bên ngoài. Tượng nó là chầm lấy nghĩa đẹp lòng muôn vật, lại lấy về tượng nước Khảm mà lấp dòng dưới. Thể quẻ cứng trong mà mềm ngoài, cứng trong cho nên đẹp lòng mà hanh, mềm ngoài cho nên lợi về chính bền. Bởi vì sự đẹp lòng vẫn có cách hanh thông, nhưng cái đẹp lòng càn bậy, thì không thể không răn, cho nên lời chiêm của nó như thế. Lại, mềm ngoài cho nên đẹp lòng hanh thông, cứng trong cho nên lợi về chính bền, cũng là một nghĩa nữa.
LỜI KINH
彖曰: 兌說也, 剛中而柔外, 說以利貞, 是以順乎天而應乎人.說 以先民, 民忘其勞;說以犯難, 民念其死.說之大, 民勸矣哉.
Dịch âm. - Thoán viết: Đoái duyệt dã, cương trung nhi nhu ngoại, duyệt dĩ lợi trinh, thị dĩ thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Duyệt dĩ tiên dân, dân vong kỳ lao; duyệt dĩ phạm nan, dân niệm kỳ tử. Duyệt chi đại, dân khuyến hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Đoái là đẹp lòng. Cứng trong mà mềm ngoài, đẹp lòng và lợi về chính bền, cho nên thuận với trời mà ứng với người. Dùng sự đẹp lòng để đi trước dân, dân quên sự nhọc của nó; dùng sự đẹp để phạm vào hiểm nạn, dân nghĩ sự cố chết của nó. Sự đẹp lòng lớn lao, dân khuyến khích vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nghĩa của quẻ Đoái là đẹp lòng. Một Âm ở trên hai Dương, tức là Âm đẹp lòng với Dương mà bị Dương đẹp lòng. Dương cứng ở trong, là tượng trong lòng thành thực, hoà mềm ỗ ngoài, là tượng tiếp người bằng cách hoà mềm, cho nên là đẹp lòng mà chính bền. Lợi trinh nghĩa là cái đạo đẹp lòng nên cho chính đính vậy. Trong quẻ có đức cứng giữa, là kẻ có thể chính bền. Đẹp lòng mà lại chính bền, cho nên trên thuận lẽ trời, dưới ứng lòng người, tức là việc rất chính rất phải trong đạo đẹp lòng. Đạo đấng quân tử đẹp lòng với dân, giống như trời đất ra ơn, cảm được lòng họ mà họ vui phục không chán. Cho nên dùng cách đó mà đi trước dân thì dân đẹp lòng theo mà quên sự khó nhọc; đem dân phạm vào sự hiểm nạn, thì dân thực bụng vui phục với nghĩa mà không ngại sự chết. Cái đạo đẹp lòng lớn lao, dân không kẻ nào không biết khuyến khích. Khuyến khích nghĩa là tin mà cố sức thuận theo. Đạo của kẻ làm vua lấy sự lòng người vui phục làm gốc, cho nên thánh nhân ngợi khen cái lớn của nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ thích lời quẻ mà nói cho thật cùng tột.
LỜI KINH
象曰: 厲澤兌, 君子以朋友講習.
Dịch âm. - Tượng viết: Lệ trạch Đoái, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Bám chầm là quẻ Đoái, đấng quân tử coi đó mà bè bạn giảng tập.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Bám chầm nghĩa là hai chấm phụ bám vào nhau. Hai chầm bám nhau là tượng thấm nhuần lẫn nhau, đắp đổi giúp ích cho nhau. Cho nên đấng quân tử coi tượng đó mà bè bạn giảng tập. Bè bạn giảng tập tức là đắp đổi làm ích cho nhau. Tiên nho bảo việc đẹp lòng ở gầm trời, không gì bằng bè bạn giảng tập. Bè bạn giảng tập vẫn là điều lớn trong sự đáng đẹp lòng, nhưng nên hiểu rõ cái tượng làm ích cho nhau.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai chầm bám nhau, đắp đổi thêm ích cho nhau. Bè bạn giảng tập, tượng cũng như thế.
LỜI KINH
初九: 和兌, 吉!
Dịch âm. - Sơ Cửu: Hoà đoái, cát ỉ
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Hoà đẹp lòng, tốt!
GIẢI NGHĨA
(1) Chữ 中孚(trung phu) nghĩa là giữa tin hay trong tin.
Truyện của Trình Di. - Hào Đầu tuy là hào Dương mà ở thể đẹp lòng, ở chỗ rất thấp, không có hệ ứng, ấy là kẻ biết nhún thấp hoà thuận để làm cách đẹp lòng mà không thiên tư. Lấy hoà thuận làm đẹp lòng mà không thiên tư với ai, tức là cách chính đáng trong đạo đẹp lòng. Dương cứng thì không hèn, ở dưới thì biết nhún, đẹp lòng thì có thể hoà, không có ứng thì không thiên tư. Ở cảnh đẹp lòng như thế, cho nên được tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là hào Dương ở thể đẹp lòng lại ở chỗ rất thấp mà không có hệ ứng, cho nên tượng, chiêm của nó như thế.
LỜI KINH
象曰: 和兌之吉, 行未疑也.
Dịch âm. - Tượng viết: Hoà đoái chi cát, hành vị nghi dã. Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cái tốt của sự hoà đẹp lòng, đi chưa ngờ vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Đầu theo thì xử thuận, lòng không vướng víu, không định làm gì chỉ cần lấy hoà mà thôi, cho nên mới tốt. Lời Tượng lại vì nó ở thể đẹp lòng, đứng chỗ thấp, mà không giữa chính, cho nên nói rằng: “Đi chưa ngờ vậy”. Nghĩa là sự đi của nó chưa có vẻ đáng ngờ, tức là chưa thấy nó có lỗi vậy. Nếu nó mà được giữa chính, thì sẽ không có câu nói ấy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ở về đầu quẻ, sự đẹp lòng của nó, chưa có điều ngờ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cửu Nhị: Phu đoái cát, hối vong,
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Tin đẹp lòng, tốt ăn năn mất.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Hai vâng liền với hào Âm mềm. Âm mềm là kẻ tiểu nhân đó, đẹp lòng với nó thì có ăn năn. Hào Hai có đức cứng giữa, sự phu tín đầy ở bên trong, tuy liền với kẻ tiểu nhân, mà nó tự mình giữ gìn, chẳng để mất đức cứng giữa, cho nên mới tốt mà sự ăn năn mới mất.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứng giữa là đức tin, ở ngôi Âm là ăn năn, kẻ xem lấy sự tin làm đẹp lòng thì tốt mà sự ăn năn mất đi.
LỜI KINH
象曰: 孚兌之吉, 信志也
Dịch âm. - Tượng Dịch nghĩa. - Lời
chí vậy.
viết: Phu đoái chi cát, tín chí dã.
Tượng nói rằng: Tin đẹp lòng mà tốt, tín
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái để trong lòng là chí. Hào Hai cứng đặc ở giữa, tức là phu tín để ở bên trong. Chí nó đã để về đường thành tín, há lại đến nỗi đẹp lòng với kẻ tiểu nhân mà tự mình làm mất bản tính của mình? Vì vậy mới tốt.
LỜI KINH
六三: 來兌, 凶!
Dịch âm. - Lục Tam: Lai đoái, hung ỉ Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Lại đẹp lòng hung!
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu là người Âm mềm không trung chính, tức là kẻ đẹp lòng không theo đạo, tự lại để cầu đẹp lòng. Liền với hào Dương ở dưới uôn mình, trái đạo để cầu đẹp lòng, vì vậy mới hung. Đi vào trong là lại. Trên dưới đều là Dương, mà riêng đi vào bên trong, vì nó cũng thể mà tính Âm thấp, thế là trái đạo đi xuống.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này Âm mềm chẳng giữa, chẳng chính, làm chủ sự đẹp lòng, trên không có ứng mà trở lại với hai hào Dương để cầu đẹp lòng, đó là đạo hung.
LỜI KINH
象曰: 來兌之凶, 位不當也.
Dịch âm. - Tượng viết: Lai đoái chi hung, vị bất đáng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lại đẹp lòng mà hung, ngôi chẳng đáng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Âm ở chỗ không trung chính, không kẻ cùng với, mà cố liều cầu lấy đẹp lòng, vì vậy mới hung.
LỜI KINH
九四: 商兌, 未寧, 介疾, 有喜.
Dịch âm. - Cửu Tứ: Thương đoái, vị ninh, giới tật, hữu hỷ.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Đắn đo đẹp lòng, chưa yên, thẳng ghét, có mừng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Tư phía trên vâng theo hào Năm là hào trung chính, mà phía dưới liền với hào Ba là hào Âm tà, nó tuy Dương cứng mà ở chỗ bất chính, hào Ba Âm mềm, tức là kẻ mà hào Dương đẹp lòng, cho nên không thể quyết đoán mà đắn đo chưa yên, nghĩa là so sánh bàn bạc nên theo đằng nào mà chưa thể định. Nếu nó kiên quyết giữa đường chính đính, mà xa ghét kẻ tà ác, thì có sự mừng. Theo hào Năm là chính đáng, đẹp lòng hào Ba là cong queo. Hào Tư ở ngôi gần vua, nếu nó cương quyết giữ đường chính, ghét xa kẻ tà ắc, thì sẽ được vua để hành đạo, phúc khánh tới người, thế là có mừng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Tư phía trên vâng theo hào Chín Năm là hào trung chính, mà phía dưới liền sát với hào Sáu Ba là hào nhu tà, cho nên không thể quyết đoán mà phải đắn đo cân nhắc chỗ nên đẹp lòng, chưa thể định được. Nhưng chất nó vốn là Dương cứng, cho nên có thể kiên quyết giữ đường chính đính mà ghét bỏ kẻ nhu tà, như thế thì có mừng. Tượng, chiêm như thế, cái ý răn người sâu lắm.
LỜI KINH
象曰: 九四之喜, 有慶也
Dịch âm. - Tượng viết: Cửu Tứ chi hỷ, hữu khánh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cái mừng của hào Chín Tư, có phúc vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Gọi là cứng, nghĩa là nếu có giữ đường chính đính mà vua đẹp lòng, thì được thi hành cái đạo Dương cứng của nó mà phúc khánh vớt người.
LỜI KINH
九五: 孚于剝, 有厲
(1) Dịch theo ý Chu Hy.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Phu vu bác, hữu lệ.
Dịch nghĩa. Hào Chín Năm: Tin chưng đẽo, có nguy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Đẽo” là tiếng nói việc làm tiêu khí Dương. Khí Âm là thứ làm tiêu khí Dương, đó là chỉ về hào Sáu Trên, cho nên “tin chưng đẽo” thì nguy. Vì hào Năm ở thì đẹp lòng mà liền sát với hào Sáu Trên, cho nên mới làm ra lời răn đó. Thánh như vua Thuấn, còn sợ xảo ngôn lệnh sắc, không răn sao được? Sự đẹp lòng mê hoặc người ta, dễ vào mà đáng sợ như thế đó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Đẽo” là Âm đẽo được Dương. Hào Chín Năm Dương cứng giữa chính, nhưng đương thì đẹp lòng, mà ở ngôi tôn, liền sát với hào Sáu Trên, hào Sáu Trên Âm mềm là chủ sự đẹp lòng, ở về cùng cực thể đẹp lòng, là kẻ có thể càn quấy đẹp lòng mà làm tiêu khí Dương, cho nên lời chiêm chỉ răn: hễ tin hào Sáu Trên thì có nguy.
LỜI KINH
象曰: 孚于剝, 位正當也.
Dịch âm. - Tượng viết: Phu vu bác, vị chính đương dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Tin chưng đẽo, ngôi chính nên vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Răn đừng tin chưng đẽo là vì ngôi của hào Năm chính nên răn vậy. Liền sát với kẻ Âm mềm, có cách sẽ đẹp lòng nhau, cho nên răn đừng tin đó.
LỜI KINH
上六: 引兌.
Dịch âm. - Thượng Lục: Dẫn đoái.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Dẫn đẹp lòng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ khác đến chỗ cùng cực thì biến, quẻ Đoái là cuộc đẹp lòng, cùng cực thì càng đẹp lòng. Hào Sáu Trên là chủ làm thành cuộc đẹp lòng, ở chỗ cùng cực cuộc đẹp lòng, tức là đẹp lòng không biết thôi, cho nên sự đẹp lòng đã cùng cực mà lại dẫn cho dài ra. Vậy mà không đến hối lỗi là sao? Đáp rằng: Đương khi nói nó đẹp lòng không biết thôi, chưa thấy cái nó đẹp lòng là thiện hay ác.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Trên là chủ làm thành cuộc đẹp lòng, lấy chất Âm ở chỗ cùng cực thể đẹp lòng, dẫn ba hào Dương cùng làm đẹp lòng mà không hẳn là theo hào nào. Cho nên hào Chín Năm nên răn mà hào này không nói là cát hay hung.
LỜI KINH
象曰: 上六引兌, 未光也
Dịch âm. - Tượng viết: Thượng Lục dẫn đoái, quang (iã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Hào Sáu Trên dẫn đẹp lòng chưa sáng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đẹp lòng đã cùng cực, lại dẫn cho dài ra, tuy là bụng “đẹp lòng” đó không thôi mà sự lý đã quá, thật không có gì đẹp lòng. Việc đến khi thịnh thì có sáng sủa, mà miễn cưỡng dẫn cho dài ra, thì vô ý vị tệ lắm, há có sáng sủa? “Chưa” là tiếng “chẳng ắt hẳn”, trong lời Tượng dùng nhiều “Chẳng ắt