Chương 11


Chương 10

    
ó thứ gì đó trong phòng đã thay đổi, nhưng cô chưa thể xác định ngay được nó là gì.
Lincoln Rhyme nhìn thấy điều ấy trong mắt cô.
“Chúng tôi nhớ cô, Amelia”, anh ta bẽn lẽn nói. “Chuyện vặt vãnh à?”
Cô tránh không nhìn anh ta. “Rõ ràng không có ai nói với chỉ huy mới của tôi là hôm nay tôi sẽ không đi làm. Tôi nghĩ ai đó phải nói chứ.”
“À, ừ.”
Cô đang nhìn vào tường, dần dần hiểu ra điều đó. Ngoài những thiết bị căn bản mà Mel Cooper đã đem đến, trong phòng còn có cái kính hiển vi điện tử quét với bộ phận chiếu X-quang, các bộ ống kính nổi và hot-stage để thử kính, một kính hiển vi so sánh, một ống đo biến thiên mật độ để thử đất và cả trăm ống nghiệm, bình, lọ, hóa chất.
Ở giữa phòng là niềm tự hào của Cooper – một máy sắc ký khí điều khiển bằng máy tính và một bộ phổ kế thường thấy. Và một cái máy tính khác, nối mạng với bộ xử lý trung tâm của chính Cooper tại phòng thí nghiệm ở IRD.
Sachs bước qua những sợi cáp trườn xuống dưới cầu thang – nguồn điện trong nhà cũng ổn, đúng, nhưng dòng điện quá nhỏ trong ổ cắm phòng ngủ. Với những bước đi tao nhã, đã được luyện tập ấy, Rhyme thấy cô thật đẹp. Chắc chắn là người phụ nữ đẹp nhất trong sở cảnh sát.
Trong một khoảnh khắc, anh thấy cô thật hấp dẫn. Người ta nói rằng tình dục là trong đầu ta và anh thấy đúng. Cắt dây không cắt đứt được sự thèm muốn. Anh nhớ lại, vẫn còn một chút kinh hoàng về một đêm, sáu tháng sau tai nạn. Anh và Blaine đã thử. Chỉ để xem điều gì sẽ xảy ra, họ nói vậy, chỉ thử thôi mà. Không có vấn đề gì lớn.
Hóa ra lại là chuyện lớn. Trước hết, tình dục là một chuyện rắc rối, nhưng khi ta thêm vào phương trình này cả ống và túi thông tiểu thì ta phải có sức khỏe tốt, tính hài hước và nền tảng tốt hơn người khác. Nhưng chủ yếu điều làm anh cụt hứng rất nhanh là vẻ mặt của cô. Anh nhìn thấy nụ cười gắng gượng, khó khăn trên mặt Blaine Chapman Rhyme, nụ cười nói rằng cô làm việc đó chỉ vì thương hại và điều đó đâm thủng tim anh. Hai tuần sau anh nộp đơn li dị. Blaine có phản đối nhưng cô đã ký ngay đợt đầu.
Sellitto và Banks đã quay lại và đang sắp xếp vật chứng do Sachs thu thập. Cô nhìn họ làm, chỉ hơi có vẻ quan tâm.
Rhyme nói với cô: “Đơn vị Ngầm chỉ tìm được tám chứng cứ không hoàn chỉnh khác, nhưng chúng lại thuộc về hai người công nhân bảo trì trong tòa nhà.”
“Thế à.”
Anh gật đầu mạnh. “Chỉ có tám.”
“Anh ta đang khen cô đấy.” Thom giải thích. “Tận hưởng đi. Nhiều nhất thì cô cũng chỉ nhận được từ anh ấy ngần ấy thôi.”
“Không cần phiên dịch, Thom, nhưng cảm ơn.”
Cô trả lời: “Tôi vui vì đã giúp được.” Cảm thấy vui.
Ồ, cái gì thế nhỉ? Rhyme đã nghĩ cô sẽ lao vào phòng và ném cái túi vật chứng lên giường anh. Có thể là cả cái cưa, thậm chí cả cái túi nhựa đựng hai bàn tay hư hại của nạn nhân. Anh đã chờ bị đánh gục, lôi khỏi sàn đấu; người ta hiếm khi bỏ găng tay khi họ đánh nhau với một kẻ tàn tật. Anh đã nghĩ về cái nhìn trong mắt cô khi cô gặp anh, có thể đó là bằng chứng của một sự giống nhau mơ hồ nào đó giữa họ.
Nhưng không, giờ anh thấy là anh đã sai. Amelia cũng giống như những người khác – xoa đầu anh và tìm lối ra gần nhất.
Trong phút chốc, trái tim anh đông cứng. Anh nói như thể đang nói với lớp mạng nhện giăng trên trần và những bức tường phía xa. “Chúng tôi đang nói về thời hạn cho nạn nhân tiếp theo, thưa sĩ quan. Không có vẻ gì là có thời gian xác định cả.”
“Điều chúng tôi nghĩ là”, Sellitto nói tiếp, “bất kể tên quái vật này có kế hoạch gì cho nạn nhân tiếp theo thì điều đó cũng đang diễn ra. Hắn không biết chính xác khi nào nạn nhân sẽ chết. Lincoln nghĩ có thể hắn đang chôn vài tên khốn ở đâu đó, nơi mà có rất ít không khí”.
Mắt Sachs nheo lại một phút khi nghe câu này. Rhyme nhận thấy điều đó. Chôn sống. Nếu ta phải có một nỗi sợ hãi, n& cảng của Brooklyn.
Cuối cùng John cũng ngừng nói, lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi trên các bậu cửa đá nâu trông ra đường. Họ hình như đã bị hôn mê trong cái nóng.
Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. Cô không ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe không mở được. Cô vươn qua người John. Cửa sổ bên anh cũng hỏng. Và đó là lúc cô nhận thấy xe không có khoá cửa.
Cả tay nắm cửa cũng không có.
Tay cô lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì – cứ như ai đó đã cắt nó đi bằng cưa máy.
“Gì vậy?” John hỏi.
“À, cánh cửa… Ta mở cửa thế nào bây giờ?”
John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất hiện rồi biến mất.
“Này!” John gõ vào tấm kính chắn. “Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta đang đi đâu thế này?”
“Có lẽ ông ta định qua Queensboro”, T.J. nói. Qua cầu đường sẽ dài hơn nhưng không phải trả phí qua hầm. Cô ngồi dịch lên và gõ nhẫn vào tấm kính Plexi.
“Ông định qua cầu đấy à?”
Người lái xe lờ đi.
“Này!”
Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.
“Chết tiệt”, John hét lên. “Ông định đưa chúng tôi đi đâu? Harlem. Tôi cá là hắn ta định đưa chúng ta đến Harlem.”
T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe đang chạy song song với họ và chậm rãi vượt lên. Cô đập thật mạnh vào cửa sổ.
“Cứu!” Cô gào to. “Làm ơn đi…”
Người lái xe liếc cô một lần, rồi lần nữa, vẻ không bằng lòng. Anh ta giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đã đột ngột quặt vào đường nhánh xuống Queens, vòng vào một con phố và chạy dọc theo một khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ đã phải chạy với tốc độ hơn sáu mươi dặm[2] một giờ.
“Ông đang làm cái trò gì thế?”
T.J. đập vào tấm kính chắn. “Chạy chậm lại. Chúng ta đang ở đâu?”
“Ôi, trời ơi, không”, John thì thầm. “Nhìn kìa.”
Người tài xế đã đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết.
“Ông muốn gì?” T.J. hét lên.
“Tiền à? Chúng tôi sẽ đưa tiền cho ông.”
Nhưng phía trước xe vẫn im lặng.
T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của cô và lôi chiếc máy tính xách tay màu đen ra. Cô ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa sổ. Kính vẫn còn nguyên vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ đã làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi hướng và suýt đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.
“Tiền? Bao nhiêu? Tôi sẽ đưa cho ông rất nhiều tiền!” John lắp bắp, nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của anh ta.
T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm một lần nữa. Cú phang mạnh đến nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.
Cô thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay cô.
“Mẹ kiếp…”
Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh trên đường và dừng lại trên một ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.
Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay hắn là một khẩu súng lục nhỏ.
“Đừng, xin ông”, cô van xin.
Hắn ta đi ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy xước. Hắn đứng đó khá lâu trong khi cô và John lùi lại phía sau, dựa vào cánh cửa đối diện, thân thể đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn đường và nhìn họ thật gần.
Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong không trung. T.J. co rúm người. John thét lên một tiếng.
Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. Hắn ta quay lại và nhìn lên trong khi một con nhện khổng lồ màu da cam đang trải mình phía bên trên thành phố.
Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại nhất thế giới.
Người lái xe quay lại chiếc taxi. Hắn ta kéo tay nắm cửa với một tiếng động lớn và từ từ mở cửa.

Một cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi
Như thế thì chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định nói về khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: “Anh ta nói Ba mươi bảy gần Mười một. Chỉ có thế thôi.”
Những người báo tin thường không biết rõ hướng tới hiện tượng vụ án.
Đã toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy một bệ cỏ cao. Cô đang tìm theo vạch – cách gọi của những người làm việc tại hiện trường vụ án – một sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. Cô nghiêng đầu nói vào cái mic kẹp trên ve bộ đồng phục màu xanh hải quân của cô.
“5885. Không tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các anh có yêu cầu gì thêm không?”
Người trực tổng đài nói qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: “Không cần gì tại đó nữa, 5885. Nhưng có một điều… người báo tin nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Nghe rõ.”
“Trung tâm, xin nhắc lại.”
“Người báo tin này nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì lợi ích của chính nạn nhân. Nghe rõ.”
“Nghe rõ.”
Hy vọng nạn nhân đã chết?
Sachs leo qua một dây xích rũ xuống và tìm một khoảng trống khác. Không có gì.
Cô muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ, và quay trở lại với Deuce, khu tuần tra thường xuyên của cô. Đầu gối cô bị đau và cô đang nóng như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. Cô muốn lẻn vào Ban quản lí Cảng, nói chuyện với các chàng trai và uống một hộp trà đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 – chỉ cách đó một, hai giờ đồng hồ – cô có thể đã dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown[3] và chuẩn bị đi tập.
Nhưng cô không, không thể thì đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. Cô tiếp tục đi: dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu đất hoang và một khu vườn nhiều cây cối khác.
Ngón tay trỏ rất dài của cô thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng, qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao trên đầu. Cô gãi mạnh khi chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm một lúc nữa. Mồ hôi chảy dọc trán cô buồn buồn và cô gãi lông mày.
Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được.
Khi Sachs đi sâu hơn vào bụi cây, cô cảm thấy sự bất ổn đầu tiên trong buổi sáng hôm nay.
Ai đó đang nhìn mình.
Gió nóng thổi xào xạc trên những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua lại Đường hầm Lincoln. Cô nghĩ tới điều mà một sĩ quan tuần tra thường làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau mình, trong tầm dao, mà mình không hề hay biết.
Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình…
Cô quay lại thật nhanh.
Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi. Trèo lên một đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs – ba mươi mốt tuổi – gần được ba mươi mốt, mẹ cô chắc sẽ nói thế – đã bị viêm khớp. Cô được thừa kế chứng bệnh đó từ ông ngoại, cũng rõ ràng như cô đã nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh đẹp cũng như sự nghiệp từ cha (màu tóc đỏ thì tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại thêm một cơn đau nhói khi cô đi qua một bức rèm được tạo thành từ các bụi cây chết khô cao ngất. Cô may mắn dừng lại khi chỉ cách cái vách sâu ba mươi feet[4] đúng một bước chân.
Phía dưới cô là một cái khe tối tăm – cắt sâu xuống nền đá của West Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu đi lên phía bắc.
Cô hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách không xa nền đường sắt.
Cái gì thế?
Một vòng tròn đất mới lật, một nhánh cây nhỏ cắm bên trên? Trông nó giống như…
Ôi! Lạy chúa!
Một cảnh tượng làm cô rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên, châm vào da của cô như một làn sóng lửa. Cô kìm nén được cái phần nhỏ nhoi trong cô, cô muốn quay đi chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề trông thấy gì.
Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân.
Cô chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền đường. Cô vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng cô đã kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này. Nếu chạm vào đó, cô có thể xoá mất dấu tay hắn để lại. Được, ta làm cách khó vậy. Thở thật sâu để nén cơn đau khớp, cô bắt đầu trèo xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của cô – đôi giày được đánh bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới – vào những khe đá nứt. Cô nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới nấm mồ.
“Ôi, trời…”
Đó không phải là một nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là một cánh tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và bàn tay thò ra ngoài. Cô nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt đã bị bóc sạch và một chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.
Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.
Cô đào bới làm cho đất bắn tung toé, cô nhận thấy những ngón tay chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong. Điều đó nói với cô rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất cuối cùng hất vào mặt.
Và có thể vẫn còn sống.
Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen của cô trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, cô đào đến tóc và vầng trán phía dưới, vầng trán đã xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục đào cho tới khi cô có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng đã bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong một vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.
Không phải là một phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là một người đàn ông trên năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín anh ta.
Lùi lại phía sau, cô không thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải đường tàu. Cô không thể nghĩ được điều gì khác trong gần một phút. Ngoài việc nếu bị chết như thế thì sẽ ra sao.
Sau đó: Nào, em yêu. Em đã tự dẫn mình đến hiện trường vụ án và em là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường.
Em biết phải làm gì chứ:
ADAPT
A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.
D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng.
A là Assess: đánh giá hiện trường vụ án.
P là….
P là gì nhỉ?
Cô nghiêng đầu nói vào mic. “5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi gặp 10-29 trên đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười một. Giết người, nghe rõ. Cần thám tử, CS[5], xe bus, và bác sĩ pháp y. Nghe rõ.”
“Đã rõ, 5885. Nghi phạm đã bị bắt chưa, nghe rõ?”
“Không có nghi phạm.”
“Năm-tám-tám-năm, nghe rõ”
Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận xương. Một chiếc nhẫn không phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn nhúm… Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy dọc cơ thể cô. Amelia Sachs đã từng bơi với rắn trong những con sông khi đi nghỉ hè và đã từng huênh hoang một cách chân thực rằng, cô không có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping[6] từ cây cầu cao một trăm feet. Nhưng cứ để cô nghĩ về sự giam cầm… nghĩ tới việc bị rơi vào bẫy, hoàn toàn bất động thì cơn hoảng loạn sẽ tóm lấy cô như bị sốc điện. Đó là lí do vì sao Sachs đi nhanh và lái xe như chớp.
Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta…
Cô nghe thấy một tiếng động và ngẩng đầu.
Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.
Những mẩu giấy vụn bay tung trên đường ray. Những đám bụi bay quanh cô như những con ma giận dữ.
Sau đó là tiếng rền rĩ nhỏ…
Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao một feet chín, thấy mình đang đối diện với một chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak, một khối sắt đỏ, trắng và xanh đang lao tới với tốc độ mười dặm một giờ.
“Dừng lại ngay!” Cô hét lên.
Người kỹ sư lờ cô đi.
Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu cho anh ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.
“Anh không đi qua đây được”, cô nói với anh ta.
Anh ta hỏi ý cô là gì. Cô nghĩ anh ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn tàu lớn như vậy.
“Đây là hiện trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ.”
“Thưa quý cô, tôi không hề nhìn thấy hiện trường vụ án nào cả.”
Nhưng Sachs không nghe. Cô đang nhìn lên khoảng trống trong chuỗi xích bên phía tây của cây cầu tàu phía trên, gần Đại lộ Mười một.
Chỉ có thể có một cách để đưa xác chết đến đây mà không bị phát hiện – đỗ xe ở Đại lộ Mười một và kéo xác qua một con đường hẹp dẫn đến vách đ&aang ngoài phố, cầm cờ vàng để vẫy cho xe vào.”
“Nhưng do hội nghị nên đến bây giờ một nửa bãi đỗ đã đầy xe. Chúng tôi có một danh sách khoảng chín trăm biển số.”
Sellitto lắc đầu. “Các anh theo tiếp vụ này nhé...”
“Đã nhận”, Bedding nói.
“... nhưng tôi dám cá là đối tượng không để xe trong bãi.” Viên thám tử nói tiếp. “Hay mua vé để xe.”
Rhyme gật đầu đồng tình và hỏi: “Tòa nhà ở Phố Pearl?”
Một người hay cả hai anh em sinh đôi đồng thanh: “Điều tiếp theo trong danh sách của chúng tôi. Chúng tôi đang trên đường.”
Rhyme nhìn thấy Sachs đang xem đồng hồ, cái đồng hồ đeo trên cổ tay trắng trẻo gần những ngón tay hồng hào của cô. Anh yêu cầu Thom thêm những đặc điểm mới đó của nghi phạm vào sơ đồ hồ sơ.
“Anh có muốn phỏng vấn anh chàng đó không?” Banks hỏi. “Anh chàng đứng cạnh đường ray ấy.”
“Không, tôi không tin tưởng nhân chứng”, Rhyme nói đầy kiêu hãnh. “Tôi muốn quay lại với công việc.” Anh nhìn Mel Cooper. “Lông, máu, xương và một mẩu gỗ. Cái xương đầu tiên”, Rhyme hạ lệnh.

Morgen[62]...
Monelle Gerger trẻ tuổi mở mắt và chậm rãi ngồi dậy trên chiếc giường đệm trũng. Suốt thời gian hai năm ở Greenwich Village, cô không thể làm quen được với buổi sáng.
Thân hình tròn trịa hai mươi mốt tuổi của cô nghiêng về phía trước và luồng ánh sáng tàn nhẫn buổi sáng tháng Tám chiếu thẳng vào đôi mắt lờ mờ của cô. “Mein Gott[63]...”
Cô rời câu lạc bộ lúc năm giờ, về nhà lúc sáu giờ và làm tình với Brian đến bảy giờ...
Giờ là mấy giờ nhỉ?
Sáng sớm, cô chắc chắn thế.
Cô nhăn mặt nhìn đồng hồ. Ôi. 4:30.
Không phải früh morgens[64] lắm.
Cà phê hay đi giặt đồ?
Vào khoảng thời gian này cô thường lang thang tới Dojo để ăn sáng với bánh kẹp nhân rau và ba cốc cà phê đặc. Ở đó, cô gặp những người cô biết, những người đi chơi đêm như cô – những người trong trung tâm thành phố.
Nhưng vừa rồi cô đã bỏ đi nhiều thứ, những thứ đồ trong nhà. Vì thế, cô mặc hai cái áo phông lụng thụng để giấu đi thân hình tròn trịa của mình, đeo năm sáu chuỗi xích quanh cổ và nhặt giỏ đồ bẩn, đổ Wisk[65] vào.
Monelle tháo ba con ốc đang chặn cửa. Cô nhấc giỏ đồ bẩn lên và đi xuống cái cầu thang tối tăm của khu chung cư. Cô dừng lại ở tầng hầm.
Irgendwas stimmt hier nicht[66].
Cảm thấy không ổn, Monelle nhìn quanh cầu thang không người, hành lang tối tăm.
Có cái gì đó khang khác thì phải?
Ánh sáng, đúng rồi! Những cái bóng đèn trong hàng lang đã bị cháy. Không – cô nhìn kỹ hơn – chúng đã bị mất. Bọn trẻ con mất dạy lấy trộm mọi thứ. Cô chuyển tới đây, Deutsche Haus – vì về nguyên tắc, đây là nơi cư trú cho các nhạc công và nghệ sĩ Đức. Nhưng hóa ra đấy chỉ là một tòa nhà bẩn thỉu, giá thuê quá cao ở khu East Village, giống như tất cả các tòa nhà cho thuê khác ở đây. Sự khác biệt duy nhất là cô có thể chửi rủa người quản lý bằng tiếng mẹ đẻ của cô.
Cô đi tiếp qua cánh cửa tầng hầm vào phòng đốt rác, tối tăm đến mức cô phải sờ soạng lần đường dọc theo bờ tường để chắc chắn không bị vấp vào rác thải trên sàn nhà.
Đẩy cửa mở ra, cô bước vào lối hành lang dẫn đến phòng giặt đồ.
Có tiếng lê bước. Tiếng bước chân lướt nhanh trên sàn.
Cô quay lại thật nhanh nhưng không nhìn thấy gì ngoài những cái bóng bất động. Mọi tiếng động mà cô nghe thấy là tiếng xe cộ, tiếng rên rỉ của một tòa nhà cũ kỹ.
Đi qua bóng tối lờ mờ. Đi qua những chồng hộp và đám bàn ghế cũ hỏng. Những dây cáp ngầm bị bao bọc bởi lớp bụi nhớp nháp. Monelle tiếp tục đi đến phòng giặt đồ. Ở đây cũng chẳng có bóng đèn. Cô cảm thấy không thoải mái, nhớ đến một điều gì đó đã không xảy ra với cô trong nhiều năm. Đi bộ cùng cha cô theo con đường hẹp bên ngoài Lange Strasse, gần Obermain Brücke, trên đường đến vườn bách thú. Lúc đó chắc cô năm hay sáu tuổi gì đó. Bất ngờ cha bóp vai cô, chỉ về phía cây cầu và kể với cô, giọng đầy nghiêm trọng, về những người khổng lồ độc ác đói bụng đang đi phía dưới. Khi họ đi qua cầu về nhà, ông nhắc cô phải đi nhanh. Lúc này cô cảm thấy một gợn sóng của cơn hoảng loạn đang dựng lên theo cột sống lan tới tận mái tóc vàng hoe cắt ngắn của cô.
Thật ngu xuẩn. Người khổng lồ ư…
Cô tiếp tục đi xuống lối hàng lang tăm tối, lắng nghe tiếng rền rền của mấy thứ thiết bị điện. Xa hơn nữa, cô nghe thấy bài hát của những người anh em thù hận ở Oasis[67].
Phòng giặt đồ tối om.
Được, nếu những cái bóng đèn này mà cháy nữa, thì thế là hết. Cô sẽ chạy lên gác, đập cửa phòng Herr Neischen cho tới khi hắn phải bỏ chạy. Cô sẽ cho hắn ta một trận vì những cái bản lề gãy ở cửa trước, cửa sau và vì những đứa trẻ lu bù bia bọt mà hắn ta không bao giờ đuổi ra khỏi cửa. Cô cũng sẽ cho hắn ta một trận vì những cái bóng đèn cháy này nữa.
Cô thò tay vào trong và bật công tắc.
Ánh sáng chói chang. Ba cái bóng đèn lớn cháy sáng như mặt trời cho thấy một căn phòng bẩn thỉu nhưng trống rỗng. Monelle đi tới chỗ bốn cái máy giặc và vứt đồ trắng vào một cái, đồ màu vào một cái. Cô chọn ra mấy đồng hai mươi lăm cent, nhét chúng vào khe và kéo cần gạt.
Chẳng thấy gì.
Monelle lắc lắc cái cần gạt. Rồi đá vào cái máy giặc. Không có phản ứng.
“Chết tiệt. Cái tòa nhà gottverdammte[68] này.”
Sau đó cô nhìn thấy dây điện. Thằng ngu nào đó đã rút dây điện khỏi máy. Cô biết đấy là ai rồi. Neischen có một thằng con trai mười hai tuổi, là thủ phạm của hầu hết các vụ rắc rối quanh tòa nhà. Năm ngoái khi cô đang khiếu nại một vụ gì đó thì thằng trời đánh này đã cố đá cô.
Cô nhặt sợi dây lên, bò xuống, vươn ra sau chiếc máy và tìm ổ điện. Cô cắm phích.
Và cảm thấy hơi thở của một người đàn ông nơi cổ mình.
Nein[69]!
Hắn ta đứng kẹp giữa bức tường và mặt sau cái máy giặt. Gào lên một tiếng, cô thoáng thấy một cái mặt nạ trượt tuyết và bộ quần áo đen khi cánh tay hắn ta kẹp chặt tay cô như một hàm răng thú vật. Cô mất thăng bằng và hắn dễ dàng hất cô ra phía trước. Cô ngã xuống nền nhà, đập mặt vào nền bê tông và nuốt tiếng thét đang thành hình trong cổ họng.
Hắn ngồi lên cô ngay lập tức, gí chặt tay cô xuống sàn, dán một miếng băng dính dày màu xám vào miệng cô.
Hilfe[70]!
Nein, bitte nicht[71].
Bitte nicht.
Hắn không to lớn nhưng khỏe. Hắn dễ dàng lật cô nằm sấp xuống và rồi cô nghe thấy tiếng lạch xạch của chiếc còng khóa cổ tay mình.
Sau đó hắn ta đứng lên. Một lúc lâu im lặng, chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng nước nhỏ giọt, tiếng thở hổn hển của Monelle, tiếng động của một động cơ nhỏ đâu đó trong tầng hầm.
Cô chờ đợi một bàn tay sờ soạng cơ thể mình, xé toang quần áo mình. Cô nghe tiếng hắn ta ra cửa nhìn để chắc chắn họ chỉ có một mình.
Ồ, hắn được riêng tư hoàn toàn, cô biết, điên cuồng với chính cô; cô là một trong số ít những người thuê nhà sử dụng phòng giặt quần áo. Phần lớn họ tránh sử dụng vì nó rất trống trải, rất gần với cửa hậu và cửa sổ, rất xa sự giúp đỡ.
Hắn quay lại và lật ngửa cô ra. Thì thầm điều gì đó cô không nghe rõ. Rồi: “Hanna.”
Hanna? Nhầm rồi. Hắn nghĩ mình là người khác. Cô lắc đầu thật mạnh, cố làm hắn hiểu điều đó.
Nhưng sau đó, khi nhìn vào mắt hắn, cô ngừng lại. Ngay cả lúc hắn đeo mặt nạ trượt tuyết, rõ ràng là có điều gì đó không đúng. Hắn bực mình. Hắn quét cơ thể cô, lắc đầu. Hắn nắm những ngón tay đeo găng của hắn quanh cánh tay bụ bẫm của cô. Bóp mạnh vai cô, véo một véo mỡ. Cô rùng mình vì đau.
Đó chính là điều cô nhìn thấy: sự thất vọng. Hắn bắt được cô nhưng lúc này hắn không chắc là hắn có muốn cô hay không.
Hắn cho tay vào túi và chầm chậm rút tay ra. Tiếng động của con dao tựa như cơn sốc điện. Nó khởi đầu cho một cơn thổn thức.
Nein, nein, nein!
Tiếng thở xẹt qua kẽ răng hắn nghe như cơn gió thổi qua hàng cây trong mùa đông. Hắn cúi xuống cô, suy nghĩ.
“Hanna”, hắn thì thầm. “Mình làm gì bây giờ?”
Thế rồi hắn đột nhiên quyết định. Hắn cất con dao đi và kéo cô đứng dậy, dắt cô ra phía hành lang qua cửa hậu – cánh cửa có ổ khóa bị hỏng mà cô đã từng bắt Herr Neischen phải sửa.

 
“Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. Cô chặn phố để bảo vệ hiện trường vụ án à?”
“Vâng thưa ngài. Tôi không nghĩ rằng nghi phạm sẽ đỗ xe tại giao lộ. Hắn ta có thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ trên kia. Ngài nhìn thấy chứ, trên kia? Đại lộ Mười một có thể là lựa chọn tốt hơn.”
“Được. Nhưng đó là một sự lựa chọn sai lầm. Không có dấu chân ở phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân đi lên cầu thang tới Đai lộ Ba mươi bảy.”
“Tôi đã chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa.”
“Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?” Anh ta hỏi. “Vì sao cô lại chặn đoàn tàu?”
“Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng một đoàn tàu đi qua hiện trường có thể làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó.”
“Hay cái gì đó, sĩ quan?”
“Tôi diễn đạt ý mình không được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là…”
“Còn sân bay Newark thì sao?”
“Vâng thưa ngài.” Cô nhìn quanh tìm sự giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần đó, nhưng họ đang bận phớt lờ người bị quở trách. “Chính xác thì Newark là thế nào?”
“Sao cô không đóng cửa nó luôn đi?”
Ồ, tuyệt vời. Một bài học. Đôi môi Julia Roberts của cô căng lên nhưng cô nói vừa phải. “Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể là…”
“Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa lộ Long Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương cách trốn chạy.”
Cô hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày của anh ta cao hơn.
“Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra.” Anh ta tiếp tục. “Từ giám đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, giám đốc triển lãm..” Anh ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. “Chúng ta đã phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu của một thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side. Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà cô chặn lại cách chỗ đó một trăm feet và trên đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả Bão Eve cũng không ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của Amtrak.”
“Tôi chỉ nghĩ rằng…”
Peretti cười. Vì Sachs là một phụ nữ đẹp – trong những năm tháng “chìm đắm” của cô trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian cô đã làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle – nên viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho cô.
“Tuần tra viên Sachs” – anh ta liếc nhìn bảng tên trên ngực cô, được dán một cách đơn giản trên chiếc áo chống đạn hiệu American Body Armor – “một bài học. Nhiệm vụ tại hiện trường vụ án là một việc đòi hỏi sự cân bằng. Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta không thể làm điều đó. Tôi nói điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho cô”.
“Trên thực tế, thưa ngài”, cô nói cộc cằn. “Tôi sắp chuyển khỏi Đội Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay.”
Anh ta gật đầu, cười vui vẻ. “Thế thì nói đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có phải cô quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?”
“Đúng vậy, thưa ngài”, cô nói một cách dứt khoát. “Không có sai lầm nào trong việc đó cả.”
Anh ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.
Ôi, làm ơn đi…
“Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy đi. Cô sẽ điều khiển giao thông đến khi đường thông. Cô có nghe rõ tôi nói không?”
Không “vâng, thưa ngài”, hay “không, thưa ngài”, hay bất kỳ sự khẳng định nào khác, cô đi ra Đại lộ Mười một và bắt đầu chậm chạp di chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào đi ngang cô cũng cau có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.
Còn một tiếng nữa.
Mình chịu được.

chú thích
[1] Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)
[2] Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một trăm km một giờ.
[3] Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan, Thành phố New York.
[4] Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây là khoảng 10m.
[5] CS: Khám nghiệm hiện trường.
[6] Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.
[7] JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.
[8] CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin tức nổi tiếng của Mỹ.
[9] IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.
[10] Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.