Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
BỐN BỨC THƯ CỦA TÁC GIẢ
nói về Những linh hồn chết.

Phần thứ nhất

{Bốn bức thư này in trong chương XVII của cuốn Trích thư từ gửi các bạn tôi xuất bản cuối năm 1846; nhưng những thư này chỉ là những lời thanh minh của tác giả, không phải là những thư gửi đi cho ai cả}
 
I.
Anh có tỏ ý phẫn nộ vì cái giọng quá quắt của một số lời chỉ trích Những linh hồn chết. Tôi thấy như thế không được đúng: việc đó cũng có mặt tốt: đôi khi cũng cần có người phỉ báng mình. Người nào đã mê say với những cái đẹp rồi thì không thấy được những cái xấu, cho nên cái gì cũng dung thứ cả; ngược lại người nào đã muốn dèm pha thì cố tìm cho ra những cái xấu của anh và nêu rõ cái xấu đó lên đến nỗi buộc lòng anh phải thấy. Người ta ít khi có dịp nghe sự thật lắm; cho nên chỉ cần được một phần nhỏ sự thật thôi, người ta cũng đã có thể dung thứ cái giọng phỉ báng của kẻ lên tiếng nói sự thật. Những lời phê phán của Bungarin Xenlôpxki, Pôlêvôi có nhiều cái đúng, kể cả lời họ khuyên tôi nên học tiếng Nga trước khi có tham vọng viết lách {Những linh hồn chết phần thứ nhất, ra đời năm 1842, bị những nhà phê bình lạc hậu và phản động ghen ghét la ó. Trong tờ Tín sứ Nga, nhà phê bình lãng mạn chủ nghĩa N.A Pôlêvôi cho rằng Những linh hồn chết chỉ là một bức biếm họa, không thể xem là nghệ thuật được và tác giả chưa biết viết văn, còn mắc nhiều lỗi ngữ pháp; Pôlêvôi viết: “- Hãy gác sang một bên những cảm hứng bồng bột của anh mà đi học tiếng Nga đi!”. Có người chế giễu chữ poema ở bìa sách và suy diễn ra, gọi cả những sách giáo khoa vật lý học và sách dạy làm vườn là poema. Nhưng những lối phê bình ấy làm cho quần chúng chân chính rất căm phẫn}. Quả nhiên, giá tôi giữ bản thảo trong ngăn kéo thêm một năm nữa, chứ đừng vội vã cho in; thì chính bản thân tôi cũng đã thấy rằng không thể nào đem nó ra mà xuất bản dưới một hình thức kém cỏi như vậy. Tuy những bài thơ châm biếm và những lời chế giễu lúc đầu có làm cho tôi khó chịu thật; nhưng vẫn rất bổ ích cho tôi. Ôi! Những lời dèm pha liên miên ấy, cái giọng phỉ báng và những lời chế giễu cay cú ấy, thật có lợi cho ta không biết bao nhiêu mà kể! Trong thâm tâm ta thường giấu nhiều tự ái ti tiện, nhiều tham vọng xấu xa, đến nỗi ta cần phải luôn luôn bị châm chích, đánh đập bằng đủ mọi thứ khí giới; và phải cảm ơn bàn tay đã đánh ta.
Tôi những mong được phê phán nhiều hơn nữa, nhưng lại muốn rằng người phê phán không phải là những người làm văn học, mà là những người có kinh nghiệm về thực tế. Tiếc thay, ngoài những người làm văn học, không có một bộ óc thực tiễn nào lên tiếng cả. Tuy nhiên Những linh hồn chết cũng đã gây nên lắm xôn xao bàn tán, lắm lời đồn đại, đã xúc phạm đến lòng tự ái của khá nhiều người vì lối giễu cợt, vì tính xác thực, vì lối biếm họa. Tuy đầy rẫy những sự lầm lẫn, sai lệch hiển nhiên; nó cũng đả động đến một tình hình mà ai nấy đều được chứng kiến hàng ngày. Tôi lại còn xen vào đấy một số đoạn có tính chất khiêu khích, hy vọng rằng sẽ có người lên tiếng quát mắng tôi và trong cơn phẫn nộ, sẽ vô tình mách cho tôi biết cái sự thực mà tôi đang tìm kiếm. Tại sao chưa có ai lên tiếng cả? Ai ai cũng đều có thể làm việc đó, và có đủ cơ sở để làm việc đó. Người viên chức có thể công khai chứng minh cho tôi thấy rằng câu chuyện tôi kể là không xác thực, bằng cách kể ra vài ba sự kiện có thật đã xảy ra và như vậy là đã đưa ra một lời cải chính hùng hồn hơn bất cứ lời biện luận nào. Vả chăng, cũng bằng cách ấy, người kia cũng lại có thể xác nhận thêm những lời miêu tả của tôi. Việc dẫn sự kiện có sức thuyết phục hơn là những lời lẽ rỗng tuếch và những bài luận văn về văn học. Nhà buôn, trang chủ, nói tóm lại là bất cứ ai biết cầm bút, cũng đều có quyền làm như vậy; dù người ấy chỉ sống quanh quẩn trong nhà hay vẫn thường đi đây đó khắp đất nước Nga. Ngoài ý kiến cá nhân của mình ra, bất cứ người nào, dù giữ chức vụ gì, ở địa vị xã hội nào, nghề nghiệp, học vấn ra sao, cũng đều có dịp quan sát sự việc trên một quan điểm riêng. Với đề tài của Những linh hồn chết, lẽ ra quần chúng độc giả có thể viết nên một cuốn sách hay hơn Những linh hồn chết không biết bao nhiêu mà kể; một cuốn sách có thể dạy nhiều điều, không những cho tôi, mà ngay cho các bạn đọc nữa; bởi vì giấu giếm mà làm gì, chúng ta đều biết nước Nga rất ít.
Chao ôi! Tại sao không có ai công khai lên tiếng! Thật có thể tưởng chừng như mọi vật đều đã chết; và ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho Những linh hồn chết! Thế mà người ta lại trách tôi không biết rõ nước Nga! Làm như thể do một phép lạ của Đức chúa Thánh thần tôi nhất thiết phải biết rõ tất cả những sự việc xảy ra ở bất cứ xó xỉnh nào; phải học cho kỳ hết, không cần ai chỉ dẫn cả. Tôi làm thế nào mà học hỏi được! Thử nghĩ một nhà văn như tôi, vì nghề nghiệp phải ngồi ru rú ở nhà, sống cuộc đời khổ hạnh, lại thêm bệnh tật nữa và buộc lòng phải sống xa nước Nga; thì còn học hỏi làm sao được? Tôi không thể học hỏi các nhà văn hay các nhà báo, vì họ cũng sống cô độc và quanh quẩn trong phòng giấy. Nhà văn chỉ có một người thầy: bạn đọc. Thế nhưng những bạn đọc ấy đã từ chối, không chịu dạy dỗ tôi. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chịu trước Thượng đế một trách nhiệm ghê gớm vì đã không làm tròn bổn phận; nhưng tôi lại biết rằng những người khác cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm như thế. Và đây không phải là những lời nói suông: có Thượng đế chứng giám cho tôi, đây không phải là những lời nói suông.
1843
 
II.
Tôi đã cảm thấy từ trước là những đoạn mạn đàm trữ tình trong thiên trường ca của tôi sẽ bị hiểu sai. Những đoạn ấy thiếu minh xác, ít ăn nhập với tình tiết và phong cách của cuốn truyện, đến nỗi khiến cho những người công kích tôi, cũng như những người bênh vực tôi, đều bị lầm. Người ta đã tưởng lầm rằng tất cả những đoạn nói về nhà văn nói chung, đều nhằm nói về tôi cả; tôi đã lấy làm xấu hổ khi thấy họ giải thích những đoạn ấy để bênh vực tôi. Chẳng qua, cũng đáng kiếp cho tôi! Lẽ ra, dù sao tôi cũng không nên cho xuất bản một tác phẩm tuy cắt khéo, nhưng khâu thì lại vụng, bằng chỉ trắng lên vải đen; như một bộ áo quần mà người thợ may vừa lược chỉ qua để thử. Tôi lấy làm lạ sao người ta ít có lời chê trách tôi về nghệ thuật và nghiệp vụ như vậy. Âu cũng tại những người phê phán tôi quá phẫn nộ, mà cũng tại họ không đủ sức khảo sát cách cấu tạo của một tác phẩm. Lẽ ra phải nêu rõ phần nào có vẻ dài một cách quái gở so với các phần khác; ở chỗ nào nhà văn đã tự phản mình, vì không nhất quán dùng cái giọng mà mình đã chọn từ đầu. Thậm chí cũng không có ai nhận thấy phần thứ hai của cuốn sách không được gọt giũa bằng phần đầu; nó chứa đựng những chỗ hổng lớn; những nét thứ yếu được khai triển quá mức, choán hết chỗ của những nét chính; các chương quá khác nhau, làm cho cuốn sách có tính chất vá víu, khiến người đọc không thấy tinh thần chung của nó. Nói tóm lại, lẽ ra nhà phê bình có thể có những lời phê phán sáng suốt và chính xác hơn, chê trách tôi nhiều hơn và một cách đích đáng hơn không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Đây tôi muốn nói đến cái đoạn mạn văn trữ tình đã bị các nhà báo công kích nhiều hơn cả, vì họ thấy nó biểu lộ một sự kiêu ngạo, một lòng tự mãn {Biêlinxki phê bình Những linh hồn chết, phần thứ nhất, ngay khi sách mới xuất bản, trong tạp chí Niên san của Tổ quốc, ca tụng khả năng hiện thực chủ nghĩa và tâm hồn nhiệt thành của tác giả: nhưng cho rằng tác phẩm có những đoạn tỏ lòng yêu nước quá huênh hoang}, một lối khoác lác xưa nay chưa từng thấy ở một nhà văn nào. Đó là đoạn mạn văn ở chương cuối: sau khi tả Tsitsikôp ra đi, tác giả bỏ nhân vật của mình ở giữa đường thiên lý, thay mình vào chỗ đó và ngạc nhiên trước vẻ đơn điệu chán ngắt của sự vật, trước khoảng không gian bao la hoang vắng và tiếng hát ai oán từ dải đất Nga vang lên suốt từ biển này sang biển kia; trong một phút cảm khái, đã lên tiếng hỏi bản thân nước Nga, van xin nước Nga cắt nghĩa mối cảm xúc khó hiểu đang làm lòng mình thắt lại: tại sao cứ có cảm giác như tất cả mọi sinh linh, mọi sự vật trong nước Nga đều như đang nhìn mình đăm đăm và chờ đợi ở mình một cái gì? Người ta đã thấy trong những lời lẽ đó bằng chứng của kiêu ngạo, một sự huênh hoang không tiền khoáng hậu; nhưng thật ra đây không phải là huênh hoang, cũng chẳng phải là kiêu ngạo, mà chỉ là sự diễn đạt một cách vụng về của một tình cảm chân thành. Ngay giờ phút này, tôi vẫn còn cảm thấy ấn tượng đó. Tôi không sao chịu đựng nổi những âm thanh ai oán, não lòng của một bài ca Nga khi nó rung lên trong không gian vô tận của thôn quê ta. Những âm thanh ấy ám ảnh tâm hồn tôi. Thậm chí tôi còn lấy làm lạ sao mỗi một người trong chúng ta lại không biết đến cái cảm giác đó. Ai là người trông thấy những không gian vắng lặng, lạnh lẽo ấy mà không thấy lòng mình se lại; ai là người trong những âm thanh thê thiết của bài dân ca Nga, không nhận thấy những lời trách móc đau xót đối với bản thân mình - tôi nói rõ: đối với bản thân mình - thì người ấy đã làm xong bổn phận của mình một cách trọn vẹn, trừ phi không có một tâm hồn Nga.
Sự vật như thế nào, ta hãy cứ nhìn nhận nó như thế. Gần một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng đế Piôtr đệ nhất mở mắt ra cho chúng ta, dắt dìu chúng ta bước lên con đường văn hóa Âu châu, và đặt vào tay chúng ta đủ mọi phương tiện hành động: thế nhưng nông thôn của ta vẫn buồn tẻ và hoang vắng như xưa. Quanh ta mọi vật đều có vẻ ghẻ lạnh, thù địch; tưởng chừng chúng ta chưa phải đang ở trong nhà mình, mà chỉ là đang cắm trại trên đường trường; tưởng chừng đối với ta, nước Nga không phải là một nơi trú ẩn ấm áp, thân tình, mà là một ngôi trạm phủ tuyết lạnh ngắt; ở đấy chỉ thấy hiện ra một gã coi trạm lãnh đạm buông thõng một câu trả lời gắt gao: “- Không có ngựa!”. Tại sao lại như thế? Lỗi tại ai? Tại chính phủ hay tại ta? Nhưng chính phủ vẫn hoạt động không ngừng: chứng cớ là những tập quy chế, chỉ thị, sắc lệnh dày cộm, cái số khổng lồ những tòa nhà đã xây, những cuốn sách đã xuất bản; những thiết chế đủ loại, giáo dục có, từ thiện có, bác ái có; không kể những thiết chế mà ở nước ngoài không thấy chính phủ nào lập ra. Từ trên có những câu hỏi đưa xuống, ở dưới có những lời giải đáp đưa lên. Đôi khi ở trên đưa xuống những câu hỏi chứng tỏ sự đại lượng của một vài nhà vua đã dám hy sinh cả quyền lợi bản thân. Thế mà ở dưới đã trả lời ra sao? Tất cả đều tùy ở cách thức, ở nghệ thuật ứng dụng một tư tưởng sao cho nó thành hiện thực và đi hẳn vào đời sống. Một đạo dụ, dù nội dung có hay ho, dù lời lẽ có chính xác bao nhiêu chăng nữa, cũng vẫn chỉ là một tờ giấy không hồn; nếu ở dưới không tỏ ra có ý muốn đem ứng dụng nó theo một cách thức thích đáng, theo cái cách thức mà chỉ có người nào quan niệm sự công bằng dưới ánh sáng của Thượng đế, chứ không phải dưới ánh sáng của con người, mới tìm ra được. Nếu không, tất cả sẽ thành ra có hại. Chứng cớ là những tay gian lận và ăn hối lộ tinh ma của chúng ta vốn biết cách xoay xở với tất cả các quy chế; một đạo dụ mới đối với họ là một nguồn thu hoạch mới, một phương tiện mới để làm cho sự giải quyết công việc rối ren thêm, để thọc thêm một gậy vào bánh xe.
Nói tóm lại, nhìn về đâu tôi cũng thấy rằng thủ phạm chính là những kẻ có bổn phận thi hành pháp luật. Có người vì quá ước ao danh vọng và huân chương, mà đâm ra hấp tấp. Lại có người vì muốn tỏ ra nhiệt thành và tận tụy - một thói xấu rất Nga, - mà cứ đâm đầu vào công việc, không chịu khó nghiên cứu, những tưởng mình có thể điều khiển công việc một cách thành thạo; nhưng hễ thất bại một lần là nản chí ngay, và sau đó, - cũng một thói xấu không kém tính chất Nga, - lập tức thờ ơ với công việc. Lại có người, khi lòng tự ái nhỏ nhen của mình bị tổn thương, liền để lọt vào tay một tên trùm bịp bợm cái cương vị mà ở đấy mình đã bắt đầu phấn đấu cho chính nghĩa. Nói tóm lại, trong chúng ta, ít có người biết yêu cái thiện đến mức có thể vì việc thiện mà hy sinh tham vọng, tự ái cùng tất cả những cái nhỏ nhen của một lòng vị kỷ dễ đâm ra cay cú đến mức có thể khép mình vào một luật lệ bất di bất dịch là phụng sự đất nước, chứ không phải phụng sự bản thân mình; luôn luôn nhớ rằng mình ở cương vị là để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, chứ không phải cho bản thân. Ngược lại từ ít lâu nay người Nga chúng ta tuồng như có dụng tâm muốn phô trương tính vị kỷ và dễ chạnh lòng của mình ra.
Không biết trong chúng ta liệu có những người mà sau khi làm tròn nhiệm vụ mình rồi, có thể đứng trước toàn thể thiên hạ tuyên bố rằng mình không có lỗi gì đối với nước Nga hết; rằng khắp những khoảng đồng không mông quạnh của đất nước này, không có cái gì có thể coi như một lời trách móc đối với mình cả; rằng mọi vật đều hài lòng về mình và không còn mong chờ gì hơn nữa không? Tôi không biết số người có thể làm như vậy có nhiều không. Tôi chỉ biết rằng riêng tôi, tôi đã nghe thấy lời trách móc thầm lặng đó. Giờ đây, nó vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Sự nghiệp văn chương của tôi có hèn kém thật, nhưng lẽ ra dù sao nó cũng có thể giúp tôi là một việc có ích hơn. Tuy lòng tôi xưa nay vẫn ấp ủ khát vọng làm điều thiện và chỉ vì khát vọng đó mà tôi cầm bút; những cái đó phỏng có gì quan trọng đâu! Tôi đã làm tròn nhiệm vụ ấy như thế nào? Chẳng hạn, cuốn sách vừa rồi của tôi, nhan đề Những linh hồn chết, liệu có gây được cái ấn tượng mà lẽ ra nó phải gây nên; nếu nó được viết cho đúng với yêu cầu không? Vì không biết diễn đạt những ý nghĩ của chính mình; tuy đó là những ý nghĩ khá giản đơn, tôi đã làm cho nó bị hiểu sai, và lại hiểu sai theo một hướng có phần tai hại. Lỗi tại ai đây? Tôi có nên viện cớ là đã nghe theo những thị hiếu xốc nổi của những kẻ tài tử ưa chuộng những phong cách hào nhoáng và trống rỗng không? Tôi có nên đổ lỗi cho hoàn cảnh và tuyên bố rằng vì cần kiếm kế sinh nhai mà phải cho in vội, in vàng tác phẩm của mình không? Không. Ai là người đã từng quyết chí làm tròn nhiệm vụ một cách trung thực thì không thể để cho hoàn cảnh chi phối mình được; nếu cần, thà ngửa tay ra ăn xin, chứ quyết không nhượng bộ trước những lời chê trách hời hợt hay những ước lệ giả dối của xã hội được. Người nào đã vì muốn tuân theo những ước lệ giả dối đó mà làm hỏng một tác phẩm có ích cho nước nhà, thì người đó không phải là người yêu nước. Chính vì tôi đã cảm biết được cái tính nhu nhược đáng hổ thẹn của tôi, cái tính hèn nhát đáng khinh của tôi, nỗi bất lực của lòng yêu nước của tôi; cho nên tôi mới nghe thấu được lời trách móc đau xót mà tất cả những sự vật đang ở trong nưóc Nga đã lên tiếng nói với tôi. Nhưng một sức mạnh cao cả đã nâng tôi dậy; không có lỗi lầm nào không bổ cứu được; và tuy lúc đầu tôi đã chán nản trước cảnh tượng những không gian hoang vắng, về sau chính cảnh tượng ấy đã làm cho tôi đầy nhiệt tình: tôi đã thấy khoảng không vô tận ấy là một môi trường hoạt động tuyệt vời. Và tự đáy lòng tôi đã thốt lên lời kêu gọi đất nước Nga: “- Chẳng phải Ngươi vốn có sứ mệnh sinh ra những bậc anh hùng đó sao? Ngươi hiến cho họ biết bao nhiêu là không gian để xây dựng sự nghiệp!”
Đó không phải là một câu văn viết cho kêu để lòe người, cũng không phải là một lời huênh hoang. Không: lời kêu gọi đó tôi thốt ra tự đáy lòng, và đến nay lòng tôi vẫn còn rung cảm vì nó. Giờ đây, sống ở nước Nga bất cứ lúc nào người ta cũng có thể trở thành một bậc anh hùng. Mỗi địa vị, mỗi chức vụ đều đòi hỏi bản lĩnh anh hùng. Mỗi người trong chúng ta đã làm ô uế tính chất thiêng liêng của địa vị và chức vụ của mình (tất cả mọi chức vụ đều thiêng liêng), đến nỗi phải có những sự cố gắng anh dũng mới đưa được địa vị và chức vụ trở lại trạng thái cao cả thích đáng. Trực giác tôi đã cảm thấy được sự nghiệp cao quý ấy, sự nghiệp ngày nay chỉ dành cho dân tộc Nga mà thôi; vì chỉ có dân tộc Nga biết được chủ nghĩa anh hùng và thấy trải ra trước mắt mình những khoảng không vô tận như vậy. Chính vì thế mà tôi đã thốt lên lời than kia, lời than mà người ta đã tưởng lầm là một biểu hiện của tính kiêu ngạo, một lời huênh hoang.
1843
III. 
Tôi lấy làm lạ rằng một người am hiểu lòng người như anh mà lại có thể đi hỏi tôi những câu ngớ ngẩn chẳng khác gì những người khác. Phần lớn những câu hỏi ấy đều liên quan đến phần sau này của bộ sách: tò mò như vậy mà làm gì? Chỉ có mỗi một câu hỏi thật là tế nhị và xứng đáng với anh; và tuy cũng chưa dám chắc là có thể trả lời một cách thỏa đáng, tôi vẫn ước ao rằng có những người khác cũng hỏi tôi câu đó. Cụ thể là: tại sao những nhân vật trong các tác phẩm gần đây của tôi, nhất là trong Những linh hồn chết, tuy không phải là những bức chân dung của người thật, lại cũng chẳng có gì hấp dẫn cho lắm, mà sao vẫn có vẻ thân thuộc, gần gũi với chúng ta; tưởng như có thể tìm thấy ở các nhân vật đó những nét riêng của bản thân mình? Mới năm ngoái đây thôi, giá có ai hỏi như vậy, dù người đó là anh đi nữa, thì tôi sẽ lúng túng, khó trả lời. Nhưng bây giờ thì tôi xin thú hết: sở dĩ các nhân vật của tôi gần gũi với lòng người là vì chúng ở lòng người mà ra; tất cả những tác phẩm gần đây của tôi đều là lịch sử của tâm hồn tôi. Để anh hiểu rõ hơn những điều này, tôi xin giãi bày để anh rõ tôi là nhà văn như thế nào. Người ta đã bình luận về tôi khá nhiều: người ta đã xác định một số khía cạnh trong tài năng của tôi, nhưng vẫn chưa nhận ra nét căn bản của nó. Puskin là người duy nhất đã nhận thấy nét đó. Puskin vẫn nói với tôi rằng chưa có nhà văn nào có được đến mức như tôi, cái năng khiếu làm hiện rõ sự nhạt nhẽo của cuộc đời, làm cho sự tầm thường dung tục nổi lên, sắc sảo đến nỗi những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đập ngay vào mắt người ta. Đó chính là cái khả năng thiên bẩm trội nhất của tôi, cái khả năng mà quả nhiên không còn nhà văn nào có. Tôi bẩm sinh đã có khả năng đó, và sau một cơn khủng hoảng tinh thần, nó lại càng phát triển thêm. Và đó chính là điều mà dạo ấy tôi chưa thể thú nhận, dù là với Puskin cũng vậy.
Trong Những linh hồn chết, khả năng đó còn thể hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa. Sở dĩ Những linh hồn chết đã làm cho nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều tiếng xôn xao như vậy, không phải là vì nó phát hiện những ung nhọt hay những bệnh tật ở bên trong; đó không phải là vì nó bày ra cái cảnh đắc thắng của sự xấu xa và cái cảnh những người vô tội bị áp bức, khiến người ta sửng sốt. Không, các nhân vật của tôi không phải là những kẻ vô lại. Tôi chỉ cần thêm một nét dễ ưa vào một trong các nhân vật đó là bạn đọc sẽ vừa lòng với tất cả các nhân vật khác; nhưng vẻ tầm thường dung tục của toàn thể khiến bạn đọc ghê tởm. Các nhân vật của tôi nối đuôi nhau xuất hiện, nhân vật này lại tầm thường hơn nhân vật kia; và độc giả hoài công đi tìm một đoạn có thể an ủi mình, một nơi có thể dừng lại để thở; gấp sách lại, bạn đọc tưởng như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá đó là những tên gian phi có lắm màu, lắm vẻ đẹp mắt, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho tôi; đằng này lại là những kẻ rất mực tầm thường, nên người ta không dung thứ được. Sự vô nghĩa lý của người Nga đã làm cho bạn đọc hoảng sợ hơn là những thói hư tật xấu của họ. Đáng khen thay nỗi kinh hoàng đó! Đã thấy ghê tởm như vậy trước sự đê tiện, hẳn phải có những đức tính trái ngược với sự đê tiện. Vậy thì cái khả năng trội nhất của tôi chính là ở chỗ đó; và xin nhắc lại rằng cái khả năng ấy lẽ ra không phát triển mạnh như vậy nếu tâm trạng của tôi và quá trình diễn biến tinh thần của tôi không góp sức vào đấy. Trong các bạn đọc của tôi, không có ai biết rằng trong khi cười các nhân vật của tôi, họ cũng cười cả chính bản thân tôi đó.
Tôi không có một tật xấu, một đức tính nào đủ mạnh để chế ngự các tật xấu, các đức tính khác; ngược lại, tất cả những tính xấu mỗi cái một tí, đều họp nhau trong con người tôi; tôi chưa từng thấy ai tập họp nhiều tính xấu như thế. Thượng đế đã phú cho tôi một bản tính rất phức tạp. Người đã cho tôi một vài đức tính; đức tính đẹp nhất mà tôi không biết làm thế nào để tạ ơn người, là ước vọng tu thân. Tôi chưa bao giờ thích thú với những thói xấu của mình và cũng may mà Thượng đế chí nhân đã cho tôi phát hiện dần từng thói xấu một chứ không phải đột nhiên khám phá ra tất cả một lúc, trong khi tôi chưa quan niệm được lòng từ bi vô cùng vô tận của Người; nếu không thì chắc chắn tôi đã treo cổ mà chết cho rồi. Trong khi tôi dần dần phát hiện ra những tính xấu của mình, thì một sự xui khiến kỳ diệu của bề trên làm cho tôi tăng thêm ý muốn trút bỏ những tính xấu đó đi; một cơn khủng hoảng tinh thần kỳ dị đã thúc đẩy tôi chuyển những tính xấu đó cho các nhân vật của tôi. Cơn khủng hoảng đó cụ thể ra sao thì anh cũng không nên biết làm gì; ví thử điều đó có chút gì bổ ích cho bất cứ ai, thì tôi đã nói ra từ lâu rồi. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu lấy những tính xấu của tôi thêm vào các tính xấu của nhân vật. Tôi làm như thế này: tôi lấy tính xấu của tôi gán cho một người nào mà cương vị và chức vụ khác tôi, rồi theo dõi tác dụng của nó trong người ấy; tôi cố gắng hình dung người đó là một kẻ thù không đội trời chung của tôi, đã từng lăng nhục tôi một cách tàn tệ; tôi hằn học, chế nhạo, dè bỉu hắn. Giá có ai trông thấy những quái vật mà ngòi bút tôi đã vẽ ra lúc đầu, người đó hẳn phải rùng mình, sởn gáy. Tôi chỉ xin nói với anh rằng khi nghe tôi đọc những chương đầu của Những linh hồn chết dưới dạng thức nguyên sơ, thì Puskin, - tính vốn hay cười xưa nay và bao giờ cũng vui lên khi nghe tôi đọc, - lần này lại cau mặt, mỗi lúc một thêm ủ dột. Khi tôi đọc xong, Puskin thốt lên, giọng thảm đạm: “Trời ơi, nước Nga của chúng ta thật buồn quá!”
Tôi lấy làm lạ Puskin biết rõ nước Nga như vậy mà vẫn không nhận thấy rằng đây toàn là biếm họa và bịa đặt! Đến đây tôi mới hiểu thế nào là ý nghĩa của một tác phẩm tự đáy lòng viết ra, và người ta có thể trình bày bóng tối và tình trạng thiếu ánh sáng đáng sợ dưới một hình thức khủng khiếp như thế nào. Từ đấy tôi bắt đầu suy nghĩ cách làm giảm bớt cái ấn tượng nặng nề mà Những linh hồn chết có thể để lại trong lòng người đọc. Tôi nhận ra rằng có nhiều tính xấu không đáng để cho người ta tức giận; tốt hơn là hãy cứ vạch hết cái hư không của nó ra. Tôi cũng muốn xem thử người Nga ta sẽ nói thế nào khi đứng trước sự ti tiện của nó. Theo bố cục của Những linh hồn chết đã được vạch ra từ lâu, thì những nhân vật có mặt trong phần đầu của thiên trường ca chính là những con người vô nghĩa lý. Song không thể vẽ thành những bức chân dung được, mà phải dồn vào các nhân vật đó, dĩ nhiên là dưới một hình thức sa đọa hơn; những nét mượn của những kẻ hay tự cho mình tốt hơn kẻ khác. Ngoài những nét của bản thân tôi ra, ở đây có thể tìm thấy những nét của các bạn tôi. Có một số nét vốn là của anh; tôi sẽ chỉ cho anh thấy khi nào việc đó có thể bổ ích cho anh; và từ bây giờ cho đến lúc ấy thì tôi sẽ giữ kín. Tôi đã phải tước của tất cả những người tốt mà tôi biết, những cái đê hèn và xấu xa ngẫu nhiên thấy có ở họ, để đem trả lại cho các chủ nhân chính đáng của nó. Anh đừng hỏi tôi tại sao phần đầu lại phải chứa toàn những nét đê tiện và đưa lên sân khấu toàn những kẻ dung tục; các tập sách sau sẽ trả lời anh rõ. Tuy có bao nhiêu khuyết điểm như vậy, phần đầu cũng đã có công hiệu: nó đã làm cho mọi người căm ghét các nhân vật của tôi và cái vô nghĩa lý của chúng; nó đã gây nên một sự bất mãn đối với bản thân và một cảm giác buồn buồn mà tôi cho là cần thiết. Tạm thời tôi thấy như thế đã là đủ. Dĩ nhiên, cái công hiệu đó sẽ lớn hơn, nếu tôi chịu khó gọt giũa cho cuốn sách hoàn chỉnh hơn, chứ đừng vội đem xuất bản. Vì chưa tách hẳn ra khỏi bản thân tôi được, cho nên các nhân vật của tôi chưa có một cuộc sống thật là độc lập. Tôi chưa đặt được cho chúng đứng thật vững trên cái mảnh đất mà rồi đây sẽ là đất của chúng; tôi chưa bao bọc chúng trong một bầu không khí có tính chất Nga đầy đủ. Cuốn sách này là một tác phẩm đẻ non; nhưng cái tinh thần chủ đạo đã bắt đầu toát ra được chút ít và việc xuất bản vội vàng như vậy cũng có thể có ích cho tôi, ở chỗ nó khiến cho các bạn đọc nảy ra ý mách bảo tôi những điều nhầm lẫn, mà tôi đã có thể phạm phải trong khi miêu tả cuộc đời tư nhân cũng như sinh hoạt xã hội của dân Nga. Giá anh đừng hỏi tôi những câu ngớ ngẩn đã choán hết nửa bức thư của anh, những bức câu hỏi chỉ nhằm thỏa mãn về một trí tò mò vô ích; mà lượm lặt tất cả những lời nhận xét xác đáng về cuốn sách của tôi, dù là nhận xét của anh hay nhận xét của những người thông minh khác cũng sống một cuộc đời hoạt động và thực tiễn như anh; giá anh thêm vào đấy một số sự kiện khả dĩ xác nhận hay phản bác ý này hay ý khác của tôi; mà những sự kiện hay những mẩu chuyện như vậy thì ở tỉnh anh, cứ xung quanh mỗi trang của tôi, có thể thu nhặt được hàng tá; giá được như thế thì anh đã làm một việc hữu ích và công việc của tôi sẽ dễ dàng hơn biết bao nhiêu!
Nhưng chẳng ai chịu nghe tôi cả; ai nấy đều coi khinh những câu hỏi của tôi, và chỉ những câu hỏi của bản thân họ thì họ mới cho là quan trọng; thậm chí còn có những người, tuy không hiểu rõ mình muốn gì cho lắm, vẫn đòi hỏi tôi phải thẳng thắn, phải thành khẩn thế nào đấy, tôi cũng không biết nữa. Việc gì cứ phải muốn biết trước sự việc; việc gì phải vội vàng như thế? Anh cũng đã bắt đầu nhiễm cái thói ấy rồi đấy. Anh thử nghĩ xem: trong thiên nhiên, mọi sự đều diễn ra một cách khôn ngoan, thong thả, hài hòa biết chừng nào! Các hiện tượng liên hệ với nhau một cách ăn ý biết chừng nào! Chẳng biết tại sao chỉ có chúng ta là cuống quít, quay cuồng như thể lên cơn sốt nóng. Anh viết thư cho tôi đúng như thế đấy: “Phải làm sao cho phần thứ hai ra thật chóng”. Anh đã cân nhắc kỹ những lời lẽ ấy chưa? Tôi đã dại dột đem xuất bản phần thứ nhất quá sớm; tôi lại sẽ dại dột một lần nữa, nếu hấp tấp cho xuất bản phần thứ hai, chỉ vì tôi đã làm cho mọi người bất bình. Tôi điên rồi hay sao? Nỗi bất bình ấy cần cho tôi; những nỗi bất bình có lẽ sẽ cho tôi biết một điều gì. Vả lại anh căn cứ vào đâu mà kết luận rằng phần thứ hai phải cho ra đúng vào lúc này? Anh chui được vào não tôi chắc? Anh đã hiểu thấu thực chất của cái phần thứ hai đó chưa? Theo anh thì nó phải ra ngay bây giờ, theo tôi thì phải hai hay ba năm nữa là sớm nhất mà cũng phải xem từ bây giờ đến lúc ấy, hoàn cảnh có thuận lợi cho tôi không đã. Vậy ai đúng? Người đã mang sẵn cái phần thứ hai ấy trong óc, hay người chưa biết gì về nội dung của nó cả? Ở Nga, có cái mốt thật kỳ lạ! Một anh chàng lười biếng, ăn không ngồi rồi, lại xen vào thôi thúc một người bạn, và chắc là trong bụng cũng cho rằng người bạn đó sẽ mừng quýnh lên khi nghĩ rằng anh ta không làm gì cả. Hễ thấy một người nào nghiêm túc bắt tay vào một công việc nghiêm túc là từ bốn phía người ta xô nhau vào thôi thúc; rồi nếu công việc có hỏng thì người ta lại trách là làm vội quá. Nhưng la rầy anh như thế cũng đã đủ. Anh có một câu hỏi xác đáng thì tôi đã trả lời rồi: tôi lại còn cho anh biết những điều mà cho đến nay, tôi chưa hề nói với ai cả. Tuy vậy, anh cũng đừng vin vào những lời tâm sự ấy mà cho rằng tôi cũng là một con quái vật giống như các nhân vật của tôi. Không, tôi không giống họ đâu. Tôi yêu cái thiện; tôi đi tìm cái thiện; cái thiện làm cho tôi nức lòng. Tôi không ôm ấp các tính xấu của tôi như họ; tôi căm ghét, tôi ghê tởm những thói đê tiện làm cho tôi cách xa cái thiện. Tôi đấu tranh với những thói đó, và nhờ ơn Chúa, tôi sẽ thắng được. Bởi vì, quả là ngu xuẩn, nếu ta bắt chước các bậc trí thức lỗi lạc của ta mà cho rằng con người chỉ có thể tu thân ở nhà trường, và sau đó thì không còn có thể thay đổi một tí gì trong nhân cách nữa! Một ý nghĩ kỳ quặc như vậy chỉ có thể sinh ra trong cái đầu óc đần độn của một gã phong lưu công tử mà thôi. Tôi đã bỏ được nhiều thói xấu trước kia, bằng cách đem gán cho các nhân vật của mình, và như vậy là đã đưa các thói xấu ấy ra cho bản thân mình chế nhạo và cho kẻ khác dè bỉu. Trong khi giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng mà ở nước ta sự xấu xa vẫn khoác, tôi đã bắt đầu tự giải thoát. Khi tôi xưng tội với Đấng đã sáng tạo ra tôi và đã rủ lòng muốn cho tôi sửa chữa các khuyết điểm, thì tôi thấy mình còn nhiều tính xấu lắm; nhưng đó không còn là những tính xấu năm ngoái nữa; một sức mạnh thần thánh đã giúp tôi thoát khỏi chúng rồi. Tôi khuyên anh không nên bỏ ngoài tai những lời của tôi: đọc xong thư, anh hãy tĩnh mặc một lát, hãy ôn lại cả cuộc đời của mình; rồi anh sẽ thấy tôi nói đúng.
Nếu anh chủ tâm suy nghĩ về câu trả lời của tôi: anh sẽ thấy nó cũng có thể dùng để trả lời những câu hỏi khác của anh. Anh cũng sẽ hiểu tại sao cho đến nay tôi vẫn chưa đem hiến bạn đọc những đoạn có sức an ủi khích lệ, tại sao tôi chưa lấy những người có đạo đức làm nhân vật. Những nhân vật như thế không thể bịa ra được. Bao giờ mà còn chưa giống họ ít nhiều, bao giờ mà còn chưa đủ sức mạnh và chí kiên nhẫn để có được một vài đức tính quý báu, thì tất cả những gì viết ra dưới ngòi bút của anh, đều có mùi xác chết và cách xa sự thật một trời một vực. Tôi cũng chẳng hề bịa ra những cơn ác mộng; những cơn ác mộng ấy đang đè nén tôi, và từ tâm hồn tôi chỉ toát ra được những gì vốn sẵn có ở trong ấy mà thôi.
1843
 
IV.
Phần thứ hai Những linh hồn chết đã bị đốt, bởi vì nó phải bị đốt.
Muốn tái sinh thì trước hết phải chết đi đã. Cũng thật khổ tâm cho tôi khi phải đem đốt một công trình đã tốn của tôi năm năm làm việc không tiếc sức; trong đó mỗi dòng đều làm cho tôi bồi hồi xúc động; một tác phẩm trong đó tôi đã để lại tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình. Nhưng tôi đã đốt hết, và làm thế vào một giờ phút trông thấy cái chết trước mắt và muốn để lại một kỷ niệm xứng đáng với vong hồn mình hơn.
Tôi cảm tạ Thượng đế đã cho tôi có đủ sức làm như vậy. Ngọn lửa vừa thiêu hủy những tờ cuối cùng của cuốn sách, thì nội dung của nó, một con phượng hoàng {Trong thần thoại, phượng hoàng là con chim sống nhiều thế kỷ giữa sa mạc Ả Rập rồi tự thiêu trên dàn hỏa và tái sinh từ đám tro tàn của mình} mới, bỗng hồi sinh dưới hình dáng tinh khiết, rực rỡ hơn; và tôi nhận ra rằng cái mà trước đây tôi tưởng là một sự hài hòa thật ra chỉ là một mớ hỗn mang. Đem xuất bản phần thứ hai dưới hình thức đó sẽ có hại cho tôi nhiều hơn là có lợi. Kể ra, cũng có thể làm vui lòng một vài người ham chuộng thứ sách như thế, nhưng điều đó có gì quan trọng đâu; người đáng cho tôi quan tâm không phải là họ, mà chính là quần chúng độc giả; tôi viết Những linh hồn chết là viết cho quần chúng độc giả. Miêu tả dăm ba tính cách đẹp đẽ, tiêu biểu cho những đức tính của giống nòi ta, sẽ chẳng đưa lại kết quả nào khác hơn là làm tăng tính khoe khoang và hợm hĩnh của chúng ta. Trong chúng ta, nhất là trong đám thanh niên, có nhiều người quá tâng bốc các đức tính Nga; lẽ ra phải làm cho những đức tính đó phát triển trong bản thân họ, thì họ lại chỉ lo phô trương nó ra và hò hét với châu Âu: “Hỡi những người nước ngoài, hãy nhìn mà xem: chúng tôi tốt hơn các anh đây này!” - Lối hợm mình này rất tai hại. Nó vừa làm cho người khác bực tức, vừa làm cho chính mình thiệt thòi. Tính khoe khoang làm cho những hành vi cao quý nhất cũng thành ra ti tiện. Thế mà giờ đây, dù chưa làm được chút gì, ta đã đi phô trương những kỳ công tương lai của ta! Riêng tôi, tôi thấy thà nhất thời nản chí còn hơn là tự túc, tự mãn. Quả nhiên, khi nản chí, con người ta đi tới chỗ thấy rõ sự ti tiện của mình, cái trống không của mình, và dù muốn, dù không, cũng phải nhớ đến Thượng đế là đấng sáng tạo ra mọi vật, từ chỗ hư vô; trái lại, nếu tự mãn, con người sẽ tự mình trốn tránh mình để hiến thân cho quỷ Xa tăng, cha đẻ của lòng kiêu ngạo, thường làm cho con người lóa mắt vì ánh hào quang giả dối của những đức tính mà họ tưởng là mình có. Có những thời mà người ta chỉ có thể hướng một xã hội hay cả một thế hệ về cái thiện bằng cách cho nó thấy hết sự bỉ ổi của nó; có những thời mà cách tốt nhất để nói đến cái mỹ, cái thiện là vạch rõ ngay ra một cách thật rõ ràng một con đường đưa mỗi người đến được cái mỹ, cái thiện. Có lẽ đúng ra việc đó phải làm thành cốt tủy của phần thứ hai Những linh hồn chết, nhưng trong phần này, cái đó lại quá mờ nhạt; chính vì thế mà tôi đã đốt nó đi… Anh đừng phê phán; anh đừng kết luận; anh sẽ nhầm như một số bạn tôi; vì muốn xem tôi là nhà văn lý tưởng đúng như họ quan niệm, nên đòi hỏi tôi phải đáp ứng cái lý tưởng đó. Khi sáng tạo ra tôi. Thượng đế chẳng hề giấu không cho tôi biết sứ mệnh của tôi. Tôi sinh ra không phải để mở đầu một thời đại trong văn học, mà để làm tròn một nhiệm vụ đơn giản hơn, quen thuộc hơn, một nhiệm vụ mà mỗi người trong chúng ta đều phải nghĩ đến, chứ không riêng gì tôi. Lĩnh vực của tôi là tâm hồn, là việc nghiên cứu cuộc đời một cách nghiêm túc. Cho nên tôi phải hành động thong thả và trù tính chuyện lâu dài. Người khác cứ việc mà vội vã; tôi thì tôi không cần. Khi cần, tôi đốt đi, và chắc hẳn tôi làm như vậy là phải; vì tôi không tiến hành một việc gì mà không cầu nguyện. Anh sợ sức khỏe của tôi kém quá không cho phép tôi viết phần thứ hai. Nói cho đúng, sức khỏe của tôi quả cũng đã khá suy rồi; đôi khi cơn bệnh làm tôi đau đớn đến nỗi, giá không có sự phù trợ của Chúa, thì tôi đã không tài nào chịu nổi. Tôi đã kiệt sức và ngoài ra, tôi nhát lạnh đến nỗi sưởi mấy cũng không thấy ấm; lẽ ra phải cử động nhiều, nhưng tôi không đủ sức. Chật vật lắm tôi mới làm việc được mỗi ngày một tiếng, mà công việc không phải bao giờ cũng có kết quả. Nhưng tôi không hề mất hy vọng. Đấng đã dùng sự phiền não, những bệnh tật, những trở ngại đủ thứ để thôi thúc sự nảy nở trong con người tôi những năng lực và những tư tưởng mà không có, thì tôi không thể nào soạn nổi tác phẩm này. Đấng đã giúp cho tôi viết xong hơn một nửa tác phẩm đó, chắc chắn sẽ cho tôi đủ sức hoàn thành đến cùng. Trong khi thể xác tôi suy vi, thì tinh thần tôi càng ngày càng vững mạnh; mà tinh thần mạnh thì rồi thể xác cũng sẽ mạnh theo. Tôi nghĩ rằng khi đã đến lúc thì chỉ trong vài tuần là tôi sẽ hoàn thành cái công trình đã tốn của tôi những năm năm đau khổ.

1846