Dịch giả: Văn Hòa
Chương 1 (tt)

     ùa thu tốt đẹp kéo dài. Nắng hạn quá độ, các cây hoa cúc sống dai mà ông đặc biệt ưa thích, không lớn nổi, hoa nhỏ và không màu, một nỗi thất vọng ê chề không ai có thể làm gì được. Ông William rất bận tâm về những vụ “xì căn đan” trong quản lý thành phố đã nổ tung. Ông phải quyết định, bênh vực cho các bị cáo hay không, khi ông biết rõ là họ có tội. Dù sao đi nửa, họ vẫn có các quyền luật định của họ, ông sẽ bảo vệ cho các quyền ấy, nhưng liệu có thắng nổi không, hay vẫn còn nguyên tội trạng. Sự chọn lựa thật là tế nhị.
Một buổi sáng cuối tháng chín, trong cuộc tiếp xúc với số người mà ông dè dặt không gọi họ là phạm pháp, vì tòa án chưa phán quyết. Ông cần gặp họ để tìm hiểu về quan điểm của họ, cũng đơn giản thôi, bởi vì họ cho rằng, có khối người hành động như họ mà không bị buộc tội, thật là thiếu công bằng, họ không hiểu vì sao họ lại bị quấy nhiễu.
Ông William ngắm nghía ba gương mặt phì nộn, được tô điểm nhờ nhiều năm ăn uống ngon lành. Ông không cố tìm hiểu về dòng giống của họ, họ không giống nhau, nhưng cả ba cùng gọi lên nguồn gốc của tội ác trong hệ thông chính trị của đô thị lớn nhất thế giới này. Tuy nhiên ở đây không đặt vấn đề gốc gác, quê hương, nhưng là môi trường sống mà xã hội đã áp đặt thêm cho chúng. Những căn nhà ổ chuột, những tranh chấp của bọn găng-tơ, những thiệt hại, những đánh đấm, và cuối cùng là tội ác, đã tạo nên những cá nhân đang chạm trán với ông, kể gì đến sự biến chất của họ. Ông William cảm thấy xa cách họ, lương tâm ông trong sáng, dáng vẻ suy tư, ông từ vùng Vermont đến, đang đăm đăm nhìn họ từ sau bàn giấy của ông.
Ba cái mặt bự không nói lên được cái gì hết. Người đàn ông to lớn khẽ ho, nói:
- Chúng tôi biết những luật sư như ông đòi được trả công xứng đáng, và chúng tôi sẽ trả.
Ông ta có giọng nói dễ nghe đến đỗi ông William lấy làm lạ, quan sát ông ta qua sự bình thản thường ngày của mình, và nghĩ là mình đang có chuyện với một con người học thức.
- Chắc là tôi phải trông vào đồng tiền của các ông trả cho công việc của tôi làm, - Ông nói - nhưng tôi lại đặt câu hỏi: các ông mong gì ở tôi?
Con người nhỏ bé nhất mà phì nộn nhất ngồi giữa hai người đàn ông kia, nghiêng mình tìm cách làm mủi lòng ông luật sư:
- Nhờ vào lòng tốt của ngài. - Ông ta nói.
Giọng nói van lơn trầm buồn, giọng của một đứa con cưng xuất phát từ một cái miệng đẹp, miệng của em bé đang hờn dỗi. Từ trong nôi, mẹ của em đã từng nhượng bộ trước gương mặt trẻ thơ của em. Một lần nữa ông biết ơn bà Elinor, đã tỏ ra sáng suốt, không nhượng bộ con cái mình. Có đôi khi ông thấy bà hơi cứng cỏi, nhưng bà đã thương con cái phải lẽ, mà không mơn trớn. Sự chính trực của bà không dễ gì lay chuyển nổi.
Ông William lạnh lùng đáp:
- Các ngài không thuyết phục được tôi đâu!
Ba người đàn ông đã quyết định chấp nhận sự bào chữa đơn thuần, ông William đã bỏ cả ba buổi sáng để giải thích nội vụ cho ba người, để họ hiểu sự vô tội là một chuyện, còn quyền lợi công dân là một chuyện khác. Rất có thể họ có tội. Ông William không tìm biết điều đó, vì là việc của quan tòa và tòa án, nhưng dù sao đi nữa, thì họ cũng có quyền phải được bảo vệ.
Người bệ vệ nhất trong đám, người có nước da sẫm màu, bóng láng và ít nói nhất, đã thở ra như lợm giọng. Ông ta nói:
- Tôi nghĩ rằng, đó là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm được.
Họ lấy làm chua chát mà nhận thức rằng, không có gì có thể lay chuyển nổi ông luật sư, cố thủ trong một vị trí không đánh vào nổi: hiến dâng tiền bạc, nịnh hót, thuyết phục, không được gì. Họ chấp nhận điều ông William nói, vì họ tin cậy ông và biết ông khéo léo, mà không hiểu ông đồng thời vừa nhận bênh vực quyền lợi của họ và vừa từ chối không bênh vực việc làm của họ, điều đó xem ra không ăn khớp với nhau. Ông William thấy được cái nét lẫn lộn ấy trên gương mặt có hai má phinh phính chảy xệ xuống của họ. Họ đứng lên một lượt, ngẩn ngơ, nửa khiêm nhường nửa phách lối, để ông William ở lại, họ chửi bới nhau, mắng nhau là ngu dại. Ông phải mất nhiều tháng để truy tầm, đưa các chúng cứ, đã phân tích các chi tiết, ông phải bênh vực những con người nói được là ông khinh rẻ, dù vậy, tất cả đều để tôn vinh luật pháp, đó là không ai bị xét là có tội mà không có các chứng cứ đi kèm. Ông đã từng biện hộ cho những tên giết người cho đến lúc lên ghế điện mới chịu thôi, vì nhiệm vụ ông đã hoàn tất.
Ông trở về nhà cuối tuần. Ông có thể thấy mình kiệt sức, nếu không nghĩ đến cái viễn cảnh nghiêm khắc của trách nhiệm đang đợi chờ ông. Còn nhiều tháng về sau nữa, ông không có quyền viện lý do mỏi mệt, vì ông phải đảm trách việc phân tích cái thế giới sâu kín tàng ẩn của một thành phố rộng lớn, nhiệm vụ ông đã được giao phó. Hãy ngợi khen Chúa, có lẽ ông đang nghĩ về lợi ích của tòa nhà lớn xa xôi và yên tĩnh, sự bình lặng của vợ ông, sự an toàn của tâm hồn ông.
Khi về đến nhà, Jessica mở cửa, thấy ông, cô cười hai má lúm đồng tiền. Ông cảm thấy cô rực rỡ trong chiếc áo dài xanh dương tươi mát, cái tạp dề trắng xếp li. Xem chừng không còn tiếng khóc ấm ức nào nữa, và ông tin ngày cưới đã gần kề. Cô đỡ lấy cái mũ và áo choàng từ tay ông. Ông thử nói một câu lịch sự với cô như nói với con gái ông:
Ông liền nhận thấy là Winsten và Madge đã nói điều đó với Edwin. Gương mặt non choẹt của anh ta chưa biết giấu diếm, mi mắt rung nhè nhẹ, nét nhìn có vẻ mất tự nhiên của anh, những đường nét trên gương mặt biến đổi một cách tinh vi, nó chứng minh là anh đã biết.
Ông William ra sức dùng giọng nói nhẹ nhàng:
- Ba giả sử là chúng con đã trò chuyện với nhau về các điều đó, và đã cười về cái thùng nhồi bột mà ông già tội nghiệp đang loay hoay trong đó.
- Chúng con đã nói với nhau về các chuyện ấy, thưa ba. Madge đã thuật lại cho Vera, khi chúng con đi nghỉ cuối tuần ở đó. Con quả quyết với cô ấy rằng, tất cả những chuyện đó đều là chuyện thêu dệt đầy dối trá.
- Thế con có tin là sự việc đó có thể xảy ra không? - Ông William hỏi có vẻ đùa cợt.
Trước khi Edwin kịp trả lời thì chuông ở cổng reo lên rộn rã và hai cha con cùng đi ra. Ông William khép cửa lại sau lưng. Bỗng ông cảm thấy đuối sức, sợ bị kiệt lực. Bà Bertha mở cửa và trên lối vào, ông thấy ông bác sĩ và một số cảnh sát viên. Ông nói nghiêm chỉnh với Edwin:
- Này Edwin, ba sắp giao cho con tất cả cái vụ gớm ghiếc này. Ba cần về chuẩn bị tinh thần cho mẹ con, liên lạc với Herbert và cô gặp Jessica lại.
Edwin nói và cố làm ra vẻ bình tĩnh:
- Thưa ba, được ạ.
Edwin không có thì giờ để giải đáp câu hỏi của ông William: anh có tin là sự việc đó có thể có hay là không?
Ông William cầm lấy gậy và mũ, đi qua tiền phòng, bắt tay ông bác sĩ và gật đầu chào hai nhân viên cảnh sát.
- Bây giờ các ngài đã đến đây, tôi để cho con trai tôi phụ trách về vụ án này. - Ông nói nghiêm chỉnh -Người đàn bà chết là dì của nhà tôi, và người này là người đầu bếp già của gia đình tôi mới nghỉ hưu. Bà ta sẽ giải thích cho các vị biết về sự có mặt của bà ta ở đây. Nếu các vị cần đến tôi, con tôi có thể liên lạc. Chúng tôi cùng làm chung văn phòng, và nó có đủ tư cách để phụ giúp các vị.
Ông chờ họ trả lời, và khi được sự đồng ý của họ. Ông vội vã ra khỏi nhà, nhờ điện thoại của một hiệu thuốc gần đấy để gọi đem xe ông tới.
Trên vòng đi về, ông cần suy nghĩ con đường ông phải theo. Anh tài xế mới, con của một tá điền ở Vermont, đã nhóa mắt vì thanh phố lớn. Anh ta im lặng và lái xe với ít nhiều phấn khởi, vì anh yêu nghề của mình, còn độc thân và được thoát khỏi nông trại là đã đủ cho anh lúc bấy giờ. Lòng hăng say của anh, sự tận tụy và ý muốn làm đẹp lòng chủ của anh, sẽ bị hao mòn như mọi chuyện khác theo thời gian, nhưng từ đây đến đó nó sẽ làm cho ông William vui. Hôm đó, ông gặp may mắn.
Trong thời gian ngồi trên xe trở về, trí phán đoán của ông William sẽ chạy nhanh và chạy đều. Ông ghi chép từng điểm một, những gì cần phải làm. Ông ghi lại để Edwin theo đó mà làm. Phải bênh vực bà Bertha hay là Jessica, nhưng sự việc không ở trong tay họ được. Ông duyệt qua trong trí danh sách các luật sư ở New york, và ông đã ngừng lại nơi người bạn học cũ và cũng là bạn thâm giao của ông, ông Barnes, Giám đốc văn phòng cố vấn pháp luật Holl Makintosh and Lane.
Khi những giờ phút suy nghĩ dài đằng đẳng sắp kết thúc, và khi ông nhìn thấy những mái nhà của ông rõ nét, nổi bật trên nền trời hoàng hôn, và những ánh đèn nơi các khung của xuyên qua lá cây, thì ông cảm thấy như sức lực của ông đang hồi phục, bao giờ ông cũng cảm thấy khỏe ra khi ông biết rõ ông cần phải làm gì.
Ông gặp bà Elinor nơi ngưỡng cửa. Ông về trễ, nhưng vì thấy bà tươi mắt và quyến rũ quá nên ông ngại, không muốn làm bà mất vui. Thế nhưng ông phải báo tin cho bà biết mới được. Hai ông bà ôm nhau hôn, và ông quàng một cánh tay qua mình bà. Ông nói:
- Em yêu quý, em phải chuẩn bị đón nhận một tin rất buồn.
Bà Elinor liền nghĩ đến các con và các cháu sức khỏe mong manh. Bà hỏi:
- Có phải các con không?
- Không, không. Nhưng là người lớn tuổi nhất trong gia đình chúng ta. Dì Emma. Bà đã chết đột ngột sáng mai này.
- Chết một mình, thật thế sao anh?
- Hãy vào thư viện đi, Elinor.
Khi bà đã ngồi xuống, ông liền kể lại một cách đơn giản những gì ông đã khám phá và bằng cách nào ông đã hay biết tin này.
Bà sợ quá, bà không hình dung nổi sự ghê tởm của những gì đã xảy ra. Không phải chính cái chết làm cho bà kinh hoàng, ông thấy rõ điều đó, vì bà Emma tuổi đã cao, nhưng cách chết của bà ấy nó mâu thuẫn với lòng tốt hiếm có của bà.
- Dì ấy tốt lành biết bao! - Ba Elinor nói - Em không tìm ra được lý do nào đã xảy ra điều ấy. Nhất là khi em nghĩ đến lòng nhân hậu của dì đối với Jessica. Dì ấy nói phải cư xử tốt với Jessica, vì nó là con của chị đầu bếp và anh bồi phòng. Đừng để cho Jessica cảm thấy có sự cách biệt nào đó. Em không bao giờ hiểu tại sao lại xảy ra như thế được. Anh có nhớ không, dì ấy không muốn Jessiac lấy Herbert làm chồng?
- Đừng có quả quyết là chính Jessica! - Ông đứng lên, bước tới máy điện thoại và gọi Herbert.
- A lô, Herbert hả, đây la ông Asher.
- Ồ, chào ông Asher.
- Tôi gọi cho anh từ nhà của tôi đây, Herbert, để hỏi thăm xem Jessica có mạnh khỏe không?
Ông chờ một chút, rồi nghe tiếng Herbart trả lời:
- Cô ấy không sao cả, thưa ông.
- Cô ấy đang ở nhà đấy chứ?
- Vâng, cô ấy đang ở đây này! - Herbert quay đầu, và ông William nghe tiếng của anh ta văng vắng, nhưng rõ ràng: “Em muốn nói chuyện với ông Asher không, Jessica?”. Ông cũng rõ ràng nghe tiếng Jessica trả lời: “Tại sao em lại muốn nói chuyện với con chồn già ấy?”. Tiếng Herbert trở lại trong ống nói: “Cô ấy đang bận việc gì đó, thưa ông Asher. Tuồng như móc đan thì phải”.
- Anh không định về thành phố à, Herbert?
- Không, chúng tôi không xê dịch đi đâu hết.
Ông William do dư. Đặt câu hỏi cách nào đây để được trả lời theo ý ông muốn? Ông nói:
- Có người nói với tôi là Jessica có mặt ở New York, tôi không biết có đúng hay không.
Herbert lặp lại chầm chậm:
- Ở New York? Cô ấy không có ở New York. Làm sao cô ấy ở New York được, tôi đâu có đưa cô ấy đến đó?
Herbert quay đầu lại. Ông William nghe trong điện thoại:
- Ông ấy nói là em ở New York. Jessica, tại sao vậy?
- Đồ tồi, - Có tiếng của Jessica dằn mạnh trong máy điện thoại - nói ông ta lo những chuyện bẩn thỉu của ông ta đi.
Tiếng của Herbert lại nghe rõ ràng trong điện thoại:
- Jessica bảo tôi nói là không, cô ấy không có ở New York. Tôi cho rằng cô ấy muốn ở đó lắm, nhưng tôi không có thì giờ lo cho lũ gà ở đây, tôi bận lắm!
- Có phải tiếng của con bé nhà anh đó không, Herbert? - Ông William hỏi cách lịch sự. Ông lại nghe có tiếng mắng mỏ và tiếng đánh chát một cái.
- Tôi cho là con bé đang hỗn láo với mẹ nó.
- Tôi không muốn làm mất thì giờ của anh, Herbert. - Ông William nói và gác máy.
Thật là rối rắm. Jessica nói dối chăng? Herbert có muốn che đậy cho cô ta không? Ông nói với bà Elinor:
- Herbert cho là Jessica không có ở New York.
- Đâu có gì quan trọng! - Bà Elinor buồn bã trả lời - Tội nghiệp cho dì Emma, một bà già đúng nghĩa, nếu thời buổi này nó còn có nghĩa. Em không rõ, nhưng dì ấy chết như thế là không công bằng. Thật khủng khiếp, giờ phút cuối cùng, em không dám nghĩ đến.
Bà đưa tay lên che mắt lại.
- Em đừng nghĩ tới nữa - Ông William nói - Em nên nhớ là dì ấy có phước, dì sống một đời sống tốt lành và hay giúp người. Dì không làm khác được, dù sự ra đi của dì có khác, dì cũng đã hoàn thành định mệnh của dì.
- Và bây giờ Jessica đã hoàn tất định mệnh của nó! - Bà Elinor kêu lên và buông rơi hai bàn tay xuống đầu gối.
- Em hãy chờ để biết sự thật. - Ông William nói.

*

Ngày mai táng đúng như những gì bà Emma đã chọn lựa. Thân xác già nua của bà tả tơi sau cuộc giải phẫu, đã trở lại bình thường dễ coi, được tắm rửa và mặc đồ tử tế. Đầu tóc bạc trắng của bà uốn khéo, che giấu vết mổ và hai mi mắt nhắm lại làm tan biến màn bi kịch vừa xảy ra. Xác bà được đặt vào một quan tài bằng gỗ cây dái ngựa, có tay nắm son bạc. Gia đình đã mua đất tại nghĩa trang Manchester, và một đoàn khách lạ đã có mặt. Bạn hữu của bà không mấy người còn sống, nhưng biến cố ghê gớm về cách chết của bà qua báo chí, đã thu hút nhiều xe khách đến từ bốn phương trời.
Gia đình bà đứng trước mộ huyệt chưa lấp đất, chẳng đếm xỉa gì đến đám đông này, trừ bà Elinor. Bà ngó quanh rồi nói một cách bực bội:
- Phải chi dì ấy còn sống, thì tất cả những thứ này đã làm cho dì buồn lòng không ít.
Bởi vì bà Emma không thích những người thô lỗ. Tâm hồn bà nhạy cảm, tế nhị đối với con người, nhưng bà né tránh đám đông và suốt đời sống một cuộc sống gần như biệt lập, chỉ giao du với một số rất ít người mà bà quen biết. Nhưng cái chết của bà lại trở thành một chuyện công khai, báo chí rêu rao nhiều chi tiết, cả bà Bertha lẫn Jessica đã bị câu lưu.
Điều đó không thể nào ngăn chặn được Herbert đã năn nỉ ông William:
- Ông là một luật sư danh tiếng, thưa ông Asher. Ông đã bào chữa cho những kẻ trộm cướp mà ai cũng biết là chúng có tội. Bây giờ Jessica bị giam giữ, trong khi tôi có thể thề rằng cô ta hôm ấy có mặt ở nhà. Con bé cháu lại phải gởi vào cô nhi viện. Bà Bertha bị bắt vì bà ta đã có mặt ở đó, còn Jessica, tôi có thể thề rằng...
- Sự việc này không ở trong tay tôi, - Ông William đáp, giọng chắc nịch - tôi không thể làm gì được hết.
Ông mục sư lấy một nắm đất, bóp vụn ra và rải xuống mộ huyệt. Ông nói: “Bụi tro, hãy trở về với tro bụi!”. Ông tiếp tục đọc bài Thánh vịnh thì một con chim bỗng cất tiếng hót từ cành cây trên đầu ông. Ông William tự hỏi: con chim yến của bà Emma ra sao rồi? Người ta đã quên nó. Đúa con thứ ba của Winsten bắt đầu khóc. Thà đừng cho nó đến đây. Ông William không chấp nhận việc cho trẻ con có mặt trong đám tang, song Madge đã năn nỉ cho chúng đi. Đó là một biến cố của gia đình, cũng giống như sự sinh đẻ. Lũ trẻ cũng phải được cho biết, chúng phải có mặt tất cả ở đó, trừ đứa con trai thứ tư của Wensten còn quá bé.
Các nghi lễ cuối cùng đã chấm dứt, hai cảnh sát viên vẹt đám đông lấy đường cho gia đình của người quá cố ra xe. Họ trở về đóng cửa ở trong nhà, để mặc đám đông bàn tán với nhau ai là người có thể là thủ phạm, bà đầu bếp hay cô gái hầu phòng, con của bà ta. Họ đánh cá với nhau trong khi các người phu vun đất đắp mộ và chất các vòng hoa lên trên. Thân nhân của bà Emma chẳng còn ai để làm chuyện ấy. Ông William và bà Elinor đã gởi đến một vòng hoa thật lớn, đầy hoa hồng và hoa dương xỉ. Phía dưới chân nấm mồ là vòng hoa huệ đỏ của vợ chồng Edwin và Vera. Trên đầu là hoa hồng vàng của Madge và Winsten. Một ít người trong đám đông đã ném vào những cành hoa đồng nội, một đóa hồng vườn, những cành hoa a-lu-ét và cúc đầu xuân.
Bà Emma không phải là một người đặc biệt, ông William tự nghĩ, bà đơn thuần chỉ là một người đàn bà tốt bụng, có lòng thương người, tuy sống có hơi biệt lập. Nhưng cái chết của bà quá tàn bạo, vụ sát nhân này đã lôi kéo sự chú ý của nhiều người, và đã khiến cho nó trở thành quan trọng.

Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 6 năm 2015