Dịch giả: Văn Hòa
Chương 5

     erbert không còn như trước nữa, ông William nhận thấy thế. Trước đây, đi xe hơi trên con đường dài đến New York, nhất là trong mùa xuân, khi cây thù du trải bông từng cụm trắng ven đường, ông thích thú biết bao nhiêu thì nay ông cực lòng bấy nhiêu. Herbert trước đây là một tài xế bình tĩnh, không giao động, bây giờ thì trở nên khinh xuất và nông nổi. Chiều hôm trước, ông có phàn nàn với Elinor về việc này, nhưng anh ta đổ là tại đường làng xấu.
- Hễ Herbert lái xe vào con đường đó, thì anh ta tưởng mình có quyền vượt mọi xe trước mặt. Một giờ năm mươi dặm, anh ta cho là chưa đủ. Anh ta chạy sáu chục dặm và nếu anh ta tưởng là anh đang ngủ, thì anh ta cho chạy đến tám chục dặm giờ. Năm nay cảnh sát đã thổi còi đến gần cả chục lần.
- Đâu phải là tại đường xấu - Bà Elinor nói - mà tại Jessica. Herbert đã nhờ em nói với bác sĩ Viện trưởng tuần vừa rồi, hỏi xem Jessica bình phục chưa, để có thể về nhà, và đem chấu bé về trước khi nó khôn lớn quá. Con bé đã gần ba tuổi, và chỉ biết có cô nhi viện. Điều đó đã làm cho em thật sự khổ tâm.
Ông William không lòng dạ nào muốn nhắc đến Jessica. Qua bao năm cô ta bị nhốt, đôi khi trong lúc chuyện trò cũng có nhắc tới cô, điều đó làm sao tránh khỏi. Ông coi cô ta là nguy hiểm, và nhớ đến những điều cô ta đã nói với Madge. Nhưng chẳng ai nhắc đến chuyện ấy nữa, và thái độ của Winsten và Madge đối với ông cũng không có gì thay đổi trong những dịp họ về thăm, càng ngày càng thưa thớt hơn, kể từ khi sinh đứa con thứ bốn, một bé trai, nên đến lễ Noel vợ chồng họ cũng không về được. Mỗi năm họ về một hai bận, và ông William không tránh khỏi cảm giác khó chịu trước mặt họ, dù tên Jessica không có nêu lên. Nếu tình cờ có ai nhắc đến, Madge cũng có thái độ dửng dưng. Lũ con của cô đã thu hút hết sự chú ý của cô, và là đầu đề câu chuyện trong khi đàm đạo. Dù vậy, ông William cũng nhận thấy Madge ít chú ý đến chuyện các con nàng hôn ông để tỏ tình theo bổn phận.
Ông trở lại với chuyện bà Elinor đã nói. Ông hỏi:
- Chuyện Jessica, bác sĩ đã trả lời sao?
- Ông ta nói, có thể cho về thử, nếu cô ta muốn về nhà.
- Jessica có muốn không?
- Đó là điều còn phải tìm hiểu...
Chiếc xe chao đảo một cách nguy hiểm trong một khúc quanh, và ông William la lên:
- Đừng có chạy nhanh thế, Herbert!...
Herbert giảm tốc độ một cách bực tức, song ông William lặng thinh chẳng nói gì. Xe chạy chậm như vậy chỉ mấy phút. Ông William lại chú mục vào giấy tờ và tốc độ lại tăng lên. Một tiếng còi lanh lảnh vang lên, ông William mừng vì thấy xuất hiện một cảnh sát giao thông. Ông tự nhủ: để mặc Herbert thu xếp với viên cảnh sát. Ông ngả người ra sau, khoanh tay và lấy dáng điệu của một quan tòa. Herbert cố tình duy trì tốc độ thêm mấy giây, đoạn ngừng xe lại sát bên lề đường.
Viên cảnh sát đi mô-tô hét lên và đến bên cửa xe.
- Cái gì bắt anh chạy nhanh thế? Anh không biết chữ à? Không thấy các bảng hiệu sao? Chạy bảy mươi cây số giờ!
Herbert không chịu trả lời. Viên cảnh sát ra hiệu cho ông William hạ kính xe xuống và hỏi:
- Này ông, tại sao ông không bảo anh ta chạy chậm lại?
- Tôi đã nói nhiều lần rồi! - Ông William bình tĩnh trả lời.
- Tại sao ông không cho anh ta nghỉ việc?
- Anh ta lái xe cho chúng tôi nhiều năm rồi.
Viên cảnh sát nói:
- Vẫn tịch thu bằng lái dù có lái xe lâu năm cũng vậy, nếu hắn còn tiếp tục...
Ông William mỉm cười.
- Tôi cho là anh ta đáng tội.
Viên cảnh sát có vẻ bớt giận đôi chút, anh ta nói:
- Ngài đi đâu?
- Tôi phái có mặt ở tòa án vào lúc ba giờ. Tôi là cố vấn luật pháp trong vụ thành phố New York chống lại Marty Malone.
Viên cảnh sát do dự:
- Tôi không được phép bỏ qua cho ông như thế.
- Tôi có thể nhờ người khác đưa tôi đi, tôi để xe và tài xế lại cho ông.
Viên cảnh sát vẫn do dự, sau cùng anh ta nói:
- Không. Tôi bỏ qua cho lần này. - Rồi anh ta nghiêng mình nơi cửa trước để dằn mặt Herbert - Nếu tôi còn bắt gặp anh lái như thế nữa, chắc chắn anh sẽ mất việc. Mất bằng lái vĩnh viễn. Tôi bảo thật đấy.
- Có thể tốt. - Herbert nói, hai hàm răng cắn chặt, cái miệng nhỏ biến mất giữa hai cái má núc ních mỡ.
- Có thể tốt! - Viên cảnh sát lặp lại cách châm chọc - Có thể, chắc chắn là tốt. Đã vậy, đây là lần cuối cùng. Bây giờ, anh có thể chuồn đi.
Viên cảnh sát ra hiệu cho xe chạy tiếp. Ông William làm thinh, nhưng vẫn nghĩ không biết Herbert có sợ không?
Đến văn phòng trễ, ông vội vã sắp xếp nơi bàn giấy và bắt gặp mẩu tin nhắn điện thoại của bà Emma. Ông định dời lại ngày khác sẽ gọi cho bà ta, nhưng sực nhớ bà dì vợ tuổi đã khá cao, sức khỏe mong manh, nên ông liền điện xin liên lạc ngay với bà. Qua đường dây thành phố, tiếng nói già nua run rẩy của bà Emma vẳng đến tai ông với một giong the thé:
- William, phải anh đấy không?
- Phải, thưa dì Emma. Tôi có thể giúp gì được cho dì?
- William, tôi vừa nhận được thư của Jessica.
- Cô ta muốn gì? - Ôm của nó, nhanh như chớp, đánh văng cái đĩa xuống sàn nhà. Cũng bàn tay đó, nay đã trở nên thanh mảnh, được chăm sóc kỹ càng, móng sơn màu hồng san hô và trên ngón tay đeo nhẫn, ông thấy lần đầu tiên một viên kim cương lấp lánh trước mắt ông như một ngọn đèn.
- Ba có thích không?
- Ba nhìn thấy trong đó nhiều cái khác. - Ông nói cộc lốc.
- Viên kim cương đẹp thật! - Bà Elinor nói, cố gắng đánh tan sự khô khan của chồng.
- Peter lấy đâu ra tiền mà trả?
Ông William lầm bầm. Ăn nói tế nhị cũng vô ích thôi. Bọn trẻ không biết cái đó có nghĩa gì. Jessica đã rập khuôn theo đám thiếu nữ củà một thời khác.
- Chắc ba sẽ bỡ ngỡ nếu ba biết làm ga-ra lời đến chừng nào. - Susan nói với vẻ thỏa mãn - Hơn nữa, chúng con mua theo cách trả góp.
- Ồ, Susan! - Mẹ cô kêu lên.
- Cái gì thế, mẹ?
- Mượn tiền để sắm nhẫn đính hôn!
- Tại con không thích hột nhỏ.
- Tùy ý con, tùy ý con! - Ông William nói.
- Ô kê, papa!
- Tiếng Anh của con rồi sẽ hỏng hết, nền giáo dục đại học không chịu nổi một cái ga-ra. Ba giả tỉ...
Ông cảm thấy ông đã tiến khá xa. Đôi mắt màu nâu của Susan ánh lên vẻ giận dữ khi nhìn ông. Ông khẽ nhún vai, nói:
- Ba không thích cãi trong bữa ăn, và sau đó chẳng đâu vào đâu cả.
- Không, không có đâu. - Susan nói.
Ông William đứng lên, dửng dung để đống chén bát lại cho hai người đàn bà, ông vào phòng khách phía Đông mà hút ông điếu. Ở nơi yên tĩnh này, trẻ con và tôi tớ đi hết, ông suy nghĩ đến loại người ngợm, đến Peter và hàng triệu triệu người giống như hắn, không cổ lỗ song dốt nát, vai u thịt bắp mà thiếu đầu óc, hoặc là có đầu óc nhưng thiếu lịch thiệp, ăn nói thô tục, đến đỗi hắn có sống cũng như không. Ông thương hại cho lũ con của ông: Winsten, một người cha trẻ trong khuôn mẫu đã lỗi thời, và Edwin rất trí thức, chỉ được sống sót nếu luật pháp tiếp tục trị vì. Cho là luật pháp bị lật đổ đi, dưới sự xung kích của cách mạng, thì chính Peter sẽ là nhà cách mạng không thể nào tránh khỏi, không phải Edwin, cũng không phải Winsten. Edwin sẽ bị thanh toán. Đó là từ văn minh thay tiếng giết người. Họ sẽ cho Winsten được sống nếu hắn phục tùng, và hắn sẽ phục tùng vì sợ cho vợ con hắn. Edwin không bao giờ đầu hàng, và vì thế sẽ bị giết đi. Ông William thích thú vì cái từ cứng cỏi của thời xưa: “Giết”. Đó là từ đích thật, còn từ “thanh toán” chỉ là lừa dối. Peter hối hận khi giết con chó của hắn, nhưng hắn sẽ không ngần ngại giết một con người thông minh và có giáo dục hơn hắn, nếu về sau, thời cơ thuận lợi, con người này tìm cách bảo vệ luật pháp, nền luật pháp mà Peter muốn thấy bị đạp đổ. Susan có bao giờ hiểu được thằng chồng của nó? Nếu cơ hội như thế xảy đến, Susan sẽ đứng về phía con người thô lỗ ấy hay sẽ trung thành với huyết thống của này? Ông William tự hỏi, nhưng làm sao tin được một người đàn bà mà tình yêu bị lâm nguy?
Những tư tưởng u buồn trôi qua trong một đêm mùa hạ...
- Ba làm gì đó? Sao ngồi trong bóng tối thế? - Susan hỏi với giọng ngọt ngào, êm như nhung, nhưng vẫn cố chấp.
- Ba suy nghĩ. - Ông William nói.
Susan không tìm biết cha cô đang suy nghĩ về vấn đề gì. Cô bấm hết nút đèn này đến nút đèn khác, cho đến khi cả gian phòng lớn và yên tĩnh chan hòa ánh sáng. Chắc chắn cô ta đâu có cần biết cha cô đang suy nghĩ gì.
- Con không muốn làm ba phiền lòng. - Susan dịu dàng nói.
Cô ngồi trên chiếc ghế nệm dài giữa vùng ánh sáng, tựa mình vào cùi chỏ, co hai chân lại. Cô mặc áo dài xanh nhạt, tay cụt, váy rộng, xem vóc dáng thì cô chỉ là một cô bé, một cô bé đáng gờm, ông William tự nhủ, nó được quý mến, được nuông chiều, quá thông minh và quá đáng yêu.
Qua bao nhiêu năm, ông biết Susan chỉ thích làm cho người ta để ý đến mình, và ông đột ngột hỏi:
- Ba muốn biết, các con đã chôn con chó ở đâu?
Ông biết, khi nêu lên câu hỏi này là ông có hậu ý. Ông muốn biết chắc một lần cuối là con vật tai họa đó không còn nữa.
- Peter đã mang nó ra ngoài đồng và vất vào hầm đá bỏ hoang.
Hầm đá này đầy nước, sâu không đáy. Nhiều năm về trước, nó được dùng làm hồ tắm, trẻ con ở nông trại đến tắm ở đây cho đến ngày có một đứa bị chết đuối mà không tìm được xác. Từ đó cái hồ nước này bị cấm sử dụng.
- Được, thếlại cọn chó mực ngay tức khắc.
Hai mắt của Susan mở to:
- Ngay bây giờ?
- Ngay bây giờ. - Ông William nói chắc nịch.
Ông liếc nhìn bà để biết bà có ý kiến gì về chuyện này không.
Ông chẳng thấy gì khác thường. Nắng chiều chiếu lên mái tóc rực rỡ và gương mặt bình thản của bà. Madge có thể là người trọng danh dự, cô ta chỉ tâm sự với chồng, và ông tin cậy vào con trai ông. Càng sớm càng tốt, ông sẽ cho bà Elinor biết câu chuyện hoang tưởng khốn nạn này, khi con chó đã được mang đi nơi khác, và Herbert có cơ hội thực thi ý muốn của anh ta... Trong thâm tâm, ông William có cảm nghĩ là mình có lỗi, khi có thể nói được là ông nộp Jessica cho cái tên đực rựa ấy, nhưng biết đâu đó lại chẳng là chuyện cô ta đang cần. Cả đời cô ta được nuông chiều, nuôi ăn nuôi ở, những háo hức của cô ta đã được vuốt ve. Không ai ép cô ta làm bất cứ việc gì, người ta chịu nhường cô trong tất cả, khởi sự từ ông già gan dạ Heinrich, cha cô, bà Bertha cũng thế dù bà có đánh đập, giận dữ, và chắc cả bà dì Emma nữa. Họ đã quá đề cao một cô con gái có sắc đẹp, có khá nhiều tài năng, nhưng bị bắt buộc, hay nói cho đúng hơn, bị dun dủi làm một người tì nữ. Nếu cần, để Herbert đập cho một trận nên thân, ông chỉ nói cho bà Elinor hay khi sự việc đã qua rồi. Nếu không, bà Elinor có thể ngăn cản anh ta.
Herbert lái chiếc xe màu xám đến trước sân hiên mấy phút sau đó, và ngồi im nơi ghế tài xế, Susan hỏi:
- Anh nghĩ sao, Peter?
- Sao cũng được. - Peter trả lời một cách khả ái.
Họ ra đi, và Winston xuống ngay lúc đó, có ý không để ông William ở lại một mình với bà Elinor. Bà Elinor hỏi:
- Madge đâu rồi? Mẹ xấu hổ vì đã ngủ suốt ngày, nhưng vì mẹ cảm thấy mệt nhọc sau ngày cưới của Edwin.
- Madge cũng cảm thấy mệt, và con đã bảo cô ấy đi nằm rồi.
- Ô, thật thế sao? Con nghĩ là Madge mệt hả...?
- Con không biết. Có thể là thế. Lát nữa sẽ hay.
Gương mặt trẻ trung của Winston có chiều lo lắng. Luôn luôn bận rộn trong vai trò làm bố, nó rất lo lắng cho vợ con - Ông William thầm nghĩ. Nhưng ông cảm thấy nhẹ nhõm vì Madge không đến. Bà Elinor nói:
- Chạy tới chạy lui suốt cả buổi sáng nay, làm sao mà không mệt được!
- Trẻ em chúng nó vòi vĩnh đủ chuyện sau bữa ăn trưa - Winston vừa đáp, vừa rót cốc tai cho mình - Susan và Peter đâu rồi mẹ?
- Herbert muốn nhờ đem con chó mực đi tức khắc - Ông William trả lời một cách có ý nghĩa - Ba đã kể cho anh ta nghe cảm giác mà vợ anh ta đã gây cho Madge sớm hôm nay. Anh ta cho là con chó có ảnh hưởng tai hại đến Jessica. Đã lâu, anh ta tin chắc như vậy.
- Thật là kỳ lạ - Bà Elinor nói, có vẻ bỡ ngỡ - Em không làm sao tin được Herbert lại cao kiến đến thế.
- Đó chẳng qua là một ý nghĩ thôi. - Ông William ôn tồn nhận xét.
Winston vẫn giữ im lặng, anh lo quậy ly cốc tai, mắt ngó xuống.
- Con đừng làm khổ mình vì Madge - Mẹ anh bảo - Mẹ thấy con của con có sinh ra tại đây như tụi con, thì cũng tốt thôi.
- Con nghĩ đến công việc của con - Winston đáp - Sáng mai con phải gọi điện sớm.
- Nói tóm lại, phải chờ hết ngày hôm nay đã. Chúng ta đi ăn tối thôi.
Gần nửa đêm ông William mới nghe tiếng xe hơi ngừng lại trước sân hiên, ông không đi nằm, lấy cớ là có giấy tờ cần xem xét, và ngồi lại một mình khi bà Elinor bỏ đi.
- Em chỉ ngủ một mắt thôi - Bà nói - Em thấy Madge có vẻ khác thường. Chắc sắp có tin mừng.
Bà Elinor lên lầu thăm Madge. Khi trở xuống, bà bảo:
- Winsten đã điện thoại cho bác sĩ, và đã giữ phòng ở nhà hộ sinh rồi.
- Thà là vậy - Ông William nói, vẻ lơ đãng - Anh không thích các cô y tá trong nhà. Anh chẳng bao giờ thích như thế cả.
Bà mỉm cười thân ái, và hôn ông. Bà nói:
- Hỡi ông trạng sư già khú đế của tôi, anh chẳng quan tâm gì đến các trẻ sơ sinh cả. Em nghĩ như vậy.
- Anh yêu chúng nó khi nào chúng nó được tắm rửa sạch sẽ, áo quần tươm tất.
- Anh luôn luôn hành động như thể anh chẳng liên quan gì đến con cháu của chúng ta cả.
- Sự tham gia của anh khá mù mơ.
Bà nắm cánh tay ông và lắc nhẹ, rồi nói trìu mến:
- Anh nói chuyện trên trời dưới đất gì đâu!
Ông ngước mặt lên cười với bà, và bà cúi xuống để hôn ông. Ông giữ bà lại một lát. Tay ông đặt sau gáy bà, ông hỏi:
- Em có luôn luôn sung sướng với anh không?
Ông tưởng chừng thoáng thấy hai hàng mi của bà hơi rung động. Bà nói:
- Không, mà có!
- Ờ kìa, Elinor?
- Ôi, đừng nói đến chuyện ấy nữa, muộn rồi.
- Không, không muộn. - Ông nói, hơi giận - Đến đây, ngồi xuống bên anh đây. Vây thì, có khi nào anh chiếm đoạt em trái với ý muốn của em không?
Bà ngồi đó, đôi mắt xanh mở to và bắt đầu chậm rãi rút các cây kim găm tóc, tháo tung mái tóc ra trước mắt ông. Bà trẻ lại từng phút, từng phút tùng giây.
- Nếu ông chưa hiểu, thì mặc kệ ông, ông ngố ạ! Chắc chắn là ông có bắt buộc tôi, ông không có cưỡng dâm tôi, cũng chẳng làm cái gì khờ khạo như thế. Nhưng mà hàng trăm hàng ngàn lần, người đàn bà không có sẵn sàng, nhưng họ nhượng bộ vì sợ người chồng ngày hôm sau nổi cáu, khó chịu, càu nhàu với con cái, và bởi vì cái đó cũng chẳng có đáng gì...
Ông nhìn bà và cảm thấy có cái gì sụp đổ trong ông. Ông nói lắp bắp:
- Elinor, Elinor, em đã không...
Bà ngó nghiêng ông với vẻ chống đối:
- Đúng, và ông bắt tôi thú nhận một điều tôi đã không muốn nói cho ông nghe, hiện cũng không muốn nói. Thế mà ông lại sắp nổi khùng với tôi. Người đàn ông thật là phi lý, loạn động, buồn cười... Các người không ngừng muốn phóng đáng, ái ân, nhục dục, nhưng luôn luôn theo ý thích của các người, không cần biết người đàn bà có thích hay không, có ưng thuận hay không, có sẵn sàng hay không. Các ông hãy nhớ lại xem, cái điều mà không người nông dân nào không biết. Chuyện con bò đực và con bò cái ấy mà. Con bò đực luôn luôn sẵn sàng, chờ đợi, nó phải nhẫn nại cho đến khi con bò cái sẵn sàng. Chỉ có giống cái của con người là bị bắt buộc chối bỏ bản chất của riêng mình, hay ít nữa giả bộ chối bỏ. Sau rốt, các ông từ chối nhìn vào sự thật. Bọn đàn ông các người điều khiển thiên nhiên và nhắm con mắt lại trước những gì hiện hữu.
Ông la lên:
- Elinor, em có điên cái đầu không?
Bà hất dải tóc đã hắt qua vai, nhìn ông bằng nét nhìn rạng rỡ và thẹn thùng. Bà dịu dàng nói:
- Em thấy khỏe khoắn lạ thường. Em tưởng đã nhiều năm em muốn nói với anh về điều đó. Nay em đã nói rồi. - Bà chấp tay lên ngực - Cám ơn anh, William, vì đã tạo cho em cơ hội để nói ra sự thật.
Bà thở ra một hơi thật dài. Không phải thở ra vì buồn chán, nhưng là một cái thở dài được giải thoát, được cởi bỏ một gánh nặng, và ông nhìn bà sửng sốt.
- Tại sao đã bao nhiêu năm nay em muốn nói mà không nói cho anh hay?
Bà trả lời một cách khác lạ:
- Bây giờ em không dám. Em sợ ảnh hưởng nơi anh.
- Bây giờ phải chăng là em đã hết sợ anh rồi? - Anh nói với một nỗi buồn nào đó.
Bà lắc đầu và các lọn tóc búng ra, xõa xuống hai bên mặt bà. Bà nói:
- Không. Có lẽ vì con cái chúng ta đã lớn khôn cả rồi. Em không thấy có lý do nào khác.
- Anh không hiểu nổi em - Ông nói - Anh đã yêu em và lâu nay chỉ yêu một mình em, mặc dù thế, anh vẫn không hiểu được em.
Bà đứng dậy, đến bên ông, ôm choàng lấy ông, kéo đầu ông ép vào bộ ngực có mùi thơm dịu ngọt của bà.
- Điều ấy luôn luôn thật tuyệt vời, thật kỳ diệu biết bao, - Bà khẽ nói - và điều kỳ diệu hơn hết là nó vẫn còn hiện hữu, là bây giờ chỉ còn anh với em. Chúa đã sắp xếp mọi sự, khi người trao những nỗi lo lắng về trẻ thơ cho những người vợ trẻ.
Ông rúc mặt vào bộ ngực của bà - ông cũng thì thào và tha thứ cho bà tất cả. Ông nói:
- Ôi, Elinor, anh sẽ chẳng bao giờ có đủ thì giờ để sống với em.
- Tất cả thì giờ còn lại. - Bà vui vẻ nói. Bà cúi xuống hôn lên môi ông, hôn một cái thật mạnh, đánh chụt.
- Em đi ngủ đi, và đừng thức khuya.
Bà rút mình ra khỏi vong tay ông, và ông bỗng nhìn bà, nét mặt hàm chứa một câu hỏi. Bà bật cười và nhẹ nhàng nói:
- Không, không, không. Đêm nay thì không, nhà đầy trẻ con, Madge thì sắp vào bệnh viện, mà con chó ghê tởm thì sắp đem về.
Bà khẽ rùng mình, bước đi vội vã, nhưng dừng lại ở ngưỡng cửa để nói tiếng cuối cùng:
- Anh William, em cám ơn anh.
- Đừng cám ơn anh. - Ông nói lẩm bẩm trong miệng, rồi trở lại với giấy tờ và cố không nghĩ đến bà nữa.
Giữa tất cả những gì mà bà đã nói, những gì đã vụt hiện đến trong trí bà, khó mà phân biệt được cái gì là thật. Trong tất cả các người đàn bà, đều có chút ít giống Jessica.
Ông không buồn ngủ, và khi nghe thấy tiếng xe hơi vào lúc gần nửa đêm, ông rón rén đi ra cửa chính vẫn còn bỏ ngỏ. Madge chưa đi bệnh viện, trên lầu tối om, trừ ngọn đèn chong đêm ở sảnh.
- Cả hai, đừng có làm ồn. - Ông khẽ nói khi xe ngừng lại.
- Có gì xảy ra thế? - Susan hạ thấp giọng, hỏi.
- Madge sắp chuyển bụng. Nhưng các con có cái gì đó?
Cả hai đang lôi một cái xác đen từ sau xe ra.
- Con chó đấy ba ạ. Peter phải giết nó.
- Một ngày thật kỳ lạ! - Ông William càu nhàu - Các con định làm gì nó vậy?
- Peter sẽ để nó sau gốc cây soan cho đến ngày mai - Susan nói - Nếu để nó trong xe thì hôi cả chiếc xe.
Peter chẳng nói chẳng rằng, nắm hai chân trước của con chó, kéo nó đi và quẳng nó sau đám cây soan. Rồi anh ta leo lên gác, có vẻ kiệt sức.
- Không bao giờ tôi tin là tôi đủ sức giết một con chó. - Anh ta nói.
- Vào thư viện đi. - Ông William khẽ nói - Có chuyện gì đã xảy ra thế?
Hai người lẳng lặng đi theo ông.
- Tôi muốn có cái gì uống. - Peter nói, da mặt ngăm ngăm của anh ta trở nên sẫm hơn thường ngày. Susan nhìn anh ta lo lắng.
Ông Williajn mở tủ cẩn trong tường, lấy ra một chai rượu uých ky và ba cái ly. Ông rót vào mỗi ly một ít và cả ba người uống từ tới anh ấy.
- Con hãy giải thích cho ba nghe, tại sao con yêu nó? - Ông lại hỏi lần nữa.
Câu hỏi này làm cho Susan luống cuống, đến độ khô:10px;'>
Susan bắt đầu:
- Khi chúng con đến thì Jessica đang ngủ, dĩ nhiên là Herbert lên trước. Sau khi liếc vào phòng, Herbert trở xuống và nói: con chó ở trong phòng, nhưng không cột nên tôi không dám vào. Thế rồi, tới phiên Peter lên và con đi theo. Herbert đi sau hết.
Câu chuyện Susan kể rõ ràng, nhưng ông William nhận thấy con gái ông cô dằn lòng không lộ vẻ ghê tởm. Cả ba lên thang gác, đi rón rén để không đánh thức Jessica và con bé trước khi đem được con chó ra.
Susan hỏi Herbert:
- Khi anh về muộn, cô ấy có thường thả con chó ra không?
- Cô ấy thường giữ nó bằng một sợi dây dài.
Jessica liền thức giấc, cô ta lớn tiếng hỏi:
- Có phải anh đó không, Herbert?
- Trả lời đi - Susan nhắc.
- Phải, anh đây - Herbert nói với giọng cầu hòa - Anh đã thử đi vào, nhưng anh nghe tiếng con chó. Em không cột nó.
- Herbert, chớ vào. Em cố ý thả nó ra đấy.
Herbert quay cái mặt bánh đúc tái mét ngó Susan và Peter. Một bóng đèn trên trần nhà chiếu ánh sáng thẳng vào họ. Herbert hỏi:
- Tôi phải làm gì bây giờ đây?
- Anh hãy nói với cô ấy là chúng tôi đến để bắt con chó lại.
Con chó sủa một cách dữ dằn, vừa thở vùa tru. Herbert nói nhỏ nhẹ:
- Cô Susan và cậu Peter đang ở đây. Peter muốn đem con chó đi.
Jessica không trả lời. Chỉ nghe tiếng con chó sủa. Peter lại nói:
- Để tôi vào, con chó nó quen tôi.
Nhưng cửa vừa mở ra, con chó liền nhảy chồm lên người Peter, con chó đứng thẳng trên hai chân sau, nó chồm đến vai Peter. Một bàn tay Peter khóa miệng con chó lại, còn Herbert thì hai mắt nhắm nghiền, lưng tựa vào cánh cửa, rên rỉ. Susan nhảy đến chụp hai chân sau của con vật, kéo giựt ra sau làm nó ngã xuống đất. Peter kêu lên:
- Cô này gan dạ thật, em nắm chân nó cho chắc, để anh bóp cổ nó.
Trong thư viện, Susan ngó thẳng vào mặt cha và nói thêm:
- Con giữ chân, còn Peter xiểt cổ cho đến khi nó tắt thở. Con có nghe Jessica la lên: “Giết chúng đi! Giết hết chúng đi”. Con giận quá đã hét lên: “Jessica, câm miệng lại...”. Người ta có thể cho đó là một căn phòng chứa một lũ điên. Herbert khóc to lên, còn Jessica thì cứ lặp đi lặp lại “Giết chúng đi! Giết chúng đi!” Cô ta ngồi trên giường, mình mặc áo ngủ bằng lụa, ngoài choàng một cái áo khoác nhỏ duyên dáng, vải phủ giường màu hồng. Chỉ có con bé là đang ngủ.
- Các con làm gì khi con chó đã chết? - Ông William hỏi mà miệng khô khốc. Ông hóp thêm một ngụm uých ky nữa.
Susan kể tiếp:
- Peter kéo con chó xuống thang, chúng con đẩy nó vào thùng xe và trở về.
- Tròi! - Peter nói, giọng nặng nhọc - Không bao giờ con tin là con có thể giết chết một con chó. Con luôn thương con chó đó, lẽ ra con không nên đem nó về đây, mà để nó ở nhà con, cũng là nhà của nó. Theo cái kiểu chiều nay thì nó có thể ăn tươi nuốt sống Herbert. May phước cho anh ta, chúng con đã có mặt.
- Em nghĩ là anh đã cứu sống anh ta, nếu anh ta đáng cứu... Nhưng em nghi điều đó. Em khinh người đàn ông hay khóc... Em thì chẳng khóc bao giờ.
- Chúng ta đi ngủ thôi. Ba chịu hết nổi rồi. - Ông William nói.

*

Sáng sớm hôm sau bà Elinor đặt bàn tay mát rượi của bà lên trán chồng, ông thức dậy. Bà vui vẻ nói:
- Dậy đi thôi, ông nội!
Ông tỉnh hẳn, trỗi dậy và hỏi:
- Madge đã...?
- Một bé gái! - Bà nói vui vẻ hồn nhiên.
- Lại con gái nữa! - Ông lẩm bấm, tỉnh hẳn.
- Có nhiều quá không?
- Còn tùy. - Ông nói. Ông ngáp, rồi mang giày vải vào chân.
Bà dừng lại ở cửa, và gởi ông một cái hôn gió.
- Anh có vẻ mệt đây. Anh có muốn nằm nghỉ sáng nay không? Herbert chưa đến.
- Ồ không... Anh dậy đây. Susan đã thuật chuyện con chó cho em nghe chưa?
- Nó đến phòng em tối hôm qua, dựng em dậy để kể cho em nghe. Kinh khủng thật, phải không anh? Em nghĩ từ nay Jessica sẽ khá hơn.
- Anh cũng không biết nữa! - Ông càu nhàu từ trong phòng tắm vọng ra.
Bà Elinor không nghe thấy. Bà xuống nhà, sung sướng vì con bé mới sinh. Bà đã mơ ước một cháu gái, ông William cũng biết vậy. Đầu óc ông tối tăm một cách lạ. Ngày hôm nay có lẽ chẳng tốt gì. Họ không giải quyết được gì nhiều về trường hợp của Jessica.
Đến xế trưa, ông lại được tin xấu hơn. Ăn sáng xong, không thấy đứa con nào, ông rút lui vào thư phòng, không dám ngó qua cửa sổ vì sợ thấy con chó chết ở sau bụi soan. Susan còn ngủ, và chắc Peter cũng thế. Thanh niên thời buổi này có vẻ như ngủ suốt ngày cũng được. Ông nghĩ, đó cũng là lối thoát cho nhiều vấn đề nan giải của thời nay. Không ai biết cách thoát ra khỏi chiến tranh. Chính quyền thì thối nát đến mức độ kinh hoàng, đàn bà thì điên, chó thì hóa dại, còn đám thanh niên thì ngủ khì.
Đã mười một giờ. Ông William không chịu đi với vợ đến bệnh viện để thăm Madge và cháu bé. Có lẽ ông đợi cho đủ hai mươi bốn tiếng đồng hồ, để đứa bé dễ xem hơn. Tại thư phòng, cửa sổ trong cùng mở ra phía vườn rau để đón gió, vì trời nóng. Vì vậy, ông nghe rõ ràng có tiếng kêu la của bà Bertha. Ông liền đặt bút xuống, nhưng chưa kịp đứng lên thì Bertha đã nhào vào phòng, chân không mang giày như những khi ba ở trong bếp, nhất là về mùa hè, khi hai chân bà sưng lên.
- Ông Asher! Ông Asher!
Bà ta khóc nức nở, mặt đỏ gay.
- Cái gì vậy? - Ông William gắt lên.
- Thưa ông. Herbert đang ở đầu dây. Jessica đã hóa... thật khủng khiếp!
Ông William cầm lấy ống nghe ở bàn viết, và nghe bên kia đầu dây những tiếng kỳ lạ.
- Herbert! - Ông quát lên.
- Ôi, thưa ông Asher, - Herbert rên rỉ - con xin ông, ông có thể đến đây ngay không?
- Làm sao được! - Ông William nói cách cương quyết - Trước tiên, phải cho tôi biết là cái gì thế đã.
- Của Jessica, thưa ông. Ông không nghe tiếng cô ta sao?
- Tôi nghe tiếng chó sủa. - Ông William đáp.
- Cô ta đấy! - Herbert lại la lên - Cô ta bò bốn chân dưới đất, và bò vòng trong phòng. Cô ta bắt chước con chó và hoàn toàn điên rồi. Con chẳng biết làm gì bây giờ. Con bé đói mà con chẳng biết làm cách nào để cô ấy cho nó bú được. Cô ấy còn tìm cách để táp đứa bé. Con không thể ngăn cô bò vòng quanh và sủa như chó.
- Ôi, lạy Chúa! - Ông William kêu lên - Để tôi gọi xe cứu thương. Lạy Chúa... Anh hãy trông chừng Jessica nhé, Herbert!
Nhưng khi đã gọi bác sĩ, đã giải thích ca bệnh và xe cứu thương đã đến, ông cảm thấy là chính ông phải đi. Đường ở thôn quê quá xấu, muốn đi mau ông phải ngồi bên tài xế để giục. Một cô y tá, một sinh viên y khoa đã ngồi trong xe, đem theo áo để bắt người điên và một cái băng ca.Con bé bụ bẫm nhìn ông bà, suy nghĩ, không sợ mà cũng không còn có vẻ thân thiện, thái độ của một đứa trẻ suốt đời sống giữa những người không quen.
Nhiều phút trôi qua. Anh ả có thể làm gì? Bà Elinor tự hỏi mà không có ý định đi tìm họ. Sau năm phút, Herbert và Jessica trở lại.
- Xin tạm biệt ông bà Asher - Jessica lễ phép nói - Gặp lại ông bà, con thật sung sướng. Khi nào rỗi rảnh, xin mời ông bà đến chơi nhà chúng con.
- Cám ơn. - Bà Elinor đáp, kinh ngạc.
- Đến đây, Monica. - Jessica bảo con.
Herbert do dự. Có lẽ anh ta muốn nói gì đó. Anh ta ngó Jessica đang đi ra xe, rồi cúi xuống thưa với ông William:
- Cô ấy nói, ông chẳng cần lo nghĩ về chuyện ông bắt cô đi học... Con chẳng biết cô ấy nghĩ gì trong đầu, nhưng đây là điều cô ấy đã nói.
Ông William mất bình tĩnh:
- Trời đất, đó là ý của cô ấy, không phải của tôi.
Herbert tỏ vẻ khó tin.
- Thưa ông, cô ấy nói rằng không nên tin là ông bắt cô làm điều ấy, chỉ có thế.
Anh ta đi ra, lên xe và lái vụt đi hết tốc độ.
Ông William ngó theo đám bụi mù sau chiếc xe và nói:
- Có bao giờ em thấy một cảnh sỗ sàng như thế chưa?
Bà Elinor lắc đầu:
- Chúng ta hãy quên họ đi, không hiểu được họ đâu. Em mừng vì Herbert đã ra đi. Chúng ta đừng bận tâm đến họ nữa. Nhưng tội nghiệp con bé.
Bà nằm dài trên một cái ghế xếp, mặt hướng về phía vầng thái dương và nhắm mắt lại. Ông quan sát vẻ mặt thanh thản của bà và cảm thấy cần bắt chước theo. Bà đã tổng hợp những kết luận riêng của bà về loài người. Vào giờ phút hiện tại, bị đặt đối diện với những hạng người kỳ cục, không hiểu nổi, chỉ có cách là quên họ đi. Chỉ có lịch sử mới làm sáng tỏ vấn đề, biết quan sát riêng rẽ các giai cấp theo thứ tự. Bây giờ thì hãy hoan nghênh mặt trời đang chiếu trên người ông và bà Elinor, trong lúc họ chấp nhận những gì họ không hiểu được.