Dịch giả: Bùi Thị Loan
Chương 9

     ng chủ là người bị rỗ. Trước Duy tân, người bị rỗ mặt là phổ biến. Nhưng ở thời Nhật Anh thân thiện này nhìn những cái mặt rỗ thấy lạc hậu thế nào ấy. Số người rỗ đang giảm dần theo tỷ lệ nghịch với tăng dân số. Vì vậy, trong tương lai không xa, có thể là cái mặt rỗ sẽ không còn để lại dấu vết nữa. Kết luận này đã được đưa ra dựa trên kết quả thống kê y học được tính toán rất kỹ. Đây là một luận thuyết tuyệt vời mà dù là mèo tôi cũng không mảy may nghi ngờ gì cả. Hiện nay, không rõ là có bao nhiêu người rỗ mặt đang sống trên trái đất này, nhưng nếu chỉ tính riêng trong khu vực tôi có tiếp xúc thì thấy: mèo không có con nào, còn người thì chỉ có một, đó là ông chủ. Thật tội nghiệp quá!
Mỗi khi nhìn mặt ông chủ, tôi vẫn thường nghĩ sao mà ông lại có thể ngang nhiên mang một cái mặt kỳ lạ như vậy, hít thở bầu không khí của thế kỷ 20 này được nhỉ? Ngày xưa thì có thể cho như thế là oai đấy. Nhung ngày nay, khi tất cả những nốt rỗ đều đã bị ra lệnh lui xuống cánh tay rồi[175], mà những nốt rỗ ở đây vẫn còn ngang nhiên chễm chệ trên mũi, trên má như vậy thì không đáng tự hào tí nào. Không những thế, mà ngược lại, có thể nói, nó còn ảnh hưởng đến thể diện của cái mặt rỗ nữa. Nếu được thì nên xóa bỏ ngay lập tức những nốt rỗ ấy đi là hơn.
Bản thân những nốt rỗ, chắc là chúng cũng thấy tủi thân, bơ vơ lạc lõng. Ấy thế mà, mạnh ai nấy được, chúng ngang ngược chiếm lĩnh toàn bộ cái mặt dường như với ý chí thề quyết xoay chuyển tình thế, bắt mặt trời sắp lặn phải quay lại giữa trưa chăng? Nếu đúng như vậy thì dứt khoát không thể coi thường những nốt rỗ này được. Có thể phải coi đó là một quần thể hang hốc vĩnh viễn, không suy suyển trước mọi thế tục ồ ạt tràn qua, là những cái lồi lõm đáng giá để chúng ta kính nể đấy. Chỉ có điều, có một điểm yếu là trông hơi bẩn.
Khi ông chủ còn bé, ở Ushigome, trên phố Yanabushi có một vị lang y nổi tiếng tên là Asada Sohaku. Nghe nói, ông già này mỗi khi đi thăm bệnh nhân, bao giờ cũng lù lù trên võng cáng. Nhưng sau khi Sohacku qua đời, đến thời người con nuôi kế nghiệp thì võng cáng từ lúc nào đã được thay thế bằng xe tay rồi. Vậy thì, nếu khi người con nuôi này chết mà con ông ta kế nghiệp, thì chắc vị thuốc cát căn (rễ sắn) sẽ được thay thế bằng viên Antipyrine chăng? Việc ngồi trên cáng dạo khắp Tokyo như vậy thì ngay ở thời cụ Sohaku đã thấy là khó coi rồi. Thản nhiên làm được như vậy, có chăng chỉ những người cổ hủ đã chết, những con lợn bị chất trên tàu hỏa và cụ Sohaku mà thôi. Về sự lỗi thời thì những nốt rỗ của ông chủ có thể cũng cùng dạng với cái cáng của cụ Sohaku. Đứng ngoài nhìn vào chỉ thấy tội nghiệp, đáng thương. Thế mà, là một người cũng ngang bướng chẳng kém gì ông thầy lang kia, ông chủ vẫn ngày ngày lên lớp dạy reader, ngang nhiên trưng bày trước thiên hạ những nốt rỗ “cô thành lạc nhật” (buồn tủi cô đơn) này.
Đứng trên bục giảng với những kỷ niệm của thế kỷ trước còn lưu khắc đầy mặt thế này, chắc chắn ngoài những bài học tập bình thường, ông ta còn truyền đạt cho học sinh một bài giáo huấn vĩ đại nữa. Hơn là lật lại vấn đề “khỉ có tay”, ông ta không cần phải dụng công, cứ tự nhiên như nhiên mà thuyết trình được một vấn đề lớn, đó là “ảnh hưởng của những nốt rỗ với toàn thể bộ mặt” một cách rất dễ dàng. Không cần dùng lời nói, cứ thế ông ta đã cho học sinh những câu trả lời rồi. Nếu không có một người như ông chủ này làm giáo viên, thì học sinh muốn nghiên cứu vấn đề này, từ sáng sớm phải chạy đến các thư viện hay viện bảo tàng, sẽ rất vất vả khó khăn, chẳng khác gì phải hình dung ra người Ai Cập qua cái xác ướp của ông vậy. Xét về điểm này thì thấy, từ trong tăm tối của cõi u minh, những nốt rỗ của ông cũng có phần đóng góp kỳ diệu cho công đức đấy. Tuy vậy, không phải vì để làm công đức mà ông chủ đã cấy đầy lên mặt mình những nốt sởi như vậy đâu. Đây chỉ là do chúng tự mọc lên thôi. Thật là tội nghiệp. Lúc đầu cứ tưởng nó chỉ mọc ở cánh tay, ai ngờ từ lúc nào nó đã lan lên mặt. Lúc đó ông là trẻ con nên không có vấn đề xấu đẹp như bây giờ, chỉ thấy ngứa là gãi khắp mặt thôi. Thế là, giống như núi lửa bốc cháy, nham thạch phun ra đầy mặt, làm tan tành bộ mặt do cha mẹ sinh ra. Thỉnh thoảng ông vẫn nói với vợ là khi chưa bị đậu mùa ông đẹp như ngọc. Thậm chí ông còn tự hào mình đẹp như tượng Phật Quan m ở chùa Asakusa, tới mức những người phương Tây đi qua phải ngoái nhìn lại. Thế kia đấy! Có thể là như vậy. Nhưng đáng tiếc, điều này không có ai làm chứng cả.
Dù là công đức, là bài học hay là cái gì gì, nhưng bẩn thì vẫn là bẩn. Từ khi lớn lên, biết ra rồi thì ông chủ rất bận tâm về những nốt rỗ, ông tìm mọi cách để loại bỏ cái hình thù xấu xí này đi. Nhưng khác với cái cáng của cụ Sohaku, đây không phải là thứ nói là ghét mà có thể vứt bỏ ngay đi được. Cho nên bây giờ nó vẫn tồn tại. Dường như ít nhiều bận tâm đến sự tồn tại này nên mỗi khi đi đâu, ông chủ thường có thói quen để ý, tính toán về những cái mặt rỗ. Hôm nay bao nhiêu người rỗ? Là đàn ông hay đàn bà? Gặp ở chỗ nào? Phố Ogawa hay công viên Ueno? Tất thảy những cái đó ông đều ghi vào nhật ký. Ông tin chắc rằng tri thức về mặt rỗ thì ông quyết không thua ai. Đến nỗi, hôm vừa rồi có một người bạn của ông mới đi châu u về, đến chơi, ông đã hỏi “này cậu, ở châu u có ai rỗ mặt không?”. Ông bạn đó ngoẹo cổ ngẫm nghĩ mãi rồi bảo “ừ nhỉ, có lẽ không có mấy nhỉ”. Nghe nói thế, ông chủ hỏi lại cho chắc chắn là “không có mấy có nghĩa là vẫn có phải không?”. Ông bạn mặt tỉnh bơ trả lời “có thì cũng có, nhưng chỉ bọn ăn mày hay đứng đường chứ người có học thì không.” Nghe thế ông chủ bảo “thế à? Khác với Nhật Bản nhỉ”.
Do ý kiến của nhà triết học mà ông chủ gác lại chuyên cãi cọ với Lạc vân quán. Sau đó ông ở lỳ trong phòng sách, nghĩ ngợi gì lung lắm. Có thể ông định thực hiện lời khuyên, ngồi tĩnh lặng để luyện cho tinh thần bớt linh hoạt quá chăng? Nhưng vốn dĩ ông là người yếu đuối mà lại chỉ bó tay một cách tối tăm như vậy thì nhất định không thể mang lại điều gì tốt đẹp được. Tôi biết là làm như vậy thì thà mang những quyển sách tiếng Anh đến hiệu cầm đồ, cầm lấy một ít tiền mà đi học hát với mấy cô geisha còn tốt hơn nhiều. Nhưng một người hâm như ông này thì nhất định chẳng bao giờ lại nghe theo lời khuyên của mèo đâu, cho nên tôi mặc xác ông, năm sáu ngày tôi không thèm đến gần.
Hôm nay vừa đúng là ngày thứ bảy, kể từ hôm đó. Trong các nhà Thiền đạo, có những người ngồi thiền với khí thế rất mãnh liệt, quyết tâm sẽ đạt được sự đại tỉnh ngộ chỉ trong bảy ngày. Vì vậy, tôi lừ lừ đi từ thềm hành lang đến phòng sách, quan sát động tĩnh trong phòng xem ông chủ của mình ra sao, đã chết hay còn sống hay đã kết thúc thế nào rồi?
Phòng sách rộng sáu chiếu, hướng nam, có một cái bàn lớn đặt ở chỗ có ánh nắng chiếu vào. Nếu chỉ nói là cái bàn lớn thì không thể biết nó là thế nào. Đây là cái bàn có chiều dài 6 thước (1,8 m) rộng khoảng 3 thước 8 (1,1 m) và cao cũng độ chừng ấy. Tất nhiên nó không phải là thứ được bán sẵn. Nó là sản vật hiếm có, được đặt làm ở cửa hàng đồ gỗ gần nhà, vừa làm bàn viết vừa làm giường ngủ. Tại sao lại nghĩ ra cái bàn lớn như vậy? Tại sao lại có ý định ngủ trên cái bàn như vậy? Điều này tôi chưa hỏi đương sự nên hoàn toàn không thể biết. Có thể chỉ là do một ý nghĩ thoáng qua mà rồi phải gánh chịu một cái của tội nợ như vậy cũng nên? Thảng hoặc, có thể vì một loại bệnh thần kinh nào đó làm bản thân đương sự liên tưởng đến hai quan niệm hoàn toàn xa lạ đã nhìn thấy, rồi tùy tiện ghép cái bàn vào cái giường như vậy cũng nên. Dẫu sao thì cũng chỉ biết rằng đó là một suy nghĩ rất kỳ quặc. Khuyết điểm của cái bàn này là ở chỗ nó chỉ kỳ quặc thôi chứ không có tác dụng gì cả. Trước đây, đã có lần tôi nhìn thấy ông chủ ngủ trưa trên đó, khi trở mình ngã lăn xuống hành lang. Từ đó trở đi, nó thôi không được kiêm giường ngủ nữa.
Trước bàn có một chiếc đệm ngồi bằng vải dạ mỏng, có khoảng ba lỗ thủng, vết cháy của tàn thuốc lá. Bông nhồi trong ruột đệm lộ ra, trông hơi đen đen. Người đang ngồi tĩnh tọa trên chiếc đệm này, mặt quay về phía kia là ông chủ. Chiếc thắt lưng bẩn, màu cháo lòng buộc thắt nút, hai đầu buông thõng xuống tận bàn chân. Mấy hôm trước, có lần tôi đã cào cào vào cái đầu dây này và bị đánh bốp một cái vào đầu. Đó là cái dây chẳng nên đụng đến làm gì.
Vẫn đang suy nghĩ à? Người ta đã ví “suy nghĩ vớ vẩn thì…”[176] mà lại. Tôi nghĩ thế và từ phía sau nhìn vào, thấy trên bàn có cái gì sáng lấp lánh. Tự nhiên tôi chớp mắt hai ba cái, nghĩ “quái lạ!” và cố chịu đựng cái chói, nhìn chằm chằm vào cái vật sáng chói đó. Tôi hiểu ra cái ánh sáng này phát ra từ cái gương đang động cựa trên bàn. Nhưng tại sao ông chủ lại chiếu gương ở trong phòng sách để làm gì vậy? Rõ ràng, gương là chỉ để dùng trong nhà tắm. Thực ra, sáng nay tôi đã nhìn thấy cái gương này ở trong nhà tắm. Trong nhà ông chủ, cái gương này không thể có cái thứ hai ngoài nó được. Sáng nào rửa mặt xong ông chủ cũng dùng chiếc gương này để chải đầu, rẽ ngôi. Có thể sẽ có người hỏi một người như ông chủ này mà cũng rẽ ngôi, chải đầu ư? Thực ra, những cái khác thì ông không để ý, nhưng riêng mỗi cái đầu thì ông rất cẩn thận. Từ khi tôi đến cái nhà này tới nay, dù nóng nực thế nào ông cũng không cắt tóc ngắn nửa phân mà bao giờ cũng để tóc dài chừng 6 cm, rẽ ngôi bên trái hoặc chải hất về bên phải. Có thể đây cũng là một biểu hiện của bệnh thần kinh. Kiểu rẽ tóc điệu bộ này chẳng cân xứng với cái bàn. Tôi nghĩ vậy, nhưng thấy nó chẳng hại đến ai nên không nói gì. Bản thân ông chủ cũng rất kiêu hãnh.
Hãy bỏ qua chuyện mốt đầu tóc sang một bên, chuyện tại sao ông chủ để tóc dài thì lại có nguyên nhân của nó. Nghe nói, những nốt rỗ của ông chủ không những chỉ xâm chiếm trên mặt mà từ xưa nó đã ăn lên đến đỉnh đầu. Vì vậy nếu cắt ngắn kiểu nửa phân hay 3/10 phân như người khác thì dưới chân tóc sẽ lộ ra hàng chục nốt rỗ, có cố xóa, cố ấn đến đâu cũng không làm mất được những lỗ này. Trông thì có vẻ thơ mộng như những con đom đóm thả trên đồng hoang đấy, nhưng tất nhiên bà vợ không hài lòng. Nếu chỉ cần để tóc dài là che khuất được thì không có lý gì tự mình lại đi phơi bày cái dở của mình ra. Thậm chí, nếu được, còn muốn có lông mọc khắp mặt để ngầm giải quyết những nốt rỗ ở đó nữa kìa. Cho nên không cần phải bỏ tiền ra để cắt tóc mà khoe tôi bị đậu mùa ăn vào tận xương sọ đây này. Đó là lý do vì sao ông chủ để tóc dài, và tóc dài là lý do vì sao ông chải đầu rẽ ngôi. Lý do đó làm ông soi gương và vì cái gương này ở trong nhà tắm nên như vậy thì chỉ có một cái gương này thôi. Sự thật là như vậy.
Một cái gương vốn phải ở trong nhà tắm, lại là cái gương duy nhất mà lại ở trong phòng sách thì nhất định, một là nó có bệnh mộng du, hai là ông chủ đã đem nó đến đây thôi. Nếu ông chủ mang đến thì mang đến để làm gì? Hay có thể đó là một dụng cụ cần thiết cho cái môn tu luyện tiêu cực kia chăng. Nghe nói, ngày xưa có một học giả muốn học hỏi cái gì đó, đã tìm đến một nhà sư trong lúc ông này đang phanh áo, mài một hòn ngói. Học giả hỏi ngài đang làm gì vậy, nhà sư bảo tôi đang cố mài để làm một cái gương. Nghe nói thế, học giả rất ngạc nhiên bảo dù có là một bậc danh tăng đến mấy thì cũng không thể mài ngói thành gương được. Nhà sư cười ha hả, mắng “à, thế hả, thế thì thôi vậy. Những kẻ đọc bao nhiêu sách mà cũng không biết đạo thì cũng là những kẻ như vậy chứ gì?”. Có lẽ ông chủ cũng đã nghe lỏm được chuyện này nên mang chiếc gương từ phòng tắm sang đây để hí hửng múa may gì chăng?! Thật gay to rồi. Tôi lặng lẽ nhìn xem thế nào.
Ông chủ thì không biết gì, cứ ra sức ngắm vào cái gương quý hiếm duy nhất. Gương vốn là cái thứ ghê sợ. Nghe nói, ban đêm mà muốn soi gương một mình trong phòng có thắp nến thì phải dũng cảm lắm. Khi lần đầu tiên tôi bị các tiểu thư nhà này giơ gương vào mặt, tôi đã tá hỏa chạy đến ba vòng xung quanh nhà. Dù là ban ngày mà cứ nhìn vào gương chằm chằm như ông chủ thế này thì nhất định là tự mình sợ cái mặt của mình rồi. Cái mặt thậm chí chỉ nhìn không thôi, cũng chẳng có gì gọi là dễ coi. Một lúc sau, ông nói một mình “ừ, đúng là mặt trông đến bẩn”. Tự mình nhận cái xấu của mình như vậy thì cũng đáng nể đấy. Nhìn dáng vẻ thì đúng là trò điên rồ nhưng nói năng lại rất chân lý. Kiểu này thì thêm một bước nữa sẽ biết sợ cái xấu, cái ác của chính mình đây. Con người, nếu không thấm thía đến tận xương tủy một sự thật là bản thân mình chính là một ác đảng đáng sợ thì không thể nói đó là người từng trải. Không phải là người từng trải thì không bao giờ giải thoát được. Đã đến bước này rồi thì có thể ông chủ sắp nói “chà, sợ quá” đây! Nhưng mãi không thấy nói gì cả.
Sau khi nói mặt bẩn rồi thì không hiểu nghĩ thế nào ông phùng má lên, rồi lấy tay vỗ hai ba lần vào cái má đó. Chả hiểu ông định làm phép làm chú gì với cái mặt này đây? Nghĩ kỹ thì thấy nó giống mặt cô hầu gái. Nhân tiện đây cũng xin giới thiệu một chút về cái mặt của cô sen này. Mặt cô rất phụng phịu. Vừa rồi có một người từ Anamori Inari mang đến làm quà một chiếc đèn lồng làm bằng da cá nóc. Mặt cô sen phình ra trông đúng như cái đèn đó. Vì mặt phùng dữ dội quá nên hai mắt biến mất. Hơn nữa, cái đèn lồng thì nó phồng tròn và đều tất cả, còn mặt cô sen vốn có nhiều góc cạnh nên phồng theo các góc cạnh, làm cho mặt cô giống chiếc đồng hồ sáu cạnh, bị hơi ẩm hành hạ vậy. Cô sen mà nghe thế này là lại cáu đây. Thôi, nói về cô thế thôi, bây giờ quay lại nói về ông chủ.
Ông ra sức phồng má, lấy tay vỗ vỗ vào má như tôi vừa nói, vừa vỗ vừa bảo “giá mà da căng thế này thì không nhìn rõ những nốt rỗ”. Bây giờ ông xoay mặt, soi một nửa mặt có ánh sáng vào gương rồi nói với vẻ thán phục “Thế này thì nhìn rất rõ. Đúng là có ánh sáng rọi thẳng vào thì trông phẳng phiu. Quái lại thật.” Thế rồi ông vươn tay phải ra thật dài, đưa cái gương ra xa hết mức, lặng lẽ ngắm nghía rất nhiệt thành. Và ông nói cái điều như đã ngộ ra: “Nếu cách xa bằng này thì không đến nỗi. Đúng là gần quá thì hỏng. Không phải chỉ cái mặt mà cái gì cũng vậy.” Sau đó, ông bất ngờ xoay ngang cái gương, lấy sống mũi làm trung tâm, dồn nháo nhạo tất ráo cả mắt, trán, lông mày… vào đó. Tôi đang nghĩ chắc là một dung mạo chẳng lý thú gì đây thì dường như bản thân đương sự cũng đã nhận ra, tự nói “không, thế này không được” rồi dừng lại ngay lập tức.
“Tại sao lại có bộ mặt khốn khổ như thế này nhỉ?”. Ông có vẻ khó hiểu, kéo chiếc gương ra xa, cách sống mũi khoảng 10 cm, lấy ngón tay trỏ bên phải xoa cánh mũi rồi ấn mạnh đầu ngón tay đó lên tờ giấy thấm đặt trên bàn. Chất nhờn thấm ra từ mũi, nổi thành vệt trên tờ giấy. Ông làm đủ kiểu rồi sau đó chuyển ngón tay ấy sang mắt phải, lật rất nhanh mí mắt dưới làm betkanko[177] một cách rất ngoạn mục. Không hiểu ông đang nghiên cứu nốt rỗ hay đang lườm nhau với cái gương đây? Việc làm của một người nhiều tính khí như ông chủ thì có thể có nhiều cái sẽ xảy ra chứ không phải chỉ có thế. Nếu thiện ý mà giải thích theo kiểu “ông nói gà, bà nói vịt” thì cũng có thể ông đang diễn các trò với cái gương để hiểu bản tính của mình chăng? Nghiên cứu tất cả mọi người nghĩa là nghiên cứu mình. Trời đất, núi sông, mặt trời hay trăng sao gì, tất cả chẳng qua cũng là một cái tên khác của bản thân mình mà thôi. Nếu bỏ qua mình mà đi nghiên cứu người khác thì sẽ chẳng tìm ra một ai cả. Con người ta, nếu có thể nhảy sang một cái gì khác ngoài bản thân mình thì trong lúc đang nhảy đó, bản thân mình đã mất đi. Vả lại, việc nghiên cứu bản thân mình thì ngoài mình ra không ai có thể làm giúp cả. Đó là một việc dẫu có muốn làm giúp, muốn được làm giúp cũng không thể được. Chính vì vậy, xưa nay các vị hào kiệt đều tự mình trở thành hào kiệt. Nếu nhờ người khác mà hiểu được mình thì người ta đã có thể nhờ người khác ăn thịt bò để mà đánh giá thịt đó cứng hay mềm. Sáng nghe thuyết pháp, tối nghe giảng đạo, đọc sách dưới đèn, ngoài sân… tất cả chẳng qua đều chỉ là cách tự mình tìm hiểu mình mà thôi. Trong pháp người ta thuyết, trong đạo người ta giảng, hay trong hàng đống sách vở mối mọt kia, không có lý do cho mình tồn tại. Có chăng, đó chỉ là bóng ma của mình thôi. Có điều, tùy trường hợp, có thể có bóng lại hơn không có cũng nên. Đuổi theo cái bóng, không nhất thiết là không có lúc bắt gặp cái bản thể – cái hình. Phần nhiều thì, đại để, cái bóng thường không tách rời cái hình. Với ý nghĩa này, nếu như ông chủ vặn vẹo với cái gương thì tương đối có thể nói chuyện được, hơn hẳn những loại học giả chỉ nuốt chửng Epictetus[178]. Cái gương như một dụng cụ nuôi dưỡng sự tự kiêu, đồng thời cũng tẩy rửa sự tự mãn. Nếu soi vào đó niềm vinh hoa phù phiếm thì không có gì xúi giục cái ngu bằng nó. Từ ngày xưa, hai phần ba những nguyên nhân dẫn đến việc tự làm hại mình, làm tổn thương người khác do quá kiêu ngạo là từ những trò múa may của cái gương này đây. Chắc người đầu tiên làm ra cái gương cũng ân hận lắm đấy. Vì đã phạm một tội ác ghê gớm, ngang với thời cách mạng Pháp, có một người bác sĩ tham của, đã phát minh ra cái máy chém cải tiến vậy.
Nhưng khi chính mình ngán ngẩm mình, khi bản thân đã tàn héo thì không có thuốc nào hiệu nghiệm bằng soi gương, xấu, tốt rõ ràng hết. Nhất định sẽ tỉnh ngộ ra rằng cái mặt thế này mà bấy lâu nay vẫn dám vênh vênh sống làm người cho đến hôm nay ư? Khi biết được như vậy là lúc đáng quý nhất trong đời người. Không có gì đáng kính nể bằng tự mình thừa nhận sự ngu xuẩn của mình. Trước sự ngu xuẩn tự giác này, tất cả những kẻ vĩ nhân đều phải cúi đầu mà tạ lỗi. Mặc dù người ấy ngang nhiên cười giễu bản thân mình, nhưng người khác nhìn vào thì thấy, sự ngang nhiên đó chính là sự cúi đầu tạ lỗi.
Ông chủ không phải là người thông minh đến độ biết soi gương để tỉnh ngộ cái ngu của mình đâu. Nhưng ông có thể nhận biết sòng phẳng dấu ấn mà bệnh đậu mùa đã ghi khắc trên mặt mình. Biết tự nhận cái xấu trên mặt mình là một nấc thang để tiến tới nhận biết cái xấu của lòng mình. Ông là người có thể tin cậy được đấy! Có lẽ đây là kết quả mà nhà triết học đã gieo vào cho ông chăng? Tôi suy nghĩ như vậy và quan sát ông, nhưng ông không hề biết. Sau khi làm akanbe[179] chán rồi ông bảo “có vẻ sưng nặng quá, đúng là viêm kết mạc mãn tính rồi”. Ông vừa nói vừa dụi thùn thụt ngón tay vào cái mí mắt sưng mọng. Có vẻ ngứa lắm đấy. Nhưng mắt đỏ như thế mà dụi thế này thì hỏng mất thôi. Chẳng bao lâu nữa, nhất định rồi cũng thối ra như mắt con cá hồng ướp muối cho mà xem. Cuối cùng ông mở mắt, soi vào gương thì quả thật tối om như mùa đông xứ bắc vậy. Mắt ông vốn dĩ bình thường đã chẳng sáng sủa gì, nói một cách phóng đại thì nó mù mờ đến nỗi lẫn lộn không thể phân biệt đâu là lòng trắng đâu là lòng đen. Dường như nhất quán với tinh thần mung lung, rối rắm của ông, mắt ông cũng phiêu diêu trong đáy hốc mắt, mãi mãi mập mập, mờ mờ.
Cái này, người thì bảo do ông bị ngộ độc từ khi còn trong bụng mẹ, người thì giải thích đó là hậu quả của bệnh đậu mùa. Lúc bé, nghe đâu đã tốn không biết bao nhiêu là sâu liễu với nhái bén, rồi sự chăm bẵm hết lòng của bà mẹ, nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Cho nên đến tận bây giờ mắt ông vẫn lơ mơ, mù mờ như khi mới đẻ. Theo tôi nghĩ bụng thì dứt khoát đây không phải vì thai bị ngộ độc cũng không phải vì đậu mùa. Sở dĩ mắt ông cứ lang thang, vất vưởng trong bi cảnh tối tăm, vẩn đục như thế này là vì đầu óc ông được cấu tạo từ thực chất không trong sáng, và kết quả là nó đã đạt tới tận cùng của sự tối tăm, ảm đạm. Cho nên kết quả này tự nhiên thể hiện trên cơ thể, khiến bà mẹ vì không biết mà lo lắng không cần thiết. Có khói thì biết là có lửa, con mắt đục chứng tỏ là ngu. Như vậy, xem ra mắt ông là biểu hiện của lòng ông, lòng đã có lỗ thủng như đồng tiền thời Thiên Bảo thì mắt cũng giống đồng tiền Thiên Bảo, đúng là chẳng có giá trị là bao.
Bây giờ ông bắt đầu xoắn bộ râu. Bộ râu của ông vốn thiếu lễ độ, sợi nào sợi ấy mặc sức mọc lung tung. Dù là giữa thời buổi chủ nghĩa cá nhân thịnh hành mà cứ ích kỷ, tự ý mọc khắp nơi thế này thì sự phiền hà của chủ nhân là rất đáng lo ngại. Ông chủ cũng nhận thấy điều này nên gần đây ông ra sức huấn luyện để sắp xếp chúng cho có hệ thống, ngăn nắp. Hiệu quả cho thấy lòng nhiệt thành đã không uổng phí, bộ dạng bộ râu gần đây đã hơi gọn ghẽ. Từ trước đến nay là râu mọc, nhưng gần đây thì đã có thể tự hào là mọc râu rồi. Được kết quả cổ vũ, lại lấy bộ râu của tôi làm mục tiêu hy vọng, không kể sớm tối, cứ ngơi tay là ông chủ lại huấn luyện bộ râu. Mục tiêu của ông là có một bộ râu dày, vểnh lên như nhà vua Đức. Do vậy, dù chân lông hướng lên hay hướng xuống ông cũng không quan tâm, cứ nắm lấy, lôi tuốt cho nó vểnh ngược lên. Bộ râu cũng bị gay go, phiền hà mà người sở hữu nó cũng đã nhiều lần bị đau. Nhưng đây là việc rèn luyện mà. Muốn hay không muốn thì cũng cứ vuốt lên. Kẻ ngoại đạo nhìn vào thấy trò này như một thú vui khó hiểu, chỉ có người trong cuộc mới biết được cái gì nó mang đến. Giống như thầy giáo uốn nắn bản tính học trò một cách vô ích, rồi tự hào hãy xem công lao của ta đây, việc này không có chút lý do nào cần phê phán cả.
Trong lúc ông chủ đang mang hết nhiệt tình huấn luyện bộ râu thì từ dưới bếp, cô sen, người có khuôn mặt nhiều góc cạnh, thò cái tay đỏ mọi khi vào phòng sách, bảo “thưa ông có bưu phẩm đây ạ”. Tay phải túm bộ râu, tay trái cầm gương, ông chủ cứ thế quay mặt lại. Nhìn thấy bộ râu vểnh ngược hình chữ bát, cô “lắm tính nết” chạy ngay xuống bếp, cười ha hả, ngả người vào cái vung nồi. Ông chủ thản nhiên như không. Ông chậm rãi bỏ gương xuống, cầm lấy bưu phẩm. Đầu tiên là một bản in, những con chữ xếp hàng nghiêm chỉnh. Đọc thì thấy nội dung là:
“Kính thưa…
Luôn luôn xin kính chúc quý vị nhiều phúc lộc.
Nhìn lại cuộc chiến tranh Nhật – Nga, với khí thế luôn luôn chiến đấu và chiến thắng, đã giành lại được hòa bình. Những tướng sĩ trung dũng nghĩa liệt của chúng ta hiện nay quá nửa đã cất vang khúc khải ca “muôn năm”, đó là niềm vui không gì sánh được của quốc dân đồng bào. Nghe theo lời chiêu dụ khai chiến[180], những tướng lĩnh, quân sĩ phụng sự Nghĩa dũng công[181] đã bao ngày chịu đựng gian khổ, chịu nóng rét nơi đất khách quê người xa xôi, một lòng chiến đấu, quyết hiến dâng thân mình cho tổ quốc. Đó là điều chúng ta phải ghi nhớ lâu dài, không bao giờ được quên. Và trong vòng tháng này, sự khải hoàn của quân sĩ hầu như sẽ hoàn thành. Do vậy, đại diện cho toàn thể nhân dân khu phố này, Hội chúng tôi sẽ tổ chức lễ chúc mừng lớn nhất sự chiến thắng trở về của trên một ngàn tướng sĩ viễn chinh của quân đội, tại khu phố này, vào ngày 25 tới, hòng bày tỏ một chút lòng biết ơn hết sức nhỏ mọn, nhiệt thành đón chào và úy lạo thân nhân gia đình các liệt sĩ. Vì vậy, nếu được vinh dự tiến hành một cách trọng thể buổi lễ này với sự tán thành, ủng hộ của quý vị thì đó là sự đẹp mặt cho Hội chúng tôi. Xin tha thiết mong quý vị hãy tán đồng và đóng góp tiền ủng hộ.
Xin kính chào.”
Người gửi thư này là một vị hoa tộc[182]. Ông chủ đọc xong lại cuộn bỏ vào phong bì, mặt tỉnh khô. Hình như ông không thích những cái “nghĩa viện” nghĩa vủng này. Trước đây, có lần vùng đông bắc bị mất mùa, ông đã đóng góp ủng hộ 2 hay 3 yên gì đó, rồi gặp ai ông cũng kêu là đã bị “mất” tiền nghĩa viện… Tiền ủng hộ là tự mình đóng góp chứ có phải bị ai lấy đâu. Không bị ăn trộm mà kêu là bị “mất” thì nghe không thỏa đáng. Vậy mà ông cứ thấy như bị kẻ trộm móc túi. Ông chủ này, dù là hoan nghênh quân đội chiến thắng trở về, dù là sự kêu gọi của vị quý tộc, nếu là chuyện bắt buộc thì không biết thế nào, chứ với cái tờ giấy in như thế này mà bảo đưa tiền ra thì chắc chắn ông không thuộc loại người ấy. Ai chứ ông chủ này thì thuộc loại người, trước khi hoan nghênh quân đội, ông muốn hãy hoan nghênh mình đã. Chỉ sau khi hoan nghênh mình rồi thì đại để mới có thể hoan nghênh cái gì đó. Còn trong khi mình cũng khó khăn, việc hoan nghênh cứ mặc kệ vị quý tộc.
Ông cầm lên bức thư thứ hai, nói “chà, cái này cũng lại bản in”:
“Mùa thu đã thật sự lạnh. Chân thành cầu chúc quý gia đình ngày càng long thịnh. Thư này xin được thưa rằng, về trường học của chúng tôi, như quý vị đã biết, từ ba năm trước, vì hai, ba kẻ dã tâm mà đã không tiến triển được, có lúc sự cản trở đó đã lên đến tột đỉnh. Nhưng tôi nghĩ rằng đây là do tôi, Shinsaku này còn thiếu nỗ lực. Tôi đã tự trách mình, và với kết quả lao tâm khổ não, nằm gai nếm mật, cuối cùng tự mình đã nghĩ ra được phương pháp kiếm được kinh phí xây dựng học xá mới, đúng theo lý tưởng của tôi. Cái đó không có gì khác là về việc xuất bản cuốn sách có tên là “Yếu lĩnh kỹ thuật của bí quyết may mặc” mà tôi gửi kèm trong thư đây… Cuốn sách này, dựa theo nguyên tắc nguyên lý công nghệ mà Shinsaku tôi đã nhiều năm vất vả nghiên cứu, được trình bày bằng tâm huyết, quả đúng như xé thịt vắt lấy máu. Vì vậy mong rằng các gia đình nói chung tìm mua cuốn sách này để tăng thêm một chút lợi nhuận cho chi phí làm sách, một mặt giúp phát triển công việc này (việc may mặc), đồng thời là mong muốn tích lũy một chút tiền lãi đập vào khoản tiền xây dựng học xá. Do vậy, quả thật là xin tha lỗi mà tha thiết mong rằng với ý nghĩa đóng góp cho phí xây dựng học xá, quý vị hãy thể hiện sự ủng hộ bằng cách đặt mua một phần “Yếu lĩnh kỹ thuật bí quyết” gửi kèm thư này này cho người giúp việc của gia đình.
Xin mạn phép kính thư.
Đại học viện tối cao đẳng may mặc nữ sinh Đại Nhật Bản.
Hiệu trưởng Nuida Shinsaku cửu bái.”
Ông lạnh lùng vo viên bức thư trịnh trọng này, ném tọt vào thùng rác. Sự chào hỏi kính cẩn cũng như sự “nằm gai nếm mật chẳng dễ gì có được” của cậu Shinsaku này cũng chẳng ăn thua gì, thật tội nghiệp.
Đến bức thư thứ ba. Bức này toát lên một sắc thái làm thay đổi hoàn toàn tình hình hiện tại. Phong bì có vân hoa trắng, hồng, rộn ràng như biển hiệu hàng kẹo que. Chính giữa phong bì ghi “Kính gửi thầy Chinno Kushami”, nét chữ đậm, kiểu chữ bát phân[183], bên trong không dám chắc có “ông Thái”[184] hay không nhưng riêng bề ngoài thì rất hoàn hảo.
“Nếu lấy mình mà chế ngự trời đất thì phải uống một ngụm cạn hết nước Tây giang. Nếu lấy trời đất mà chế ngự mình thì mình chỉ là hạt bụi trên bờ ruộng. Đất trời và ta quan hệ với nhau thế nào? Người đầu tiên ăn hải sâm, ta phải kính trọng lòng dũng cảm đó. Kẻ lần đầu thưởng thức cá nóc, ta phả coi trọng dũng khí đó. Kẻ ăn được hải sâm như Shinran trở lại. Người thưởng thức được cá nóc trở thành Nichiren. Như thầy Kushami thì chỉ biết giấm tương trộn bí đao khô mà thôi. Cho đến nay, trong thiên hạ, tôi chưa thấy ai ăn bí đao khô trộn tương mà trở thành kẻ sĩ cả.
Bạn bè cũng cần bán mày.
Cha mẹ cũng cần bảo mày tao còn tao.
Người yêu cũng cần bỏ mày.
Phú quý vốn là cái khó tin cậy.
Tước lộc chỉ một sớm một chiều
Học vấn chất đầy trong đầu mày mọc rêu
Mày mong muốn gì?
Muốn gì ở đằng sau trời đất?
Thượng đế ư?
Thượng đế là thứ đồ chơi được bịa ra khi con người đầy đau khổ
Chỉ là một khối hôi thối, phân người cô đọng nhất thời mà thôi
Tin cái không đáng tin mà nghĩ là yên ổn
Kẻ say rượu lảm nhảm nói lăng nhăng
rồi liêu xiêu, lảo đảo bước dần đến mồ
Hết dầu thì đèn khắc tắt
Hết nghiệp rồi thì còn để lại cái gì?
Hỡi thầy Kushami
Xin mời thầy hãy uống chè đi…
Không coi người là người thì không có gì đáng sợ
Kẻ không coi người là người thì tại sao lại giận dữ cái thế giới đã không coi ta là ta?
Hình như kẻ vinh hoa quyền quý đắc chí về việc không coi người là người.
Chỉ có điều khi bị người khác không coi mình là mình thì mặt sưng mày xỉa. Đồ con lợn…
Khi mình không coi người là người, khi người khác không coi mình là mình thì những nhà bất bình từ trên trời rơi xuống đất một cách lên cơn.
Cái hoạt động mang tính chất lên cơn này được gọi là “cách mạng”
Cách mạng không phải là hành vi bắt nguồn từ nhà bất bình.
Đó là do những kẻ vinh hoa quyền quý thích thú sản sinh ra.
Ở Triều Tiên có nhiều nhân sâm mà sao thầy không uống?
Tại Sugamo
Thiên đạo công bình.
Tái bái[185]”
Cậu Shinsaku viết là “cửu bái” (chào chín lần). Cậu này chỉ viết đơn giản là “tái bái” (chào hai lần) thôi. Chỉ cần không yêu cầu đóng góp gì là đối xử xấc láo với mức “thất bái”[186] như vậy đấy.
Thư này không phải là thư kêu gọi đóng góp nhưng thay vì đó, nội dung rất khó hiểu. Cái này mà gửi cho tạp chí nào thì người ta cũng sẵn sàng vứt đi ngay vì giá trị của nó đấy. Nhưng với một người như ông chủ đây, chắc là đầu óc bị giằng xé tơi bời. Thế mà thấy ông cứ đọc đi đọc lại mãi. Chắc ông nghĩ bức thư này có thể có một ý nghĩa gì đó, và ông quyết tâm tìm hiểu cho bằng được chăng? Trong trời đất, có bao nhiêu cái ta không thể hiểu nổi, nhưng không có cái nào là không có ý nghĩa cả. Dù một bản văn khó hiểu đến mấy, nếu ta muốn tìm hiểu thì cũng có thể hiểu được một cách dễ hiểu. Ta sẽ dễ dàng hiểu được, vì sao có thể nói con người là ngu xuẩn, đồng thời cũng có thể nói con người là khôn ngoan. Không những thế, dù có gọi con người là chó, là lợn thì cũng chẳng có gì là quá đáng, không cần phải khổ vì nó. Bảo núi là thấp cũng chả sao. Bảo vũ trụ là hẹp cũng không có vấn đề gì. Bảo con quạ trắng, nàng Komachi là cô gái xấu, thầy Kushami là quân tử cũng không phải là không được. Vì vậy, cái bức thư vô nghĩa này, nếu gán cho nó một lý lẽ nào đó thì nó sẽ đầy ý nghĩa. Vả lại, với một người như ông chủ, một người đã từng tìm cách giải thích cho bằng được những tiếng Anh mà mình không biết, thì lại càng thích gán ý nghĩa cho nó lắm.
Với một người đã từng, khi học sinh hỏi tại sao ngày trời xấu cũng chào là Good morning thì suy nghĩ tới bảy ngày liền, đã mất ba ngày ba đêm để tìm câu trả lời khi học sinh hỏi tên Columbus tiếng Nhật là gì, thì những “bí đao khô trộn tương giấm là kẻ sĩ trong thiên hạ” hay “hãy ăn sâm Triều Tiên mà làm cách mạng”… sẽ tùy tiện mà toát lên mọi ý nghĩa tùy tiện của nó. Trong một lúc khá lâu, ông chủ dường như nuốt lấy những câu chữ khó hiểu kiểu good morning này, lẩm bẩm tán thưởng: “Đúng là ý nghĩa rất sâu xa. Chắc chắn đây phải là con người suy nghĩ cái gì cũng rất triết lý đây. Quả là một kiến thức thật tuyệt vời, tráng lệ!”. Chỉ qua lời lẽ thế cũng đủ biết cái ngu của ông. Nhưng nghĩ lại, trong đó cũng có một chút gì hay hay.
Ông chủ này có một cái tật là rất coi trọng bất cứ cái gì mà mình không biết. Nhưng không nhất thiết chỉ những người quá quắt như ông mới thế. Những cái mà mình không biết thường hàm chứa nhiều thứ mà mình không thể coi thường, làm nảy sinh tâm trạng cứng cỏi ở những chỗ không lường nổi ấy. Vì vậy, mặc cho những người phàm cứ đưa chuyện một cách hiểu biết về những cái mà họ chẳng hiểu biết gì, các học giả lại lý giải những cái mà họ đã biết rõ một cách “không thể hiểu”. Ai cũng biết, ở các trường đại học, có những người dạy những cái chẳng ai hiểu gì thì được đánh giá cao, còn ai dạy những cái có thể hiểu được thì không được hâm mộ lắm. Ông chủ kính phục bức thư này, không phải vì nó có nội dung rõ ràng dễ hiểu, mà ngược lại, vì khó mà nắm bắt được chủ ý của nó ở chỗ nào? Trong thư đột nhiên xuất hiện hải sâm rồi lại bất ngờ xuất hiện phân tươi. Cái lý do duy nhất khiến ông tôn kính bức thư này là vì ông hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Cái này cùng dạng với kiểu các Đạo gia tôn kính kinh Đạo đức, các Nho gia tôn kính kinh Dịch, các Thiền gia tôn kính Lâm tế lục vậy. Có điều, nếu nói là hoàn toàn không hiểu thì người ta không chịu, nên họ mới tùy tiện giải thích rồi làm bộ như là hiểu, thế thôi. Xưa nay, việc đề cao cái trò tự cho mình là hiểu biết những cái chẳng hiểu gì cả ấy, vốn dĩ vẫn là một khoái cảm mà. Ông chủ cung kính cuộn bức thư danh giá kiểu bát phân này, nhét lại vào phong bì rồi đặt lên bàn. Ông “thọc tay túi áo”, chìm vào cõi suy nghĩ mung lung.
Đúng lúc đó, ngoài cửa có tiếng gọi to “Xin lỗi xin phiền giúp…”. Tiếng thì đúng là tiếng Meitei rồi nhưng cái kiểu gọi cửa mà xin phép đàng hoàng thế này thì chẳng Meitei tí nào cả. Từ nãy ông chủ đã nghe thấy tiếng gọi nhưng cứ mặc kệ, không nhúc nhích. Việc ra mở cửa không phải là việc của ông chăng, nên ông nhất định không lên tiếng thưa. Cô sen thì lúc nãy vừa đi mua xà phòng chưa về, bà chủ đang dở tay nên kẻ đáng phải ra lúc này chỉ còn có tôi. Tôi thì việc ra tiếp khách tôi rất ngại. Thế là khách cởi giày, leo lên sàn, mở toang cửa, nhơn nhơn đi vào. Chủ thì ngang đằng chủ, khách thì trơ đằng khách. Tôi tưởng ông ta chỉ đi vào phòng khách, nhưng ông ta mở mấy lần cửa, tiến thẳng vào phòng sách.
– Này, không đùa đâu nhé, có khách đấy.
– Ồ, cậu à?
– Không phải “cậu à” đâu. Ở đây thì phải thưa lên hay lên tiếng nói cái gì mới phải chứ? Cứ như là nhà đi vắng hết, không có ai là thế nào?
– Ừ, tôi đang có điều phải suy nghĩ mà.
– Đang suy nghĩ thì cũng có thể nói được là “vào đi” hay cái gì đó chứ?
– Không phải là không thể nói được.
– Vậy thì giỏi gan lỳ nhỉ?
– Dạo này tôi đang tu luyện tinh thần mà.
– Hiếu sự quá thật. Tu luyện tinh thần mà không thể lên tiếng trả lời được thì khá gay đấy. Bình tĩnh đến mức này thì gay rồi. Thực ra, không phải tôi đến một mình đâu, tôi dẫn đến cho cậu một người khách cực kỳ đấy. Cậu ra gặp một chút đi.
– Cậu đưa ai đến đây?
– Ai cũng được, cứ ra gặp đi. Người đó cứ nhất định muốn gặp cậu.
– Ai vậy?
– Ai cũng được. Đứng dậy đi.
Ông chủ vẫn thọc tay trong bọc, đứng bật lên nói “lại định chơi nhau chứ gì?” rồi đi ra hành lang, vào phòng khách mà chẳng cần giữ ý tứ gì. Một ông già nghiêm trang đang điềm tĩnh ngồi chờ ngay chính diện sáu thước sàn phòng. Ông chủ vội rút tay ra khỏi bọc, ngồi phệt xuống cạnh tấm cửa lùa dán giấy Đường. Như vậy thì ông quay cùng hướng tây với ông khách nên hai người không thể chào nhau. Những người nệ cổ rất nghiêm khắc về lễ nghĩa. Người khách chỉ chỗ Tokonoma[187] giục ông chủ:
– Nào, xin mời ông ngồi vào chỗ kia đi.
Cho mãi đến vài năm gần đây, ông chủ vẫn nghĩ là ai muốn ngồi chỗ nào cũng được, nhưng sau đó ông được một người giảng giải cho biết ý nghĩa của bệ sàn, rằng đó vốn là chỗ ngồi dành cho người trên. Từ đó ông không bao giờ đến gần Tokonoma nữa. Hơn nữa, ông già không quen biết này lại trông rất khó tính nên càng không thể ngồi ở chỗ đó. Ngay cả chào hỏi ông cũng không biết chào hỏi cho ra hồn, ông chỉ cúi đầu, lặp lại đúng những gì người kia đã nói:
– Nào, xin mời cụ ngồi vào chỗ đó.
– Không, thế thì không thể nói chuyện được. Xin mời ông ngồi chỗ đó.
– Không, thế thì… xin mời cụ.
Ông cứ tùy tiện bắt chước lời lẽ của bên kia.
– Xin lỗi, ông khiêm tốn thế thì phiền quá. Làm thế tôi lại khó xử. Xin ông đừng ngại. Xin mời ông.
– Cụ khiêm tốn thế thì phiền quá… Xin mời cụ…
Mặt ông đỏ bừng, miệng thì lắp ba lắp bắp. Hình như việc tu luyện tinh thần chả có hiệu quả gì cả. Meitei đứng sau tấm cửa lùa, vừa cười vừa quan sát nhưng có lẽ thấy đã đủ, nên vừa đẩy mông ông chủ vừa cố tình can thiệp:
– Thôi, cậu ra đi, cứ bám lấy tấm cửa thế này thì tôi ngồi vào đâu. Không trù trừ nữa, ra chỗ trước kia đi.
Ông chủ đành phải lết ra phía trước.
– Này Kushami, đây là ông bác ở Shizuoka mà tôi vẫn nói với cậu đấy. Bác ạ, đây là anh Kushami.
– Ôi, rất vinh hạnh được gặp ông. Nghe nói Meitei luôn quấy quả ông nhiều. Tôi cũng vẫn mong có dịp lên đây, được hầu chuyện với ông thì may quá. Hôm nay nhân qua đây, tôi muốn đến chào ông luôn. Xin hân hạnh được làm quen với ông. Mong là từ nay về sau vẫn được ông biết đến.
Cụ già không ngừng tuôn ra những lời chào hỏi kiểu ngày xưa. Ông chủ vốn ít giao tiếp, ít nói, lại hầu như chưa bao giờ gặp người cổ như cụ già này nên ngay từ đầu đã ngượng ngập, lúng túng. Bây giờ bị nói ào ào như thế này thì những nhân sâm Triều Tiên, những phong bì kẹo bột đường đều quên hết, chỉ còn biết khổ sở, trả lời ấm ớ:
– Dạ, tôi… tôi cũng… rất muốn được gặp. Xin là được… mong cụ…
Nói xong, ông ngẩng đầu lên khỏi chiếu, thấy cụ già vẫn cúi rạp, ông hoảng hốt lại cúi gập đầu xuống chiếu. Cụ già ngẩng đầu lên, vừa lấy hơi vừa nói:
– Tôi ngày xưa vốn cũng có nhà ở gần đây, đã sống dưới chân Tướng quân bao nhiêu năm, nhưng rồi “trúc chẻ ngói tan” phải về vùng đó sống, từ đó đến nay hầu như không về đây. Hôm nay về, gần như không còn nhận ra đường nữa. Nếu mà không có Meitei dẫn cho thì chắc công chuyện cũng không làm được. Người ta vẫn nói “trải qua một cuộc bể dâu” mà! Từ khi đóng đô ở đó đã ba trăm năm, dòng họ Tướng quân cũng…
Nghe tới đây, thầy Meitei thấy có vẻ phiền toái liền nhắc:
– Bác ạ, dòng họ Tướng quân cũng có thể là đáng quý đấy nhưng thời đại Minh Trị cũng tốt chứ sao. Ngày xưa làm gì có những thứ như “chữ thập đỏ” phải không?
– Cái đó thì không có. Cái gọi là “chữ thập đỏ” thì hoàn toàn không có. Hơn nữa, được nhìn thấy mặt Hoàng tử thì chỉ có thời Minh Trị mới có thôi. Tôi cũng may nhờ sống lâu mà hôm nay được tham gia đại hội, được nghe tiếng nói của Hoàng tử, bây giờ có chết cũng không ân hận gì nữa.
– Ối giời, chỉ riêng việc lâu ngày mới đi tham quan Tokyo cũng là lợi lắm rồi. Cậu Kushami này, bác tôi vì có Đại hội Chữ thập đỏ mà cất công từ Shizuoka lên đây đấy. Hôm nay tôi vừa đưa cụ đi Ueno về, vì vậy nên cụ mặc bộ frock coat mà tôi đặt may ở hiệu Shiraki như thế này đấy.
Meitei nhắc như vậy. Quả thật cụ già mặc bộ frock coat, nhưng chẳng hợp người tí nào. Ống tay áo quá dài, cổ phanh rộng, lưng áo trũng như ao, nách áo thì xếch ngược. Dù có cố tình may xấu đến mấy cũng không ai có thể dụng tâm làm hỏng dáng áo đến mức này. Cái áo sơ mi trắng và cái cổ cồn trắng thì rời rạc với nhau, khi cúi xuống trông rõ cả yết hầu. Nhất là cái nơ đen, cái này không biết để trang trí cho cái áo hay cổ áo? Bộ áo đuôi tôm thì còn khả dĩ, nhưng búi tóc bạc Chonmage thì quả là một kỳ quan vĩ đại.
Tôi để ý xem cái quạt sắt nổi tiếng như thế nào thì thấy nó được đặt cẩn thận bên cạnh gối. Lúc này ông chủ đã trở lại tâm trạng bình thường, vận dụng tất cả thành quả của việc tu luyện tinh thần vào quan sát trang phục của ông cụ già và ông hơi sửng sốt. Ông vẫn nghĩ chẳng lẽ lại đến nỗi như Meitei vẫn nói, vậy mà bây giờ gặp mới biết là còn hơn cả thế. Nếu những nốt rỗ của mình có thể thành tư liệu nghiên cứu lịch sử được thì búi tóc chonmage và cái quạt sắt của cụ già này rõ ràng còn giá trị hơn nhiều. Ông chủ rất muốn hỏi về lai lịch cái quạt này nhưng không thể ngắt lời cụ vì sợ làm thế sẽ thiếu lễ độ. Do vậy, ông hỏi một câu rất bình thường:
– Chắc có nhiều người tham dự lắm chứ ạ?
– Ôi chà, đông lắm. Mà ai cũng cứ nhìn chằm chằm vào tôi thôi. Bây giờ con người ta sao có vẻ thích nhìn thế nhỉ. Ngày xưa không thế đâu.
– Vâng, đúng thế, ngày xưa không thế đâu ạ.
Ông chủ nói cứ như mình là người già vậy. Cái này không nhất thiết vì ông muốn tỏ ra mình hiểu biết đâu. Có thể coi đó chỉ là những lời tùy tiện phát ra từ cái đầu óc mung lung của ông cũng chả sao.
– Mà này, ai cũng dán mắt vào cái kabuto wari[188] này đấy.
– Cái tessen[189] ấy nặng lắm phải không ạ?
– Kushami, cậu cầm thử xem, khá nặng đấy. Bác đưa cho cậu ấy cầm thử đi.
Cụ già cầm cái quạt lên có vẻ nặng nề, đưa cho ông chủ bảo “xin lỗi, đây ạ”. Thầy Kushami cầm cái quạt một lúc, trông như những người đi viếng chùa Kurodani ở Kyoto kính cẩn nhận thanh đao từ hòa thượng Rensobo, bảo “ồ, nặng thật” rồi trả lại.
– Mọi người cứ gọi cái này là tessen, tessen, nhưng cái này gọi là kabuto wari, còn tessen là cái khác.
– Thế… cái này để làm gì ạ?
– Gọi là kabuto wari có nghĩa là để đập vỡ cái mũ sắt, đánh vào chỗ làm cho địch choáng váng. Nghe nói nó được dùng từ thời Kusunoki Masashige[190].
– Bác ơi, thế thì đó là cái “chẻ mũ” của Masashige đấy nhỉ?
– Không, cái này của ai thì không biết, chỉ biết là cũ lắm rồi. Có thể làm từ thời Kemmu[191] cũng nên.
– Cũng có thể là của thời Kemmu đấy. Nhưng cậu Kangetsu thì thua với nó. Kushami này, hôm nay nhân tiện trên đường về, tôi ghé qua trường đại học, vào khoa lý, được xem phòng thí nghiệm của khoa. Cái kabuto wari này bằng sắt nên những máy từ tính trong phòng cảm ứng loạn cả lên, làm mọi người nhốn nháo.
– Không, làm gì có chuyện ấy. Cái này là sắt thời Kiến Vũ, chất lượng rất tốt, không thể có chuyện như thế dược.
– Chất lượng sắt tốt đến mấy thì cũng không phải như bác nghĩ đâu. Thực tế, cậu Kangetsu cậu ấy bảo thế thì đành phải thế thôi.
– Kangetsu là cái cậu mài viên thủy tinh ấy à? Còn trẻ thế mà thật tội nghiệp. Có thể làm được việc gì khác khá hơn như vậy chứ?
– Tội nghiệp nhưng đó là việc nghiên cứu. Nếu mài xong viên bi đó sẽ thành học giả xuất sắc đấy ạ.
– Nếu mài được viên bi mà trở thành học giả xuất sắc thì ai chả làm được. Tôi cũng làm được. Ông chủ cửa hàng thủy tinh cũng thành được. Những người làm việc đó ở bên Tàu người ta gọi là “cầu nhân”, đẳng cấp rất thấp đấy.
Cụ già vừa nói vừa quay sang ông chủ, ngầm tìm sự đồng tình, ông chủ chấp nhận:
– Vâng, đúng thế.
– Tất cả mọi học vấn trên đời này đều là khoa học tự nhiên thì cũng được, nhưng nếu khi xảy ra chuyện thì chẳng có tác dụng gì cả. Ngày xưa không thế đâu. Tất cả các võ sĩ đều dấn thân vì sự nghiệp, tu luyện tâm thần để nếu có chuyện gì xảy ra cũng không cập rập. Như ông cũng biết đấy, chẳng ai làm cái việc dễ dàng như mài viên bi hay xe sợi sắt như thế, phải không ạ?
– Vâng, đúng thế ạ. -Ông chủ lại chấp nhận.
– Bác ơi, tu luyện tâm thần là thay vì mài viên bi, ngồi yên lặng, tay thọc trong bọc có phải không ạ?
– Như thế nên mới hỏng. Nhất định không thể làm cái việc dễ dàng như thế được. Mạnh Tử nói là “cầu phóng tâm” (đi tìm cái tâm của mình về). Còn Thiệu Khang Tiết thì dạy rằng “tâm yếu phóng” (lòng cần được thả ra). Rồi trong nhà Phật thì có hòa thượng tên là Chu Hô (Trung Phong) dạy rằng “cụ bất thoái chuyển” (giữ vững lòng tin vào Phật), nghe không dễ mà hiểu nổi đâu.
– Tóm lại là chẳng hiểu gì cả ạ. Thế thì làm thế nào cơ?
– Mày đã đọc “Bất động trí thần diệu lục” của thiền sư Trạch Am chưa?
– Chưa. Cháu cũng chưa bao giờ nghe nói đến cái ấy cả.
– Cái tâm đặt ở đâu? Nếu đặt vào chỗ động thái trên thân thể kẻ thù thì nó được thu vào chỗ động thái trên thân thể kẻ thù. Nếu đặt vào dao chém kẻ thù thì nó được thu vào dao chém. Nếu nghĩ rằng định chém thì nó được thu vào ý nghĩ định chém. Đặt nó vào lưỡi dao của mình nó được thu vào lưỡi dao của mình. Nếu nghĩ mình không bị chém nó sẽ được thu vào chỗ không bị chém. Nếu đặt vào chỗ sắp sẵn tư thế nó sẽ được thu vào chỗ sắp sẵn tư thế. Không có chỗ nào mà cái tâm đặt vào một cách vô tâm cả.
– Bác thuộc lòng, chẳng quên một chỗ nào nhỉ. Trí nhớ của bác vẫn còn tốt quá. Một đoạn dài như vậy chứ có phải chơi đâu. Đấy, Kushami, cậu đã thấy chưa?
– Ừ, đúng thế thật. – Ông chủ lặp lại “đúng thế” cho qua chuyện.
– Này, bác ạ, bác cũng nên làm như thế đi, bác đặt cái tâm vào đâu đó, vào chỗ đánh kẻ thù được thu vào chỗ đánh kẻ thù, đặt vào lưỡi gươm của kẻ thù thì…
– Bác ạ, anh Kushami vẫn tâm niệm như thế đây. Dạo này anh ấy ngày nào cũng chỉ ngồi tu luyện tinh thần ở trong phòng sách thôi. Chuyên tâm đến nỗi khách đến cũng không thèm ra tiếp, như vậy là yên tâm rồi.
– Ồ, như vậy thì quý lắm. Cả mày nữa, cũng nên làm như thế đi thì hay đấy.
– Ôi, cháu làm gì có thời gian mà làm thế được. Bác nhàn nhã, thong dong nên bác cứ tưởng cháu cũng chỉ toàn chơi không đấy mà.
– Thì thực tế mày chả toàn chơi không đấy ư?
– Nhưng mà “nhàn trung tự mang”[192] mà lại.
– Đấy, mày cứ lơ đãng, hấp ta hấp tấp như vậy nên phải tu luyện đi, không thì hỏng. Thành ngữ “mang trung tự nhàn” thì có chứ có ai nói “nhàn trung tự mang” bao giờ đâu? Có phải thế không, bác Kushami nhỉ?
– Vâng, đúng là không nghe ai nói thế bao giờ ạ.
– Ha ha ha… thế này thì thua rồi! À, mà bác ơi, thế nào? Lâu lắm mới lên Tokyo, đi ăn lươn đi. Cháu sẽ chiêu đãi bác ở quán Chikuyo (Trúc Diệp). Từ đây tới đó, đi tàu điện chỉ một tí là đến thôi.
– Ăn lươn thì cũng hay đấy, nhưng hôm nay tôi đã hẹn đến chỗ Suihara rồi, tôi xin kiếu thôi.
– À, cụ Sugihara ấy à, cụ già ấy cũng cực kỳ đấy.
– Không phải là Sugihara mà là Suihara, mày chỉ toàn nói sai thế thì gay lắm. Nói tên người khác không chính xác là vô lễ, mất lịch sự lắm. Phải chú ý cẩn thận đấy.
– Nhưng rõ ràng viết là Sugihara đấy thôi.
– Viết chữ Hán “sam nguyên”[193] nhưng đọc là Suihara.
– Lạ quá nhỉ.
– Lạ cái gì mà lạ. Đọc theo danh nghĩa là cái xưa nay vẫn thế. Viết chữ kyum (khưu dẫn – con giun) nhưng đọc theo tiếng Nhật phải là mimizu. Đọc như vậy là theo danh nghĩa, nghĩa là “mắt không nhìn”. Cũng như chữ gama (hà mạc – con ếch) cũng vậy.
– Ôi, khiếp quá nhỉ.
– Con ếch khi bị đánh chết nó nằm ngửa lên (ka-ê-ru-trở lại) nên đọc theo nghĩa đó là kai-i-ru. Còn gu-ki-ga-ki thì đọc là sui-ga-ki, ku-ki-ta-chi là ku-ku-ta-chi… tất cả đều như thế. Suihara mà đọc là su-gi-ha-ra là kiểu nhà quê. Không cố gắng để ý một chút thì người ta cười cho.
– Vậy bây giờ bác đi đến chỗ ông Suihara ấy à? Gay quá nhỉ.
– Sao? Nếu mày không thích thì không đi cũng được. Tao sẽ đi một mình.
– Bác đi một mình được à?
– Đi bộ thì khó. Thuê cho bác cái xe chở đi từ đây.
Ông chủ vâng lời, sai cô sen đi đến hiệu thuê xe. Cụ già còn chào hỏi rất lâu rồi mới ngất ngưởng mang cái búi tóc chonmage ra về. Còn Meitei ở lại.
– Đó là ông bác cậu đấy à?
– Ừ, bác tôi đấy.
– Ồ, quả đúng thật.
Ông chủ ngồi lại trên đệm, thọc tay trong bọc, nghĩ ngợi.
– Ha ha ha… cậu thấy chưa, một bậc hào kiệt đấy chứ? Mình có một ông bác như thể cũng sướng lắm. Đưa cụ đi đến đâu cũng đều thế, chắc cậu cũng sửng sốt, phải không?
Meitei tưởng đã dọa được cho ông chủ hoảng hốt nên rất khoái.
– Sửng sốt gì? Tôi chả ngạc nhiên gì cả!
– Như vậy mà cũng không ngạc nhiên thì gan của cậu bị hỏng rồi.
– Nhưng cụ già ấy có chỗ rất đáng nể đấy. Tôi rất phục cái chủ trương rèn luyện tinh thân của cụ.
– Phục thì cứ việc phục, tha hồ, chẳng sao cả. Cậu thì đến khoảng sáu mươi tuổi chắc cũng sẽ lạc hậu, lỗi thời như ông bác ấy mất thôi. Phải cẩn thận đấy. Cứ vác cái lỗi thời mà đi thì chẳng biết gì đâu.
– Cậu thì lúc nào cũng lo lỗi thời. Tùy từng lúc, từng chỗ, cái lỗi thời cũng có cái vĩ đại của nó đấy. Trước hết như nói về học vấn đấy, cứ chăm chỉ, tiến bộ, đi trước, nhưng đi đến đâu cũng không có giới hạn. Tóm lại là chẳng bao giờ thỏa mãn cả. Đến khi đó thì học vấn phương Đông tuy lạc hậu nhưng có cái hay của nó, vì nó có sự tu luyện tâm linh.
Ông chủ nói ra một loạt những thứ nghe được từ nhà triết học hôm trước, cứ như lý thuyết của chính mình.
– Cậu đã khá lên nhiều quá nhỉ. Sao nghe cứ như lý luận của ngài Yagi Dokusen (Bát Mộc Độc Tiên) ấy nhỉ?
Nghe nhắc đến tên Yagi Dokusen ông chủ giật thót mình. Thực ra, cái nhà triết học hôm nọ, người đã viếng thăm Ngọa long quật, thuyết phục ông chủ rồi thanh thản ra về ấy, chẳng phải ai khác mà chính là ông Yagi Dokusen. Những luận điệu ông chủ huênh hoang vừa xong, tất cả đều tiếp thu từ ông này mà ra. Ông cứ tưởng Meitei không biết, ai ngờ nghe Meitei bất ngờ nhắc đến tên ấy, niềm kiêu hãnh vội vàng của ông đã bị nghiền nát. Ông cảm thấy nguy nên hỏi lại cho chắc chắn:
– Cậu đã từng nghe lý luận của Dokusen à?
– Nghe chứ! Sao lại không? Chính vì nghe lý luận của tay ấy nên mình bây giờ với mình cách đây mười năm, lúc còn đang ở trường, chẳng khác đi tí nào cả.
– Chân lý là cái không thể dễ dàng thay đổi. Có thể chính sự không thay đổi đó mới là đáng tin cậy đấy.
-Ừ, cũng vì có sự bao che như thế nên cậu Dokusen mới cứ thế mà đi. Trước hết là từ cái tên Yagi. Cái bộ râu của hắn, cậu xem đấy, rõ ràng là yagi (con dê) chứ gì? Hắn cứ để cái kiểu râu đó suốt từ thời còn ở ký túc xá. Còn cái tên Dokusen cũng là do được gán cho. Trước đây cũng đã có lần hắn đến chỗ mình, say mê trình bày cái lý thuyết “rèn luyện” tiêu cực ấy. Hắn cứ nói lải nhải mãi không chịu thôi, mình mới bảo “thôi, cậu ngủ đi”. Nhưng tiên sinh ấy cứ thản nhiên bảo “không, mình không buồn ngủ” và tiếp tục dùng cái lý luận tiêu cực ấy mà gây phiền hà. Thế là mình đành bảo “Cậu không ngủ cũng được, nhưng mình buồn ngủ lắm. Xin lạy cậu, để yên cho mình ngủ”, và mình đã bắt được hắn ngủ. Đêm ấy, chuột chui ra gặm luôn vào mũi hắn. Đang giữa đêm, náo động hết cả lên. Tiên sinh ấy miệng thì bảo “cũng đành thôi” nhưng hình như còn tiếc tính mạng lắm nên rất lo lắng. Hắn ta bảo mình “nhỡ mà chất độc từ chuột nó ngấm vào người thì rất gay, cậu làm gì giúp mình đi”, làm mình rất khó nói. Mình đành đi xuống bếp, lấy cơm bôi vào giấy mang dán vào mũi hắn cho qua chuyện.
– Thế tại sao?
– Mình bảo đây là thuốc của nước ngoài, do những người đi tàu biển mang về, là loại thuốc do một danh y người Đức mới sáng chế. Những người Ấn Độ bị rắn độc cắn mà dán thuốc này là công hiệu ngay. Cậu cứ dán thuốc này là yên tâm, không lo gì nữa.
– Từ hồi đó cậu đã có nhiều chiêu kỳ diệu đánh lừa được người khác rồi nhỉ?
– … Thế là Dokusen, một nhân vật tốt bụng như vậy nên tin sái cổ, yên tâm ngủ say tít. Sáng hôm sau dậy, thấy từ miếng cao dán ấy có một mẩu dây lòng thòng rủ xuống tận bộ râu dê, trông rất buồn cười.
– Nhưng so với hồi đó bây giờ cậu ta khá lên nhiều lắm rồi.
– Cậu mới gặp hắn ta à?
– Mới cách đây một tuần. Lâu lắm cậu ta mới đến đây, nói chuyện rất lâu.
– Tôi cũng nghĩ chính vì thế nên cậu mới thuyết cái lý luận tiêu cực kiểu Dokusen mà.
– Thực ra, khi đó nghe hắn nói thế mình rất tâm đắc. Mình cũng hăng hái, quyết tâm sẽ tu luyện tinh thần.
– Hăng hái thì cũng được. Nhưng mà tiếp thu cái người khác nói một cách quá tin tưởng thì chỉ chứng tỏ là ngốc thôi. Trước hết, nếu cậu cứ nghe ai nói bất kỳ cái gì cũng tin và tiếp nhận một cách chân thành như vậy là không được. Dokusen cũng chỉ giỏi cái miệng thôi, chứ nếu có chuyện gì xảy ra thì cũng thế cả. Cậu còn nhớ trận động đất cách đây chín năm không? Hồi đó chỉ có mỗi mình Dokusen là bị thương do nhảy từ tầng hai xuống đấy.
– Việc đó hình như hàm chứa nhiều lý thuyết của bản thân đương sự đấy chứ?
– Đúng thế. Theo hắn thì đó là cái rất đáng quý kia đấy. Cơ phong (mũi nhọn) của Thiền là khí phách nhanh nhẹn, dũng mãnh. Nếu đạt được tới cơ thạch hỏa (đá và lửa) thì có thể ứng phó mọi sự nhanh một cách dễ sợ. Hắn bảo, khi nghe có động đất, trong lúc những người khác còn đang hoang mang chưa biết làm gì, thì chỉ mỗi một mình hắn là nhảy được từ tầng hai xuống như vậy, chứng tỏ việc tu luyện của hắn đã có hiệu quả. Và thế là, mặc dù phải tập tễnh lê cái chân què, hắn thấy rất vui sướng. Đúng là một thằng có bản lĩnh hiếu thắng. Tóm lại là không có kẻ nào kỳ quặc và đáng ngờ hơn là những kẻ cứ rùm beng về những Thiền với chả Phật gì gì đó đâu.
Thầy Kushami có vẻ hơi chùn:
– Có đúng thế không nhỉ?
– Hôm trước đến đây, hắn có nói một cái gì đó, đại loại như lời mê ngủ của một vị hòa thượng Thiền tông nào đó không?
– Ừ, hắn có dạy cho mình một câu, đại ý như là “điện quang ảnh lý trảm xuân phong” (chém gió xuân tựa ánh chớp) hay gì gì đó.
– Rất buồn cười là, cái “đên-kô” (điện quang) ấy, mười năm nay đã biến thành “ha-kô” (cái tủ). Cứ nói đến “đên kô” của Vô giác Thiền sư thì cả ký túc xá không ai là không biết. Thỉnh thoảng tiên sinh nhà ta líu giọng đọc ngược thành “xuân phong ảnh lý trảm điện quang” (“chém ánh chớp tựa gió xuân”, sau khi giác ngộ thì bị sét đánh), thế mới ngộ chứ! Lần sau cậu cứ thử mà xem. Những câu nào mà bên kia bình tĩnh nói chậm thì bên này thỉnh thoảng đảo ngược đi thế là bên kia cuống lên, thế nào cũng nói chệch thành cái gì đó, nghe rất kỳ.
– Gặp phải một người quỷ quái như cậu thì chẳng ai mà địch nổi cả.
– Chưa biết ai quỷ quái đâu nhé. Mình là chúa ghét những cái như “Thiền sư” hay “Giác ngộ” gì gì đó. Ở gần chỗ mình có một ngôi chùa tên là Nanzoin (Nam Tạng viện), ở đó có khoảng tám mươi cư sĩ. Một hôm có giông, sét đánh vào sân chùa làm gãy một cây thông ngay trước sân nhà các cư sĩ. Vị Hòa thượng thản nhiên như không, bảo là mình không hề nao núng gì cả. Hỏi kỹ ra, hóa ra ngài bị điếc. Thế nên mói thản nhiên. Đại khái nó là như vậy. Cậu Dokusen ấy, nếu cứ tu luyện một mình thì chẳng sao, nhưng cứ đi rủ rê, xúi giục người này người kia là không hay. Trên thực tế, đã có người bị điên do bàn tay của Dokusen rồi đấy.
– Ai vậy?
– Ai ư? Một người tên là Rinotozen, cũng vì Dokusen mà đâm ra say mê Thiền học, đến Kamakura tu luyện và đã phát điên ở đó. Trước chùa Viên giác có một chỗ chắn tàu, cậu biết chứ? Người đó đã nhảy vào trong đường tàu, ngồi trên thanh ray mà tọa Thiền. Vì đó là “đại khí diễn” (khí phách lớn) nhằm làm dừng con tàu sắp chạy đến mà! May mà chính con tàu đã dừng lại nên tính mạng anh ta đã được cứu thoát đấy. Thế rồi một lần khác, anh ta tự cho là mình đã có một cơ thể “kim cương bất hoại”, có thể vào lửa cũng không cháy, xuống nước cũng không chìm, anh ta nhảy xuống ao sen trong chùa, vùng vẫy oằng oặc ở dưới đó.
– Bị chết à?
– Cũng may, lúc đó có một chú tiểu đi ngang qua, cứu lên. Nhưng sau về Tokyo thì chết vì viêm màng ruột. Nguyên nhân chết là viêm màng ruột, nhưng nguyên nhân của viêm màng ruột là ăn quá nhiều cơm gạo mạch[194] và dưa muối ở nhà chùa. Như vậy tức là Dokusen đã gián tiếp giết anh ta.
Ông chủ, vẻ mặt hơi nhăn nhó, nói:
– Nhiệt tâm quá vào một cái gì cũng chưa biết là tốt hay xấu nhỉ!
– Thật đấy. Còn một người bạn cùng trường nữa cũng đã bị với tay Dokusen đấy.
– Nguy hiểm quá nhỉ. Ai vậy?
– Cậu Tachimachi Robai (Lập Đinh Lão Mai, luôn luôn bắng nhắng) chứ ai. Cha này cũng luôn luôn bị Dokusen xúi giục, nói toàn những chuyện “một tấc đến trời”[195] và cuối cùng thì đúng thế thật.
– Đúng thế nghĩa là thế nào?
– Nghĩa là lươn thì bò lên trời mà lợn thì biến thành tiên chứ sao.
– Thế là thế nào?
– Nếu Yagi là Dokusen[196] thì Tachimachi là Butasen[197]. Chưa thấy ai có cách ăn uống bẩn như hắn. Tham ăn tục uống như vậy mà lại giở chứng cùng với Thiền sư thì hết thuốc chữa rồi. Lúc đầu bọn mình cũng không để ý đâu. Bây giờ nghĩ lại mới thấy, hắn ta nói toàn những cái kỳ dị. Khi đến nhà mình, hắn bảo “này, cậu trông trên cây thông kia, có thấy miếng thịt rán đang bay không? Ở quê tớ, chả rán vẫn thường ôm thanh gỗ mà bơi đấy.” Hắn toàn nói những câu kiểu cách ngôn như vậy. Nhưng nếu chỉ nói không thôi thì còn được. Nhưng đằng này, cậu biết không, hắn cứ như xúi trẻ con ăn cứt gà, suýt chó bụi rậm ấy. Cái kiểu “hãy ra đào bụi cây trước nhà kia đi, có vàng đấy” thì mình xin đầu hàng. Thế rồi ít lâu sau, hắn thành lợn tiên thật, được đưa về Sugamo[198]. Vốn dĩ là lợn thì không đủ tư cách trở thành thằng điên được đâu, nhưng tất cả là do Dokusen lèo lái nên mới thế. Thế lực của Dokusen cũng không xoàng đâu.
– Ủa, thế bây giờ nó vẫn ở Sugamo à?
– Ở đó chứ sao. Điên hết cỡ mà tự phát ra hào quang cũng hết cỡ. Gần đây hắn không thích cái tên Tachimachi Robai nữa, tự xưng là Tendo Kohei (Thiên Đạo Công Bình), được sinh ra với sứ mệnh của Đạo trời. Thật ghê gớm. Chà, cậu cứ thử nói thử mà xem.
– Nói “Thiên Đạo Công Bình” á?
– Ừ, Thiên Đạo Công Bình ấy. Điên mà đặt cái tên cũng giỏi đấy. Thỉnh thoảng còn viết “công bình” thành “khổng bình” nữa kia. Thế rồi hắn bảo người đời bây giờ đang lạc lối, cần phải cứu vớt, rồi viết thư gửi cho tất cả bạn bè, người quen… Mình cũng được gửi cho bốn, năm bức thư, có cái rất dài, có hai thư phải trả thêm tiền quá cước.
– Thế thì cái thư gửi cho tôi cũng là của Robai rồi.
– Gửi cả cho cậu à? Cái thằng kỳ lạ thật. Cũng phong bì đỏ, phải không?
– Ừ, giữa đỏ, hai bên trắng, một loại phong bì khác bình thường.
– Nghe nói cái đó du nhập từ Trung Quốc, đạo trời và đất thì màu trắng, con người ở giữa màu đỏ. Butasen nói hoa mỹ như vậy.
– Cũng là loại phong bì có nhiều ẩn ý đấy chứ?
– Thì càng điên càng cố nghĩ ra mà. Điên thì điên nhưng cái tính tham ăn thì vẫn không thay đổi, nên trong thư bao giờ cũng phải viết về cái ăn, thế mới lạ. Trong thư gửi cho cậu, chắc cũng có viết về cái gì chứ?
– Ừ, viết về hải sâm.
– Robai rất thích hải sâm mà. Thế còn gì nữa?
– Còn viết cả về cá nóc, sâm Triều Tiên và gì gì nữa ấy.
– Kết hợp cá nóc với sâm Triều Tiên thì ngon đấy. Chắc hắn định bảo nếu bị ngộ độc cá nóc thì sắc sâm Triều Tiên mà uống phải không?
– Hình như không phải thế.
– Không phải thì cũng chẳng sao, đàng nào cũng là điên mà. Chỉ có vậy thôi à?
– Còn nữa. Có một câu là “Hỡi thầy Kushami, xin mời thầy dùng trà đi”.
– Ha ha ha… “xin mời thầy dùng trà đi” thì quá nghiêm trọng đấy. Đúng là hắn định dồn cho cậu đến phải đầu hàng đây. Giỏi lắm. Hoan hô cậu Thiên Đạo Công Bình.
Meitei phấn khởi cười rất to. Ông chủ thì khi biết cái người đã gửi bức thư mà ông kính cẩn đọc đi đọc lại ấy chính là một thằng điên cỡ bự thì trước hết, ông cảm thấy những nhiệt tâm suy nghĩ của mình là vô ích nên ông tức giận. Tiếp theo, ông cảm thấy xấu hổ vì tại sao mình lại đi mất công nhấm nháp cái bài viết của một kẻ lông bông, điên khùng đến mức ấy. Sau đó, ông lại lo rằng nếu mình đã thán phục cái bức thư của một kẻ điên đến mức ấy thì chắc thần kinh của mình cũng có vấn đề gì chăng? Thế là, vừa xấu hổ, vừa tức giận vừa lo lắng, ông ngồi lặng đi, vẻ mặt bồn chồn không yên.
Đúng lúc đó, ngoài cửa có tiếng mở cửa rất mạnh, rồi tiếng bước chân nặng nề của hai cặp giò vang lên trong chỗ tháo giày, rồi tiếng gọi lớn “xin lỗi, xin làm phiền cho nhờ một chút”. Khác với ông chủ rù rờ chậm chạp, Meitei rất nhanh nhẹn, không chờ cô sen phải ra đón khách, ông ta vừa mời “vào đi” vừa nhảy hai bước qua khoảng trống từ phòng ra cửa mà ra đón khách. Khi vào nhà người khác không cần ai dẫn vào, cứ trâng tráo tự mình đi vào thì đúng là tính cách của Meitei rồi. Nhưng khi đã vào trong nhà người ta rồi, lại làm nhiệm vụ ra đón khách như một cậu học trò thế này thì kể cũng tiện. Dù cho đó là Meitei, thì cũng vẫn là khách. Kiểu đâu mà khách thì ra mở cửa còn chủ nhà là thầy Kushami thì lại chễm chệ ngồi chờ như vậy? Bình thường ra, ông ta cũng phải theo ra mới phải chứ? Nhưng đây là thầy Kushami mà! Thầy cứ thản nhiên ngồi trên tấm đệm. Có điều, nếu nghĩ là thầy thản nhiên, ung dung thì có vẻ như là vậy đấy. Song thực chất lại hoàn toàn không phải thế.
Ngoài cửa, nghe tiếng Meitei nói gì rất hăng, rồi gọi với vào trong nhà: “Này ông chủ, có hơi mỏi chân một chút đấy, nhưng nhờ ông làm ơn ra đây cho. Không có ông thì không được đâu!”. Ông chủ đành phải lửng thửng đi ra, tay vẫn xỏ trong bọc. Tôi nhìn thấy Meitei tay cầm tấm danh thiếp, đang khom lưng cúi chào, tư thế chẳng trang trọng gì cả. Tấm danh thiếp ghi “Yoshida Torazo, nhân viên cảnh sát hình sự, Sở cảnh sát thành phố”. Đứng bên cạnh anh Torazo này là một thanh niên khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, người cao, ăn mặc đẹp. Kỳ diệu là chàng thanh niên này cũng im lặng, đứng thọc tay trong bọc giống hệt ông chủ. Tôi có cảm giác “hình như” đã nhìn thấy người này ở đâu nên quan sát thật kỹ. Hóa ra không phải là hình như nữa, mà chính là tên kẻ trộm đã vào nhà này lấy trộm khoai đêm hôm nọ. Trời ơi, hôm nay hắn lại công nhiên đến giữa ban ngày, vào cửa chính đàng hoàng thế này đây!
– Này, đây là ông cảnh sát tuần tra, bắt được tên kẻ trộm hôm trước, cất công đưa nó đến trình diện cậu đấy.
Ông chủ hình như đã hiểu ra vì sao mà cảnh sát đến đây, cúi đầu về phía thằng kẻ trộm, chào rất cung kính. Có lẽ vì tay kẻ trộm trông bảnh hơn anh Torazo nên ông ta vội tưởng đó là cảnh sát chăng? Tên kẻ trộm chắc cũng ngạc nhiên nhưng chẳng có lý do gì để chối “không, tôi là kẻ trộm đây ạ!”, nên cứ mặc kệ, thản nhiên đứng im, tay cũng vẫn cứ thọc trong bọc áo. Vả lại, tay hắn đang bị còng thì có bảo bỏ ra cũng không thể bỏ được. Bình thường ra, nhìn dáng vẻ như vậy là người ta nhận ra ngay, nhưng ông chủ này lại khác người đời. Ông có cái tật là rất kính nể những người chức dịch hay cảnh sát. Ông luôn tâm niệm rằng uy quyền của những kẻ quyền thế là những thứ rất đáng sợ. Thực ra thì ông cũng biết những loại cảnh sát cảnh siếc chẳng qua chỉ là loại lính canh mà mình bỏ tiền ra thuê, nhưng trên thực tế, hễ có việc gì là ông cúi đầu vâng dạ lia lịa. Bố ông trước kia là lãnh chủ một vùng hẻo lánh nên quen cúi đầu khúm núm trước bề trên. Có lẽ vì thế mà đã truyền lại cái hậu quả này cho con cháu chăng. Thật tội nghiệp. Người cảnh sát có vẻ buồn cười, tủm tỉm bảo:
– Ngày mai, ông đến Trạm cảnh sát Nihon Zutsumi trước 9 giờ. Những thứ bị lấy trộm là những gì nhỉ?
– Những thứ bị lấy trộm là…
Ông chủ chỉ nói theo được đến đó nhưng rồi trớ trêu thay chẳng nhớ được gì cả. Ông chỉ nhớ mỗi khoai mà anh Tatara Sanpei mang đến cho thôi. Khoai thì thế nào cũng được, chẳng cần phải nói, nhưng còn những thứ khác thì không thể nào mà nhớ ra, cho nên trông ông lúc này cứ như một thằng phỗng. Nếu đồ mất trộm là của người khác thì chẳng cần phải biết cũng được, nhưng đây là của chính mình mà mình không biết thì rõ thật không còn là một con người nữa… Nghĩ vậy, ông quyết tâm nói: “Bị mất khoai ạ!”
Lúc này thằng kẻ trộm chắc là quá buồn cười nên cúi mặt xuống, giấu cằm vào trong cổ áo kimono. Meitei cười phá lên: “Ha ha ha… có vẻ tiếc khoai quá nhỉ?” Chỉ riêng mỗi người cảnh sát là vẫn nói nghiêm chỉnh:
– Khoai thì không thể lấy lại được, nhưng những thứ khác thì sẽ trả lại. Thôi, cứ đến xem, chắc sẽ biết. Mà này, sẽ phải làm giấy giao nhận nên ông nhớ mang theo con dấu[199] nhé. Nhớ phải đến trước 9 giờ đấy và nhớ là trạm cảnh sát Nihon Zutsumi nhé. Trạm Nihon Zutsumi thuộc phạm vi quản lý của Sở cảnh sát Asakusa. Thôi, xin chào.
Người cảnh sát nói thế rồi đi về. Tên kẻ trộm cũng đi theo ra khỏi cửa. Vì không thể thò tay ra khép cửa nên nó cứ để cửa mở thế mà đi. Ông chủ vừa sợ sệt vừa có vẻ tức, mặt sưng sỉa, đóng sầm cửa lại.
– Ha ha ha… Cậu kính trọng cảnh sát ghê nhỉ? Nếu mà lúc nào cũng lễ phép thế thì tốt đấy. Nhưng cậu chỉ cẩn thận với riêng mỗi cảnh sát thôi thì hơi gay đấy.
– Thì họ cất công đến báo cho mình như vậy mà?
– Đến báo là việc của họ. Tiếp đón trịnh trọng là thừa.
– Nhưng đây không phải là việc bình thường.
– Tất nhiên không phải là việc bình thường rồi. Tuần tra, theo dõi là loại công việc đáng ghét, là công việc hạ đẳng hơn công việc bình thường, biết chưa?
– Cậu ăn nói như vậy có ngày khốn đấy.
– Ha ha ha… thế thì thôi, không nói xấu cảnh sát nữa. Nhưng kính trọng cảnh sát thì cũng còn được, đằng này lại đi kính trọng cả kẻ trộm nữa thì không thể không sửng sốt được.
– Ai kính trọng kẻ trộm?
– Cậu chứ còn ai.
– Tôi gặp kẻ trộm bao giờ?
– Gặp bao giờ à? Cậu chả cung kính chào kẻ trộm là gì?
– Bao giờ?
– Vừa nãy cậu chả cúi rạp mình đấy như?
– Cậu đừng có mà nói bậy. Đó là cảnh sát chứ!
– Cảnh sát mà lại như thế à?
– Chính cảnh sát mới như thế.
– Ngoan cố quá nhỉ?
– Chính cậu ngoan cố thì có.
– Thế trước hết xin hỏi cậu, cảnh sát gì mà đến nhà người ta lại đứng thọc tay trong áo, không nói không rằng như vậy hả?
– Không nhất thiết cứ là cảnh sát thì không thọc tay trong áo.
– Cậu mãnh liệt đến thế thì sợ thật. Nhưng trong lúc cậu cúi đầu chào thì từ đầu đến cuối nó cứ đứng trơ trơ như vậy đấy.
– Có thể vì là cảnh sát nên nó như vậy thôi.
– Thật là tự tin quá nhỉ? Nói thế nào cũng không chịu nghe!
– Tôi không nghe. Cậu cứ khăng khăng bảo đó là kẻ trộm, kẻ trộm, nhưng cậu có nhìn thấy nó khi nó vào nhà ăn trộm đâu mà tôi tin? Cho nên, tôi dứt khoát không nghe cậu.
Có lẽ đến nước này thì Meitei cũng đành ngán ngẩm nhận ra rằng đây là một kẻ cần phải cứu rỗi rồi, nên khác với mọi khi, ông ta im lặng. Ông chủ rất đắc ý, vì chẳng mấy khi mới lấn át được Meitei một lần thế này. Với Meitei, ông chủ càng ngang ngạnh bao nhiêu giá trị của ông càng giảm đi bấy nhiêu. Nhưng với ông chủ, càng tỏ ra ngang ngạnh, ông thấy mình càng oai hơn Meitei. Trên đời này vẫn thường có sự “ông chẳng bà chuộc” như vậy. Trong khi vì sự ngang bướng mà cứ tưởng là mình đã thắng thì giá trị con người của mình đã bị hạ thấp đi rất nhiều. Có điều lạ là, khi kẻ ngang bướng, cho đến chết, vẫn tưởng là mình có bản lĩnh, đã giữ được thể diện, thì họ có biết đâu rằng từ đó trở đi, người ta khinh bỉ mình, không thèm chấp với mình nữa. Thật là hạnh phúc. Nghe nói thứ hạnh phúc này được mệnh danh là hạnh phúc của lợn.
– Thôi, được rồi. Hãy cứ biết là ngày mai cậu có định đi không?
– Đi chứ, sao không đi? Họ bảo phải đến trước 9 giờ nên tôi định khoảng 8 giờ sẽ từ nhà đi.
– Thế trường thì sao?
– Tôi sẽ nghỉ. Trường với chủng. – Ông nói cứ như hắt nước đổ đi, vẻ rất oai.
– Khí thế oai phong nhỉ. Thế nghỉ cũng không sao à?
– Không sao cả. Trường tôi trả lương theo tháng, có nghỉ cũng không bị trừ lương đâu mà sợ, chẳng sao cả.
Ông thẳng thắn bày tỏ như vậy. Nếu cho là ông khôn vặt thì là khôn vặt mà bảo là ông quá đơn giản ngây ngô thì đúng là quá đơn giản ngây ngô.
– Cậu đi thì đi, nhưng cậu có biết đường không?
Ông vẫn phụng phịu nói kiểu tức tối:
– Làm sao mà biết được. Nhưng thuê xe thì không có vấn đề gì cả.
– Thật là đáng sợ! Một nhà thông thạo Tokyo không thua gì ông bác Sizuoka của tôi.
– Muốn sợ thì cứ việc, tha hồ!
– Ha ha ha… Cái trạm cảnh sát Nihon Zutsumi ấy, cậu nên biết nó không phải là một nơi bình thường đâu. Đó là Yoshiwara[200] đấy.
– Cái gì?
– Là Yoshiwara đấy ạ!
– Yoshiwara có nhà chứa ấy à?
– Vâng ạ. Yoshiwara thì ở Tokyo này chỉ có duy nhất một chỗ ấy thôi. Thế nào? Cậu đi thử xem chứ?
Meitei lại bắt đầu trêu chọc. Ông chủ nghe nói Yoshiwara thì có vẻ hơi trù trừ, song lập tức nghĩ lại, quyết tỏ ra mạnh mẽ cái mà không đáng phải tỏ ra, nói:
– Yoshiwara thì Yoshiwara, nhà chứa thì nhà chứa, đã bảo đi là cứ đi!
Những kẻ ngu thường hay ương bướng vào những lúc như thế này. Meitei chỉ bảo:
– Ừ, chỗ ấy hay đấy, đi cho biết đi.
Vụ hình sự gây ầm ĩ đến đây tạm lắng xuống. Sau đó Meitei lại tiếp tục ba hoa xích đế cho đến tận chiều rồi bảo phải về, nếu không, về muộn ông bác sẽ mắng, rồi đi về.
Sau khi Meitei về, ăn cơm tối xong, ông chủ lại chui vào phòng sách, khoanh tay ngẫm nghĩ: “Cái người mà mình cảm phục, muốn noi theo như Yagi Dokusen thì theo Meitei nói cũng là người chẳng có gì đáng noi theo cả. Không những thế, cái lý thuyết mà hắn chủ trương đề ra lại rất ngược đời. Đúng như Meitei nói, nó ít nhiều thuộc loại điên rồ, phiêu diêu thế nào ấy. Chẳng cần nói đâu xa, hắn đã có tới hai đệ tử điên cỡ bự rồi, thật quá nguy hiểm. Nếu mình cứ tiếp xúc, gần gũi với hắn thì nhất định lại bị hắn lôi kéo vào cái hệ thống ấy mất. “Thiên Đạo Công Bình”, cái con người nhìn trên văn vẻ thì cứ tưởng là vĩ đại, đầy kiến thức, khiến mình hết sức khâm phục thì hóa ra tên thật là Tachimachi Robai, chỉ là một thằng điên hiện đại trong viện tâm thần Sugamo. Cứ cho là chuyện của Meitei phóng đại, ít sít ra nhiều đi, nhưng chuyện hắn muốn thành danh trong thế giới của những kẻ u mê, phiêu lãng, tự nhận mình là người đứng đầu “Thiên Đạo” thì chắc là đúng. Như thế này thì vì lẽ này lẽ nọ, có lẽ mình cũng điên rồi. “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”[201]. Cảm phục trước lý luận điên khùng, ít nhiều đồng tình với văn vẻ, ngôn từ của thuyết ấy thì chắc là mình cũng có dây mơ rễ má với bệnh điên chăng? Ừ, cứ cho là không đúc trong cùng một khuôn đi, nhưng khi ở nhà liền mái với một kẻ điên thì không nhất thiết là không có ngày sẽ lấy gậy chọc thủng tường, cùng ngồi kề vai kề đùi, cười nói với nhau trong một phòng đâu. Thằng này ghê gớm thật. Ra là thế đấy! Từ đó mà ngẫm ra, đầu óc mình đã bị hỏng, lại thêm bao nhiêu cái kỳ quặc đến dễ sợ. Phản ứng hóa học của một gáo tương não đã làm lay chuyển ý chí, biến thành hành động, thể hiện ra ngôn từ, làm mất đi sự trung dung yên ổn một cách kỳ quái. Mặc dù lưỡi hay nách thì không thấy có gì khác lạ, nhưng mùi hôi ở chân răng, rồi đau gân đau cốt thì phải làm thế nào chứ không thì gay lắm. Đã đến mức nguy rồi, có lẽ mình đã thực sự là một bệnh nhân nặng mất rồi. May là mình chưa làm hại ai, chưa gây phiền hà cho đời nên chưa bị đuổi ra khỏi thành phố, vẫn còn được tồn tại như một công dân Tokyo đây.
Trước tiên mình phải đi kiểm tra xem tim mạch thế nào? Nhưng hình như nhịp tim vẫn bình thường thôi. Đầu thì có thể hơi nóng, nhưng đây cũng không phải là triệu chứng của bệnh đã phát. Dẫu sao thì cũng đáng lo thật.
Nếu cứ đem mình so sánh với những người điên rồi lo lắng về những chỗ giống họ thế này thì không thể thoát khỏi lĩnh vực điên được. Cách làm này hỏng rồi. Lấy người điên làm tiêu chuẩn, rồi đối chiếu mình vào đó mà phân tích nên mới ra kết quả như thế này. Nếu bây giờ lấy những người lành lặn ra làm thước đo mà so sánh với mình thì biết đâu lại có kết quả ngược lại chăng? Nếu vậy thì phải bắt đầu từ những người gần nhất đã.
Trước tiên là ông già mặc áo thầy tu hôm nay thì thế nào? Nào là “cái tâm được đặt ở chỗ nào…” ư? Về khoản này cũng đáng nghi lắm.
Thứ hai là cậu Kangetsu thì sao? Suốt ngày suốt đêm xách cơm theo, cặm cụi mài viên thủy tinh. Đây cũng thuộc loại cùng hội cùng thuyền.
Thứ ba là Meitei. Tay này tâm niệm mình được trời sinh ra để đi trêu chọc, đùa bỡn thiên hạ. Rõ ràng không sai, chính là một thằng điên vui tính.
Thứ tư là mụ vợ nhà Kaneda. Cái bản tính độc ác ấy dứt khoát không thể xếp vào loại bình thường được. Nhất định đây cũng là một kẻ điên chính hiệu.
Thứ năm là đến lượt chính tay Kaneda. Tay này thì mình chưa gặp bao giờ nhưng trước hết, cứ xem việc hắn khúm núm trước một mụ vợ như vậy, rồi cố giữ mối quan hệ vợ chồng hòa thuận thì không có khó khăn gì mà không xếp hắn vào loại người phi bình thường. “Phi phàm” hay phi bình thường chính là một cái tên khác của “điên rồ”, cho nên cứ xếp cùng loại cũng không sao.
Rồi thì tiếp theo đó, vẫn còn nữa. Đó là những quân tử ở Lạc vân quán. Về tuổi mà nói thì mới chỉ nứt mắt ra, nhưng về sự phá phách làm loạn thì đạt tới mức hào kiệt, có thể làm tiêu tan cả thế giới.
Chỉ tính qua như vậy đã thấy khá đông bọn cùng loại, đã cảm thấy vững lòng một cách không ngờ rồi. Xã hội biết đâu chả là nơi tụ tập toàn những bọn điên với nhau. Chính cái gọi là xã hội, phải chăng là việc những thằng điên tụ tập lại, đâm chém, giằng xé nhau, chành chọe, chửi bới nhau, rồi tất cả gộp lại thành một tập thể, lúc tan rã, lúc thịnh vượng. Cứ thịnh vượng lên rồi lại tan rã đi như một tế bào, và cứ thế mà sống mà tồn tại? Trong cái xã hội đó, những kẻ ít nhiều biết lý lẽ, biết phải trái lại trở thành vướng, cho nên xã hội phải làm ra một cái gọi là “nhà thương điên” để nhốt họ vào đó. Nếu vậy thì chính những người bị nhốt trong nhà thương điên tối tăm kia mới là người bình thường, còn những bọn đang nhởn nhơ phá phách ngoài xã hội, trái lại mới đúng là những thằng điên.
Những người điên bị cô lập một mình thì mãi mãi bị coi là điên. Nhưng nếu họ tụ tập nhau lại thành tập thể, thành tổ chức, có lực lượng, biết đâu lại trở thành là hoàn toàn lành mạnh cũng nên. Thiếu gì những trường hợp thằng điên nặng nhưng có tiền, có quyền, dùng tiền và quyền sai khiến những thằng điên nhẹ, hung hăng tàn bạo nhưng lại được người đời cho là tài giỏi đó thôi? Thật chẳng còn hiểu cái gì ra cái gì nữa!”.
Trên đây là tất cả những nỗi lòng của ông chủ mà đêm đó ông đã trầm ngâm, suy nghĩ nát nước, một mình trước ngọn đèn leo lét, cô đơn. Những chỗ tối tăm, ẩn khuất trong đầu óc ông cũng được phơi ra rõ ràng ở đây. Mặc dù ông để râu hình chữ bát giống Kaiser[202], nhưng ông chỉ là một kẻ đầu óc mung lung, không phân biệt nổi người điên với người bình thường. Hơn thế nữa, ông vừa nêu ra được vấn đề, bắt đầu óc mình suy xét, nhưng chẳng đi đến kết luận nào cả. Chẳng qua ông chỉ là một người không có năng lực suy nghĩ triệt để, chứ không có gì khác cả. Kết luận của ông nó xa xôi, mù mịt, khó nắm bắt như làn khói buổi sáng hàng ngày vẫn bay qua lỗ mũi ông. Đó là một sự thật, cần được ghi nhớ như một đặc điểm duy nhất trong lý luận của ông.
Tôi là mèo. Là mèo mà sao tôi có thể nói tỉ mỉ những cái trong lòng ông chủ như vậy? Chắc sẽ người nghi ngờ mà hỏi như thế. Nhưng việc này đối với mèo chẳng có gì khó. Tôi có nghệ thuật có thể đọc thấu được lòng người. Từ bao giờ ư? Không cần phải hỏi một cách vô ích như vậy. Chỉ biết rằng tôi có khả năng ấy là được.
Trong những lúc nằm trên đùi ông chủ, cọ lông vào da thịt con người, một luồng điện đã phát sinh. Tất cả những gì có trong lòng ông chủ đều không qua khỏi “con mắt” của lòng tôi. Hôm trước, khi ông xoa xoa cái đầu mềm mại của tôi mà đột nhiên có ý nghĩ “giá mà lột da con mèo này, làm cái áo khoác gile cho trẻ con thì ấm lắm đây!”, lập tức tôi biết ngay ý nghĩ của ông, bất ngờ lạnh toát cả sống lưng. Thật khủng khiếp!
Vì lẽ đó mà tôi may mắn có thể trình bày cho quý vị biết được những diễn biến tư tưởng trong đầu ông chủ đêm ấy, như đã nói ở trên, và đó cũng là một niềm vinh dự lớn của tôi. Có điều, ông chủ chỉ suy nghĩ được đến chỗ “chẳng hiểu cái gì là cái gì nữa…” thì ngủ say tít. Chắc sáng hôm sau thức dậy, ông cũng chả nhớ là mình đã suy nghĩ những gì và đến chỗ nào đâu! Nếu sau đó ông lại nghĩ về chuyện điên thì lại phải suy nghĩ lại từ đầu thôi. Và nếu thế thì, không dám chắc là ông sẽ suy nghĩ theo trình tự cũ và đi đến chỗ “chẳng hiểu cái gì là cái gì” theo cách thế này đâu. Nhưng dẫu ông có suy nghĩ lại bao nhiêu lần, đi qua bao nhiêu chặng đường khác thì nhất định cuối cùng cũng lại đến chỗ “chẳng hiểu cái gì là cái gì cả”.
Duy có điều đó thì chắc chắn.