Việt Nam, sách văn học tầm cao, có ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm người Nhật qua nhiều thế hệ chưa xuất hiện nhiều. Đúng như nhận định của ông Mitsuyoshi Numano, giáo sư văn học của Đại học Tokyo trong Hội thảo văn học Nhật Bản tháng 9-2009 tại Hà Nội: “Hình như phần lớn các tiểu thuyết (của Nhật) được dịch đều thuộc về các nhà văn ăn khách hiện đại trong khi các nhà văn quan trọng trước đó với những tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian thì hầu như chưa được dịch sang tiếng Việt Nam.”
Trong số lượng rất lớn các tác giả văn học Nhật trong hơn 100 năm từ thời Minh Trị đến nay vị giáo sư này đã lựa chọn ra 10 tác giả văn học mà ông cho là quan trọng nhất ở Nhật gồm có: Mori Ogai (1862-1922), Akutagawa Soeki (1867-1916), Tanizaki Junnichiro (1886-1965), Akutagawa Ryunosuke (1892-1927), Dazai Osamu (1909-1948), Kawabata Yasunari (1899-1972 – giải Nobel văn học), Mishima Yukio (1925-1970), Abe Kobo (1924-1993), Oe Kenzaburo (1935 – giải Nobel văn học), Murakami Haruki (1949).
Để người Việt Nam hiểu và thấy được cái hay của văn học Nhật, cần thiết phải dịch văn học Nhật sang tiếng Việt nhiều hơn nữa để người Việt Nam có cơ hội tìm hiểu và tiếp xúc nhiều hơn với các tác phẩm và tác giả quan trọng của văn học Nhật. Chính các dịch giả sẽ là cầu nối để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Tôi vui mừng ghi nhận sự xuất hiện của những dịch giả mới người Việt, có nghiên cứu cẩn thận và hiểu sâu về con người, văn hóa Nhật Bản, với niềm say mê văn học Nhật, đã đem đến cho bạn đọc Việt Nam những kiệt tác được dịch trực tiếp từ nguyên bản. Đây là một điểm rất cần khuyến khích và nhiệt tình cổ vũ.
Tiểu thuyết Tôi là con mèo của văn hào Natsume Soeki, do bà Bùi Thị Loan dịch từ bản tiếng Nhật, là một trong chưa nhiều trường hợp tôi vừa nói ở trên.
Vị trí và vai trò của các tác phẩm của Natsume Soeki trong nền văn học Nhật bản là rất quan trọng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ người Nhật Bản, bất cứ người Nhật Bản cũng biết đến các tác phẩm Botchan,Wagahai wa neko dearu, Kokoro… của ông. Ông được coi là nhà văn dân tộc lớn nhất trong nền văn học cận đại ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị. Các nhà phê bình văn học đánh giá ông là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản cùng Mori Ogai và Akutagawa Ryunosuke.
Năm 2006 bạn đọc Việt Nam đã được đọc cuốn Cậu ấm ngây thơ (Botchan) và bây giờ lại được cầm trên tay bản dịch kiệt tác Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) của đại văn hào Natsume Soeki, cả hai đều do dịch giả Bùi Thị Loan chuyển ngữ sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.
Việc Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) tài trợ cho bản dịch tiểu thuyết Tôi là con mèo lần này của bà Loan là một trong những hoạt động rất tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam. Tác phẩm dịch này ra đời là món quà ý nghĩa để tiến tới kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ Việt Nam – Nhật Bản (2013).
Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Natsume Soeki. Mượn lời kể của một con mèo sống trnog nhà một thầy giáo dạy trung học, tác giả đã vẽ nên bức tranh trào phúng về diện mạo điển hình của tầng lớp trí thức Nhật thời Minh Trị. Con mèo lắng nghe và quan sát các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng của “ông giáo” Kushami, thực chất đó là những cuộc thảo luận về triết học và nghệ thuật cũng như thói đời trong thế giới mà mãnh lực đồng tiền đang xâm chiếm tình cảm con người trong buổi giao thời và xung đột giữa văn hóa Đông – Tây ở Nhật Bản. Độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự tẻ nhạt và kệch cỡm trong lối sống, sự nửa vời và lười nhác trong học thuật của những nhân vật chính như ông giáo Kushami, nhà mỹ học Meitei, cử nhân khoa hoạc tự nhiên Kangetsu, rồi một vài nhà thơ, nhà phê bình… từ các cuộc tranh luận như bất tận của họ, xoay quanh nhiều vấn đề nghệ thuật kinh điển và hiện đại, của Nhật cũng như của thế giới. Ở khía cạnh khác, bạn đọc có thể tìm thấy trong cuốn sách này những chi tiết văn hóa đặc trưng của Nhật, được miêu tả tinh tế, tròn trặn và trầm tĩnh. Điểm nổi bật trong kiệt tác này, chính là bạn đọc được làm quen và thưởng thức giọng văn châm biếm hóm hỉnh mang nhiều nét tự trào của một bút pháp bậc thầy. Nhưng lưu ý rằng cái hóm hỉnh lại “rất Nhật” nên người đọc Việt Nam đôi khi cần có chút hiểu biết về văn hóa Nhật mới thấy hết cái hay cái hóm của nó.
Dịch giả Bùi Thị Loan là một người Việt Nam am hiểu văn hóa văn học Nhật, hiện tại bà vẫn đang sinh sống và làm việc tại xứ sở hoa anh đào. Bà là một người dịch mới, trong thế hệ các dịch giả văn học thời hiện đại, được tiếp xúc và chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên bản. Bản dịch của bà Bùi Thị Loan, mà theo tâm nguyện bà muốn cố gắn chuyển tải một cách trung thực văn phong của một đại văn hào Nhật Bản, có thể, đôi chỗ còn làm cho bạn đọc Việt Nam, nhất là lớp trẻ, cảm thấy hơi có gì đó khác lạ, hơi khó dung nạp. Nhưng dụng ý của người dịch quyết tâm giúp bạn đọc Việt Nam dần khám phá đỉnh núi Natsume Soeki một cách thuần chất và nguyên vẹn, dù không dễ. Như đã nói, vốn dĩ tác phẩm Tôi là con mèo – một tác phẩm được viết ra ở Nhật Bản cách đây hơn một thế kỷ, dù rằng là kiệt tác của nhân loại, sống mãi với thời gian, đã đi vào tâm hồn bao thế hệ người Nhật, nhưng chính người Nhật hiện đại cũng cảm thấy nhiều chỗ khó đọc, vì vậy chuyển ngữ sang tiếng Việt là một công việc đầy gai góc. Đối với độc giả nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để thấy hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm này thiết nghĩ cũng cần có thời gian. Mọi phán xét xin dành lại cho độc giả.
Thúy Toàn
Tiểu sử tác giảNatsume Sōseki (9/2/1867-9/12/1916), tên thật là Natsume Kinosuke là nhà văn cận hiện đại lớn của Nhật Bản. Ông nổi tiếng vì thuộc thế hệ những trí thức tinh hoa theo khuynh hướng sáng tạo văn hóa từ cuộc đối đầu phương Đông và phương Tây thời kỳ Minh Trị, là một trong những chủ soái của trường phái văn chương tâm lý cao sang bút chiến với chủ nghĩa tự nhiên trên văn đàn Nhật Bản những năm đầu thế kỷ 20. Natsume Sōseki được các nhà phê bình văn học đánh giá là “một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản” cùng Mori Ōgai và Akutagawa Ryunosuke.
Tiểu sử và sự nghiệpNatsume Sōseki sinh tại Edo Nhật Bản năm 1867, chỉ một năm trước khi sự kiện Minh Trị Duy tân được khởi xướng (1868). Sự ra đời của ông không được bố mẹ hoan nghênh vì hoàn cảnh gia đình bắt đầu sa sút và nỗi lo lắng trước sự biến đổi không lường trước của thời đại mới với những đổi thay đến chóng mặt của Nhật Bản theo mô hình phương Tây. Năm lên 2 tuổi, Sōseki đã phải rời gia đình đi làm con nuôi cho một gia đình ở Shinjuku, Tokyo. Tuy được cha mẹ nuôi yêu mến, cậu bé vẫn không thôi cảm thấy mình cô độc và mặc cảm. Khi lớn lên, Natsume Sōseki theo học chữ Hán và tiếng Anh để dự thi vào trung học, sớm say mê văn học và đọc nhiều tác phẩm văn chương cổ điển Nhật Bản cũng như những tác phẩm văn học Anh đương thời.
Năm 1888, Natsume Sōseki vào học Khoa tiếng Anh của Trường số 1 của Đại học Đế quốc Tōkyo. Tại đây Sōseki chịu ảnh hưởng lớn từ Thất thảo tập của thi sĩ Masaoka Shiki (1867-1902)- một người bạn thân thiết học Khoa tiếng Nhật cùng trường, người sau này được đánh giá là một trong tứ trụ haiku Nhật Bản ; ông bắt đầu sáng tác những bài thơ bằng chữ Hán (kanshi, Hán thi) theo thể haiku và lần đầu tiên dùng biệt hiệu Sōseki, một biệt hiệu thể hiện tâm nguyện thay đổi mạnh mẽ thực tại.
Những năm đầu tiên của thế kỷ 20, trong khoảng thời gian từ 1900 đến 1903, Natsume Sōseki du học ở London. Năm 1904 Sōseki trở về nước và được nhận vào làm Giáo sư Khoa văn Trường Đại học Đế quốc Tōkyo. Theo lời khuyên của Takahama Kyoshi, Sōseki bắt đầu tham gia viết bài cho tạp chí Sankai. Tác phẩm Tôi là con mèo (Wagahai wa neko de aru, 1905-1906) của Natsume Sōseki đăng dài kỳ trên tạp chí này đã tạo dựng tên tuổi cho ông. Cũng trong những năm này, Sōseki lần lượt cho ra mắt các truyện ngắn và truyện vừa như Tháp London (Rondonto, 1905), Ký sự Cairo, Bảo tàng Carain (Karain Hakubutsukan, 1905), Chiếc mộc hư ảnh, rồi Gối cỏ (Kusamakura, 1906). Đặc biệt tác phẩm Cậu ấm (Botchan, 1908) đã mang đến cho Sōseki danh tiếng rực rỡ. Thành công trên văn đàn giúp Sōseki quy tụ xung quanh mình được nhiều đệ tử và tạo dựng Trường phái Sōseki.
Năm 1907, Sōseki vào làm việc cho nhật báo Asahi Simbun, một trong những báo quan trọng nhất của Tokyo. Sau truyện Hoa mào gà, hầu hết các tác phẩm sau đó của Sōseki đều in trên tờ Asahi Simbun.
Từ năm 1908, Natsume Sōseki bị tái phát bệnh thần kinh ông mắc phải từ thời kỳ còn du học ở London, thêm vào đó ông còn bị những cơn đau dạ dày triền miên hành hạ. Tuy vậy Sōseki vẫn tiếp tục viết không ngừng nghỉ trong nỗ lực chạy đua với tử thần và lần lượt những tác phẩm xuất sắc nảy sinh từ mỹ cảm truyền thống yojo (dư tình) và mono no aware (bi cảm, cảm xúc xao xuyến trước những bi ai não lòng của sự vật) như: Cánh cửa (Mon, 1910), Người đi đường (Kōjin, 1913), Trái tim (Kokoro, 1914), Cỏ ven đường (Michikusha, 1915).
Ngày 9 tháng 12 năm 1916, Natsume Sōseki qua đời vì bị thủng dạ dày trong khi vẫn đang viết dở dang một trong những tác phẩm lớn nhất đời ông, cuốn Sáng tối (Meian )
Thành tựu nghệ thuậtLà người vừa say mê nền văn hóa, văn học cổ điển Nhật Bản, thể thơ haiku, vừa thành thạo văn chương Anh, Natsume Sōseki đại diện cho một thế hệ những nhà văn Nhật Bản sinh ra và trưởng thành trong bối cảnh sự đối đầu văn hóa Đông Tây đang len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội Nhật Bản. Được hấp thụ cả nền giáo dục Tokugawa cổ xưa và cả văn chương Tây phương hiện đại, những nhà văn của thế hệ này như Natsume Sōseki, Nagai Kafū (1879-1959), Tanizaki Junichirō (1886-1965), Mori Ōgai (1862-1922), Arishima Ikuma (1882-1974), Kinoshita Mokutarō (1885-1945), Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) v.v. nhờ tài năng sáng chói đã vượt lên trên những hỗn loạn của hoàn cảnh giao thời để sáng tạo được những sản phẩm văn hóa mang âm hưởng của thời đại.
Cùng Mori Ōgai và Masaoka Shiki, Natsume Sōseki cũng là nhà văn tiên phong trong phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa tự nhiên (shizeshugi) Nhật Bản, một khuynh hướng quy tụ những cây bút trẻ địa phương sáng tác theo phong cách thông tục thuần túy (genbun itchi) đang ở giai đoạn suy thoái, bằng nỗ lực sáng tạo những tác phẩm văn chương "chan chứa cảm tình khiến người đọc phải bồi hồi xúc động, lưu luyến khó quên, hoặc nói cách khác, đọc một lần rồi thì lời văn nằm lại mãi trong lòng mọi người", theo phái tâm lý cao sang Dư dụ phái (yoyūha). Di sản sáng tác của Sōseki rất đồ sộ, đa dạng và đặc sắc bao gồm nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn kỳ ảo, thơ haiku và các tiểu luận văn chương: kiệt tác châm biếm, đả kích sự lố lăng của thời đại: Tôi là con mèo (Wagahai wa neko de aru, 1905-1906) với hình tượng một con mèo nằm lắng nghe một cách chăm chú các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng của giáo sư Kusami, thực chất là một thảo luận về triết học và nghệ thuật; tiểu thuyết: Cậu ấm (Botchan, 1908)kể về một giáo viên trung học vụng về trước sự thay đổi của thời cuộc, là một trong những cuốn sách nhiều độc giả nhất mọi thời đại và hiện nay vẫn còn bán rất chạy. Tác phẩm Cỏ ngu mỹ nhân (Gubujinsō, 1908) gây ấn tượng sâu lắng cho độc giả với phong cách văn chương rất nhẹ nhàng, duyên dáng; và Tam Tứ Lang (Sanshirō, 1908) viết về nhân vật cùng tên, thể hiện chân dung toàn hảo nhất về lớp trẻ Nhật Bản trong giai đoạn giao thời.
Ở những tiểu thuyết và truyện ngắn về sau, Sōseki nhấn mạnh đặc biệt yếu tố xúc cảm trong sáng tạo nghệ thuật. Lần lượt nhiều tiểu thuyết tâm lý ra đời với những cuộc tình tay ba là đề tài chủ đạo, như: Cánh cửa (Mon, 1910), Người đi đường (Kōjin, 1912-1913), Trái tim (Kokoro, 1914), tiểu thuyết nửa tự truyện Cỏ ven đường (Michikusa, 1915) và tác phẩm còn dang dở: Sáng tối (Meian) mà chỉ riêng những phần đã viết cũng được đánh giá là tác phẩm hay nhất của Sōseki và là tiểu thuyết tâm lý Nhật Bản hay nhất từng được viết ra. Những tác phẩm này, với phong cách đi từ trang nhã, hoa mỹ và lộng lẫy nhất tới giản dị và thông tục một cách trong sáng, thể hiện một cách trữ tình tình yêu của lớp trẻ đương thời.
Trên lĩnh vực lý luận văn học, phong cách Natsume Sōseki điển hình cho sự hòa trộn tri thức lý luận Đông Tây bằng việc dùng kiến thức văn học Anh để tạo dựng lý thuyết văn chương cho chính mình và những đồ đệ theo trường phái mà ông khởi xướng. Những tác phẩm lý luận Văn học luận (Bungakuron, 1907), Văn học bình luận (Bungaku hyoron, 1909), tiểu luận Kỷ nguyên ánh sáng của nước Nhật Bản hiện đại (Gendai Nihon no kaida, 1911), Chủ nghĩa cá nhân của tôi (Watashi no kojinshugi, 1915) “tỏ rõ nỗ lực phi thường của ông trong việc đi tìm bản chất của văn học”. Lý luận văn chương của ông thể hiện dưới những phương diện: xem xét quan hệ cuộc sống và những loại hình nghệ thuật, sự nếm trải và đánh giá của nghệ sĩ, các phẩm chất chân-thiện-mỹ trong các hình tượng nghệ thuật, phương thức để sáng tác tiểu thuyết, và tính giáo dục của nghệ thuật. Trong " Văn học luận ", một cuốn sách được đánh giá là tác phẩm phê bình văn học có tính chất tổng hợp và hệ thống đầu tiên ở Nhật Bản hiện đại, Natsume Sōseki cho rằng văn học có hai yếu tố: tri giác và cảm xúc. Tri giác mà không cảm xúc thì là tri giác trong nhận thức khoa học, cảm xúc mà thiếu tri giác thì đó chỉ là tiền-văn chương. Đây là một nhận định tuyên chiến với lý thuyết của chủ nghĩa tự nhiên vốn chủ trương viết tự thuật bằng phong cách thông tục, hầu như thiếu dấu ấn tư tưởng và tình cảm của các tác giả. Tác phẩm Văn học bình luận của Natsume Sōseki lại thể hiện một nhãn quan đặc biệt với văn học nước ngoài. Thông qua việc phân tích lịch sử văn chương Anh thế kỷ 18 trong tác phẩm này, Sōseki nhấn mạnh sự khách quan và cần thiết phải có những chuẩn mực riêng đối với người Nhật để phán xét, đánh giá văn chương ngoại quốc. Những luận điểm này đã đi trước thời đại và phải rất lâu sau khi Natsume Sōseki mất, trải qua gần trọn thế kỷ 20 với khuynh hướng xã hội học dung tục trong nghiên cứu văn học tại nhiều quốc gia, rất nhiều nhà nghiên cứu mới chứng nghiệm được một điều rằng cần thiết phải hòa mình vào nền văn học mà mình muốn nghiên cứu, tìm hiểu, thay vì phán xét nó từ bên ngoài bằng nhãn quan đạo đức tiếp nhận từ nền văn học, văn hóa của dân tộc mình.