Chương 11


Chương 13

    
hưng ở Manhattan không có cái trại chăn nuôi nào cả.”
“Trước đây, Lon ạ”, Rhyme nhắc anh ta. “Những thứ cổ xưa làm hắn phấn khích. Làm cho máu hắn chảy. Ta phải nghĩ đến những trại chăn nuôi cũ. Càng cũ càng tốt.”
Khi nghiên cứu để viết cuốn sách của mình, Rhyme đã đọc về một vụ giết người mà tên tội phạm quý tộc Owney Madden bị kết tội: bắn chết một đối thủ bán rượu lậu ngay bên ngoài nhà hắn tại Hell’s Kitchen. Madden không bao giờ bị kết án – dù sao đi nữa cũng không phải vì một vụ án mạng ngoại lệ. Hắn đứng lên, bằng một giọng Anh đầy nhịp điệu, hắn đã giảng bài cho phòng xử án về sự phản bội. “Toàn bộ vụ này là do đối thủ của tôi vu cáo, những người đã nói dối về tôi. Thưa quý tòa, các ngài có biết điều đó khiến tôi nhớ đến cái gì không? Trong khu tôi sống, ở Hell’s Kitchen, những đàn cừu được dẫn qua phố đến lò mổ trên Phố Bốn mươi mốt. Ngài có biết ai dẫn dắt chúng không? Không phải chó, không phải người. Mà là một trong số chúng. Một con cừu Judas với một cái chuông đeo quanh cổ. Nó dẫn đàn cừu đi trên con đường đó. Nhưng sau đó nó dừng lại và những con còn lại sẽ vào trong. Tôi là một con cừu vô tội và những nhân chứng chống lại tôi, chúng là những con cừu Judas.”
Rhyme tiếp tục. “Banks, gọi điện cho thư viện. Họ chắc sẽ có một nhà sử học.”
Viên thám tử trẻ tuổi mở điện thoại di động và gọi. Giọng anh ta hạ thấp dần khi nói. Sau khi nói điều mình cần, anh ta dừng lại và nhìn vào tấm bản đồ thành phố.
“Gì vậy?” Rhyme hỏi.
“Họ đang tìm ai đó. Họ có…”, anh ta cúi đầu khi có người trả lời và lặp lại yêu cầu của mình.

Anh ta bắt đầu gật đầu và nói với cả phòng: “Tôi có hai chỗ… không phải, ba.”
“Ai đấy?” Rhyme cục cằn hỏi. “Cậu đang nói chuyện với ai đấy?”
“Người phụ trách việc lưu trữ của thành phố… Ông ta nói trước đây có khoảng ba trại chăn nuôi chính tại Manhattan. Một ở West Side, quanh Phố sáu mươi…Một ở Harlem, trong những năm 1930 hoặc 1940. Và một ở Lower East Side trong thời kỳ Cách mạng.”
“Ta cần địa chỉ, Banks. Địa chỉ!”
Lắng nghe.
“Ông ta không chắc chắn.”
“Sao ông ta lại không tìm được. Nói với ông ta tìm đi.”
Banks trả lời: “Ông ta nghe thấy ngài nói rồi, thưa ngài… Ông ta nói: Ở đâu? Tìm chúng ở đâu? Khi đó họ vẫn chưa có Những Trang Vàng. Ông ta đang nhìn vào cổ xưa…”
“Bản đồ dân số của khu vực thương mại không có tên phố”, Rhyme càu nhàu. “Rõ ràng quá, cứ để ông ta đoán.”
“Đúng là ông ta đang làm thế. Ông ta đang đoán.”
Rhyme nói: “Ta cần ông ta đoán nhanh lên.”
Banks lắng nghe, gật đầu.
“Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì?”
“Quanh Phố Sáu mươi và Mười.” Viên sĩ quan trẻ tuổi nói. Một khắc sau: “Lexington gần sông Harlem…và sau đó…trang trại Delancey ở đâu? Có phải gần phố Delancey không?...”
“Tất nhiên rồi. Từ Tiểu Ý con đường đi thẳng xuống sông Đông. Rất nhiều khu vực. Hàng dặm. Ông ta có thể thu hẹp lại một chút, được không?”
“Quanh Phố Catherine. Lafayette…Walker. Ông ta không chắc.”
“Gần tòa án”, Sellitto nói và bảo Banks. “Gọi đội của Haumann. Chia họ ra. Khám xét tất cả ba khu vực.”
Viên thám tử trẻ tuổi gọi điện, sau đó ngẩng đầu lên. “Giờ thì sao?”
“Chúng ta đợi”, Rhyme nói.
Sellitto càu nhàu: “Tôi ghét phải đợi.”
Sachs hỏi Rhyme: “Tôi dùng điện thoại của anh, được không?”
Rhyme hất đầu về phía cái bàn đầu giường.
Cô ngần ngừ. “Anh có cái nào ở ngoài kia không?” Cô chỉ ra phía hàng lang.
Rhyme gật đầu.
Với một dáng đi hoàn hảo, cô bước ra khỏi phòng ngủ. Anh có thể nhìn thấy cô trong tấm gương ở hành lang, khoan thai gọi cuộc điện thoại quý giá. Ai vậy? Anh băn khoăn. Bạn trai, chồng? Trung tâm chăm sóc ban ngày? Vì sao cô lại chần chừ trước khi nhắc đến “người bạn” của cô, lúc cô nói với họ về con chó giống collie? Chắc là có một câu chuyện đằng sau, Rhyme đoán thế.
Người cô gọi không có ở đó. Anh thấy mắt cô biến thành những viên cuội màu xanh thẫm khi không thấy ai trả lời. Cô ngẩng đầu lên và bắt gặp Rhyme đang nhìn cô qua tấm gương bụi bặm. Cô quay lưng lại. Điện thoại trượt xuống cái giá đỡ và cô quay lại phòng anh.
Yên lặng trong năm phút. Rhyme không có một cơ chế mà ai cũng có để làm giảm tình trạng căng thẳng. Anh là một người tính khí thất thường khi anh còn đi lại được, điều đó làm cho mọi sĩ quan trong IRD phát khùng. Lúc này, mắt anh đang hăng hái quét trên tấm bản đồ Randel khi Sachs đưa tay lên mũ tuần tra để gãi đầu.
Mel Cooper vô hình đang sắp xếp vật chứng, bình tĩnh như một bác sĩ phẫu thuật.
Tất cả, trừ một người trong phòng, đều nhảy bật lên khi nghe điện thoại của Sellitto reo. Anh ta nghe, mặt mũi nhăn nhó.
“Được rồi!” Một trong những sĩ quan của Haumann đang ở Phố Mười một và Sáu mươi. Họ nghe thấy tiếng thét của phụ nữ ở đâu đó quanh đấy. Họ không biết chắc chắn là ở đâu. Họ đang tìm kiếm từng nhà.”
“Đi giày chạy của cô vào”, Rhyme ra lệnh cho Sachs.
Anh thấy mặt cô xịu xuống. Cô nhìn điện thoại của Rhyme, như thể nó có thể đổ chuông với một cuộc gọi ân xá từ văn phòng Thị trưởng vào bất kỳ lúc nào. Sau đó nhìn Sellitto, lúc này đang cúi người trên bản đồ chiến thuật ESU của West Side.
“Amelia”, Rhyme nói, “ta đã mất một người. Thế là quá tệ. Nhưng chúng ta không phải mất thêm ai nữa.”
“Nếu anh nhìn thấy cô ấy”, cô thì thầm. “Nếu mà anh nhìn thấy hắn làm gì với cô ấy…”
“Ồ, nhưng tôi có thấy, Amelia”, anh nói đều đều, ánh mắt anh nghiêm khắc và thách thức. “Tôi thấy điều gì xảy đến với T.J. Tôi đã nhìn thấy điều gì xảy đến với những cơ thể bị để cả tháng trong cốp xe nóng nực. Tôi nhìn thấy điều mà nửa cân C4 làm với tay, chân và mặt. Tôi đã khám nghiệm đám cháy tại Happy Land. Hơn tám mươi người bị bỏng đến chết. Chúng tôi chụp ảnh Polaroid mặt nạn nhân hoặc những gì còn lại của họ để gia đình họ nhận dạng – vì chẳng có một ai sau khi đi qua những hàng xác chết đó mà không bị điên. Ngoại trừ chúng tôi. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác.” Anh hít vào, chống lại cơn đau đang tràn qua cổ. “Thấy không, nếu cô muốn tồn tại được trong cái ngành này, Amelia… Nếu cô muốn tồn tại trong cuộc đời, cô phải học được cách bỏ qua người đã chết.”
Từng người một trong phòng dừng công việc mình đang làm và nhìn về phía họ.
Không một lời xã giao từ Amelia Sachs. Không một nụ cười lịch sự. Trong một khắc, cô thử tạo ra cái nhìn trở nên bí ẩn. Nhưng nó chỉ trong suốt như thủy tinh. Cơn giận của cô – không tương xứng với những nhận xét của anh ta – chọc giận lại cô; khuôn mặt dài của cô gập lại vì một sức mạnh đen tối. Cô hất mớ tóc đỏ lười biếng sang bên và nhặt cái tai nghe trên bàn. Cô dừng lại phía trên cầu thang và nhìn anh ta với cái nhìn khinh miệt, nhắc nhở Rhyme rằng, chẳng có gì lạnh lùng hơn một nụ cười lạnh lùng của người phụ nữ đẹp.
Và vì lý do nào đó, anh thấy mình đang nghĩ: Chào mừng cô quay trở lại, Amelia.

“Anh có gì vậy? Anh có bánh kẹo, anh có một câu chuyện, anh có những bức hình?”
Scruff ngồi trong quán rượu phía East Side, Manhattan, Đại lộ Ba – với thành phố thì nó giống như khu mua bán nhỏ ở vùng ngoại thành. Đó là một quán rượu bẩn thỉu, sắp sửa tràn ngập đám dân công sở trẻ nửa mùa. Nhưng lúc này nó là nơi trú ngụ của những người dân địa phương ăn mặc tồi tàn, ăn bữa tối với món cá đáng ngờ và món sa lát héo rũ.
Một người đàn ông gầy gò, có làn da giống như gỗ mun lốm đốm mặc áo sơ mi rất trắng và bộ vét màu xanh lá. Anh ta nghiêng lại gần Scruff hơn. “Anh có tin, anh có mã bí mật, anh có thư không? Anh có phân không?”
“Này. Ha”
“Anh không cười khi anh nói: ha”, Fred Dellray nói, thực ra là D’Ellret vài thế hệ trước. Anh ta cao sáu feet bốn, hiếm khi cười ngay cả với chuyện đùa Jabberwocky và là nhân viên sáng giá trong văn phòng FBI ở Manhattan.
“Không đâu. Tôi không cười.”
“Thế thì anh có gì?” Dellray bóp chặt đầu mẩu điếu thuốc đang ở bên tai trái.
“Mất thời gian đấy ông bạn”, Scruff, một người đàn ông thấp bé, vừa gãi mái tóc nhờn của mình vừa nói.
“Nhưng anh không có thời gian đâu. Thời gian rất quý báu, thời gian đang trôi đi, và thời gian là thứ mà anh. Không. Có.”
Dellray cho bàn tay to lớn của mình xuống dưới gầm của cái bàn có hai ly cà phê bên trên, bóp đùi Scruff thật mạnh đến nỗi hắn phải rên rỉ.
Sáu tháng trước, anh chàng trắng trẻo, nhỏ thó đó bị tóm khi đang cố bán mấy khẩu M16 tự động cho mấy tên điên cánh hữu, mà họ – bất kể có phải như thế hay không – lại là nhân viên mật của BATF.
Tất nhiên nhân viên an ninh liên bang không muốn Scruff, một của nợ nhỏ thó tóc nhờn. Họ muốn bắt những kẻ cung cấp súng cho anh ta. ATF[86] đã lội ngược dòng khá xa nhưng không tìm được gì đáng giá, vì thế họ giao anh ta cho Dellray, nhân viên quản lý đặc tình Numero Uno số một của Cục, để xem anh ta có đem lại lợi ích gì không? Nhưng cho tới lúc này, anh ta vẫn chỉ tỏ ra là một gã khó chịu, một thứ chuột bọ gầy nhẳng, mà rõ ràng chẳng có tin tức, mã bí mật, thậm chí là phân cho nhân viên liên bang.
“Cách duy nhất anh có thể thoát án, mọi bản án, là anh phải cung cấp cho chúng tôi thứ gì đó vừa đẹp lại vừa dính. Chúng ta đồng ý vụ này chứ?”
“Lúc này thì tôi chẳng có quái gì cho các anh, đó là điều tôi đang nói. Ngay lúc này.”
“Không đúng, không đúng. Mày đã có gì đó rồi. Tao có thể nhìn thấy điều đó trên mặt mày. Đúng là mày biết điều gì đó, thằng hâm.”
Chiếc xe bus đỗ xịch bên ngoài, tiếng phanh hơi rin rít. Một đám người Pakistan trèo ra khỏi cửa.
“Anh bạn, cái hội nghị khốn kiếp của Liên Hiệp Quốc”, Scruff lẩm bẩm, “họ đến đây làm chó gì thế? Thành phố này đã quá đông rồi. Cái lũ ngoại quốc ấy.”
“Hội nghị khốn kiếp. Đồ chết đói, đồ đê tiện”, Dellray cắn cảu. “Mày có gì phản đối hòa bình thế giới thế?”
“Chẳng có gì.”
“Thế thì nói cho tao điều gì đó hay ho đi.”
“Tao chẳng biết điều gì hay ho cả.”
“Mày đang nói chuyện với ai đây?” Dellray độc ác nhăn mặt. “Tao là loài thằn lằn. Tao có thể cười vui vẻ, nhưng tao cũng có thể chơi trò bóp cẳng đấy.”
“Đừng anh bạn, đừng”, Scruff ré lên. “Mẹ kiếp, đau quá. Thôi ngay đi.”
Nhân viên quầy bar nhìn họ và một cú liếc ngắn của Dellray buộc anh ta quay lại công việc đánh bóng cốc chén của mình.
“Được rồi, có lẽ là tao biết một việc. Nhưng tao cần giúp đỡ. Tao cần…”
“Bóp thêm tí nữa phải không?”
“Mẹ mày. Con mẹ mày.”
“Ồ, đó là một cuộc nói chuyện rất thông minh”, Dellray đáp trả. “Mày nói như bọn trong mấy bộ phim tệ hại, mày biết đấy, người tốt và kẻ xấu cuối cùng cũng gặp nhau. Như Stallone gặp kẻ khác. Và tất cả mọi điều chúng có thể nói với nhau là ‘con mẹ mày’, ‘không, con mẹ mày’, ‘không, con mẹ mày cơ’. Bây giờ thì mày nói tao nghe điều gì đó hữu ích. Đồng ý không?”
Và nhìn chằm chằm Scruff cho đến khi anh ta đầu hàng.
“Ok, đây. Tôi tin anh đấy, anh bạn. Tôi…”
“Rồi. Rồi. Rồi. Mày có gì?”
“Tôi vừa nói chuyện với Jackie. Anh biết Jackie chứ?”
“Tao biết Jackie.”
“Và hắn nói với tôi.”
“Hắn nói gì với mày?”
“Hắn nói với tôi là nếu tôi có đến đó, đến hoặc đi đâu đó trong tuần này, đừng có đi bằng máy bay.”
“Vậy thì cái gì đến hoặc đi? Lại thêm 16s nữa à?”
“Tôi nói với anh rồi, anh bạn. Tôi chẳng có gì cả. Tôi chỉ nói với anh điều Jackie…”
“Nói với mày.”
“Đúng rồi, anh bạn. Rất chung chung, anh biết chứ?” Scruff mở to mắt nhìn Dellray. “Tôi có cần nói dối anh không?”
“Đừng có bao giờ đánh mất phẩm giá”, viên đặc vụ long trọng cảnh cáo, chỉ ngón tay cứng như đá vào ngực Scruff. “Bây giờ, có gì ở sân bay? Sân bay nào? Kennedy? La Guardia?”
“Tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là có tin đồn sẽ có ai đó ở sân bay. Ai đó rất tệ.”
“Cho tao cái tên.”
“Không có tên.”
“Jackie ở đâu?”
“Không biết. Nam Phi. Tôi nghĩ thế. Có thể ở Liberia.”
“Tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì?” Dellray bóp điếu thuốc của anh ta lần nữa.
“Tôi đoán có khả năng sắp có điều gì đó xảy ra, anh biết đấy, như kiểu lại có hàng về.”
“Mày đoán.” Scruff rúm người, nhưng Dellray không có ý định tiếp tục tra tấn anh chàng nhỏ thó này thêm nữa. Anh ta đã nghe thấy chuông báo động: Jackie – tên buôn vũ khí mà cả Cục đã biết đến khoảng một năm – có thể nghe được điều đó từ một trong những khách hàng của hắn ta, những người lính ở châu Phi và Trung Âu, những đơn vị dân quân ở Mỹ, về một tên khủng bố sẽ tấn công sân bay. Thường thì Dellray không nghĩ về điều đó, ngoại trừ vụ bắt cóc ở sân bay JFK đêm qua. Anh ta không chú ý lắm đến điều này – đó là việc của NYPD. Nhưng lúc này anh lại nghĩ đến vụ nổ lựu đạn không thành công tại cuộc họp của UNESCO ở London hôm trước.
“Anh chàng của mày không nói thêm gì nữa à?”
“Không, anh bạn ạ. Không còn gì nữa. Mà này, tôi đói. Chúng ta có thể ăn gì chứ?”
”Nhớ tao nói gì với mày về phẩm giá không? Đừng rên rỉ nữa”. Dellray đứng dậy. “Tao phải gọi điện.”

Chiếc RRV phanh kít trên Phố Sáu mươi.
Sachs nhặt chiếc vali khám nghiệm hiện trường, cây đèn PoliLight và cây đèn pin mười hai volt to tướng.
“Các anh đến đúng lúc chứ?” Sachs hỏi một binh sĩ ESU. “Cô ấy có sao không?”
Đầu tiên không ai trả lời. Sau đó cô nghe thấy tiếng thét.
“Có chuyện gì thế?” Cô lẩm bẩm, chạy đứt hơi về phía một cánh cửa lớn vừa bị ESU phá vỡ. Cảnh cửa mở ra một con đường rộng dẫn xuống một tòa nhà gạch đã bị bỏ hoang. “Cô ấy vẫn còn ở đó?”
“Đúng thế.”
“Tại sao?” Amelia Sachs bị sốc, hỏi lại.
“Họ bảo chúng tôi không được vào.”
“Không được vào? Cô ấy đang gào thét kìa. Các anh không nghe thấy à?”
Viên cảnh sát ESU nói: “Họ bảo chúng tôi đợi cô.”
Họ. Không, không phải là họ. Lincoln Rhyme. Thằng khốn.
“Chúng tôi chỉ phải tìm cô ta thôi”, viên sĩ quan nói. “Cô là người phải vào trong.”
Cô bật tai nghe. “Rhyme!” Cô quát. “Anh ở đâu?”
Không trả lời…Đồ hèn nhát.
Bỏ qua người đã chết… Đồ chó. Giận dữ như lúc cô vừa chạy xuống cầu thang nhà anh ta mấy phút trước, nhưng lúc này cơn giận dữ tăng gấp đôi.
Sachs liếc nhìn ra sau và nhận thấy một nhân viên y tế đang đứng cạnh chiếc xe EMS.
“Anh kia, đi với tôi.”
Anh ta bước tới một bước và nhìn thấy cô rút súng. Anh ta dừng lại.
“Ấy, từ từ đã”, nhân viên y tế nói. “Tôi không đi cho tới khi khu này được an toàn.”
“Đi ngay! Đi thôi!” Cô quay ngoắt lại, chắc là anh ta nhìn thấy nhiều nòng súng hơn anh ta muốn. Anh ta nhăn mặt và vội vã chạy theo cô.
Từ phía dưới lòng đất họ nghe tiếng kêu: “Aiiiii! Hilfe!” Sau đó là tiếng thổn thức.
Lạy Chúa. Sachs bắt đầu chạy về phía cánh cửa tối tăm, cao mười hai feet, bên trong tối như hũ nút.
Cô nghe thấy giọng anh ta trong đầu mình: Cô là hắn ta, Amelia. Cô nghĩ gì vậy?
Biến đi, cô thầm nói.
Nhưng Lincoln Rhyme không biến mất.
Cô vừa là tên giết người vừa là kẻ bắt cóc, Amelia. Cô sẽ đi đâu, cô sẽ chạm vào cái gì?
Quên đi! Tôi đến để cứu cô ta. Mặc kệ hiện trường vụ án…
“Mein Gott! Nàm ơn đi. Có ai không? Nàm ơn giúp tôi!”
Đi thôi, Sachs. Chạy nhanh! Hắn không có ở đây. Mày an toàn rồi. Cứu cô ta đi, đi nào…
Cô tăng nhịp bước, dây lưng khí tài của cô kêu lanh canh theo từng bước chạy. Khi chạy được khoảng hai mươi feet trong đường hầm, cô dừng lại. Tự tranh luận. Bên nào thắng cô cũng không thích.
“Ôi, mẹ kiếp”, cô quát lên. Cô đặt cái vali xuống rồi mở ra. Cô nói với nhân viên y tế: “Này, tên anh là gì?”
Chàng thanh niên căng thẳng trả lời: “Tad Walsh. Ý tôi là, điều gì đang xảy ra thế?” Anh ta nhìn vào bóng tối.
“Ôi… Bitte, helfen Sie mir!”
“Yểm trợ cho tôi”, Sachs thầm thì.
“Yểm trợ cho cô? Đợi chút, tôi không làm đâu.”
“Cầm lấy súng đi, được không?”
“Tôi yểm trợ cho cô khỏi cái gì mới được chứ?”
Nhét khẩu tự động vào tay anh ta, cô quỳ xuống. “Chốt an toàn mở rồi đấy, cẩn thận.”
Cô nhặt hai đoạn băng cao su, bọc giày. Lấy lại súng, cô bảo anh ta làm theo.
Tay run rẩy, anh ta đeo băng cao su vào.
“Tôi nghĩ…”
“Im lặng. Có thể hắn vẫn còn ở đây.”
“Đợi chút, thưa cô”, nhân viên y tế thầm thì. “Cái này không có trong phần công việc của tôi.”
“Của tôi cũng chẳng có. Cầm lấy đèn này.” Cô đưa cho anh ta cái đèn pin.
“Nhưng mà nếu hắn ở đây, có thể hắn sẽ bắn vào chỗ sáng. Ý tôi là, nếu là tôi, tôi sẽ bắn như vậy.”
“Thế thì nâng cao nó lên. Trên vai tôi đây này. Tôi sẽ đi trước. Và nếu có ai đó dính đạn, người ấy sẽ là tôi.”
“Lúc ấy thì tôi làm gì?” Tad hỏi như một cậu bé.
“Tôi sẽ chạy như điên”, Sachs lầm bầm. “Giờ thì theo tôi. Và giữ đèn cho chắc vào.”
Tay trái kéo lê cái va li CS, súng giương trước mặt, cô nhìn xuống nền đất khi bước vào trong bóng tối. Cô lại nhìn thấy vết chổi quen thuộc, giống như tại hiện trường lúc trước.
“Bitte nicht, bitte bicht, bitte…”, một tiếng thét ngắn, sau đó im lặng.
“Có chuyện quái quỷ gì ở đây thế?” Tad thầm thì.
“Suỵt”, Sachs ngăn lại.
Họ bước đi từ từ. Sachs thổi vào các ngón tay đang nắm chặt khẩu Glock – để làm khô mồ hôi – và thận trọng ngắm nhìn những mục tiêu ngẫu nhiên là những cây cột gỗ, bóng tối và bỏ qua những thứ máy móc bị cây đèn pin không ổn định trong tay Tad chiếu sáng.
Cô không tìm thấy dấu chân nào.
Tất nhiên là không rồi. Hắn thật thông minh.
Nhưng ta cũng thông minh, cô nghe thấy Lincoln nói trong đầu. Cô bảo anh ta câm đi.
Giờ thì đi chậm hơn.
Năm feet nữa. Dừng lại. Rồi chậm chạp tiến lên phía trước. Cố không để ý đến tiếng rên la của cô gái. Cô lại cảm thấy nó – cái cảm giác bị theo dõi, những móng vuốt trơn trượt của cái nhìn sắt đá đang theo dõi mình. Áo giáp không thể chống lại được đạn vỏ kim loại. Một nửa bọn người xấu dùng đạn Black Talons – vì thế một phát súng vào tay hay vào chân cũng giết chết anh ngon lành như một phát vào ngực. Mà còn đau đớn hơn rất nhiều. Đã có lần Nick nói với cô rằng, một trong những viên đạn như vậy có thể xé tung cơ thể; một trong những đồng sự của anh đã chết trên tay anh khi bị hai viên đạn ác hiểm này bắn trúng.
Phía trên và đằng sau…
Nghĩ đến anh, cô nhớ lại một đêm, nằm dựa vào lồng ngực vững chãi của Nick, nhìn ngắm khuôn mặt Italia đẹp trai của anh trên gối, khi anh kể cho cô nghe về cuộc tấn công giải cứu con tin – “Nếu ai đó bên trong muốn hạ anh khi anh đi vào, hắn sẽ làm điều đó từ phía trên và đằng sau…”
“Mẹ kiếp.” Cô khom người quỳ xuống, quay người lại, chĩa khẩu Glock lên trần, sẵn sàng nhả hết băng đạn.
“Gì thế?” Tad rúm người lại thầm thì. “Gì thế?”
Cảm giác trống rỗng tóm lấy cô.
“Không có gì.” Hít thở thật sâu, cô đứng dậy.
“Đừng làm thế.”
Có tiếng ríu rít đằng trước họ.
“Lạy Chúa”, giọng nói the thé của Tad lại vang lên. “Tôi ghét chuyện này.”
Thằng cha này tệ thật, cô nghĩ. Mình biết thế vì hắn cứ nói ra mọi điều mà chính mình cũng muốn nói ra.
Cô ngừng lại. “Chiếu đèn vào đây. Phía trước.”
“Ôi, lạy Chúa tôi…”
Sachs ngay lập tức hiểu được đám lông mà cô tìm thấy tại hiện trường lần trước là gì. Cô nhớ đến cái nhìn mà Sellitto và Rhyme trao đổi với nhau. Anh ta biết điều đối tượng đã chuẩn bị. Anh ta biết điều này sẽ xảy ra với cô ta – nhưng anh ta vẫn bắt đội ESU phải đợi. Cô lại càng ghét anh ta hơn.
Trước mặt họ là một cô gái tròn trĩnh nằm vạ vật trên sàn nhà, giữa một vũng máu. Cô ta nhìn về phía ánh sáng bằng ánh mắt đờ đẫn rồi ngất đi. Vừa lúc đó, một con chuột đen khổng lồ – to như một con mèo nhà – bò lên bụng cô ta rồi tiếp tục hướng về phía cổ họng. Nó nhe những chiếc răng bẩn thỉu, chuẩn bị cắn vào cằm cô gái.
Sachs nhẹ nhàng nâng khẩu Glock cồng kềnh lên, bàn tay trái cô đỡ báng súng. Cô ngắm thật cẩn thận.
Bắn súng cũng giống như hít thở.
Hít vào, thở ra. Bóp cò.
Đó là lần đầu tiên cô bắn kể từ lúc bắt đầu đi làm. Bốn phát. Con chuột khổng lồ đang đứng trên ngực cô gái nổ tung. Cô bắn một con khác ở phía sau trên sàn và một con nữa, trong cơn hoảng loạn nó đã lao về phía Sachs và anh chàng nhân viên y tế. Những con khác lặng lẽ biến mất, như nước thấm xuống cát.
“Lạy Chúa”, anh chàng nhân viên y tế nói. “Cô có thể bắn cả cô ta đấy.”
“Cách ba mươi feet ư?” Sachs nói. “Khó lắm.”
Máy bộ đàm lên tiếng và Haumann hỏi có phải họ bị bắn hay không.
“Không”, Sachs trả lời. “Chỉ bắn vài con chuột thôi.”
“Nghe rõ.”
Cô lấy chiếc đèn pin từ anh chàng nhân viên y tế, chiếu nó xuống thấp và tiến lên phía trước.
“Ổn rồi”, Sachs nói. “Em sẽ ổn thôi.”
Cô gái mở mắt, quay đầu sang hai bên.
“Bitte, bitte…”
Trông cô ta rất nhợt nhạt. Đôi mắt xanh của cô ta dán vào mắt Sachs, cứ như cô ta sợ phải nhìn ra chỗ khác. “Bitte, bitte, nàm ơn đi...”
Cô ta điên dại khóc lóc rồi bắt đầu sụt sùi và run rẩy vì hoảng sợ khi anh chàng nhân viên y tế băng những vết thương cho cô ta.
Sachs đỡ mái đầu vàng óng, đầy máu của cô gái, nựng nịu: “Em sẽ ổn thôi, em bé, em sẽ ổn

 
Chú thích
[86] ATF: Viết tắt của BATF.