Chương II


Chương IV

     uổi chiều hôm đó, người nhà chú Chưởng đem dĩa cơm trộn thức ăn đặt dưới chân giường. Con Quít ngẩng đầu, quay nhìn rồi lại lặng lẽ cúi xuống, đặt mõm lên hai chân trước thở dài. Nó không ngửi đến thức ăn mặc dầu chú Chưởng cũng đã lưu ý cho những món ngon để mà chiêu đãi khách mới. Đêm đến, sau khi đóng kín cửa trước, chú Chưởng mở xích cho nó thong thả ra ngoài. Chú sợ cột mãi một chỗ lâu quá, nó sẽ làm bẩn trong phòng. Nhưng chú quá lo, con Quít là một con vật sạch sẽ, không bao giờ làm bậy bạ trong nhà. Suốt đêm hình như con vật hết đi lang thang quanh sân lại ngồi lặng lẽ ở dưới mái hiên hướng về chốn cũ. Đôi lần thức giấc, mở cửa nhìn ra chú vẫn thấy nó lặng lẽ ngồi yên hay đi thất thểu chung quanh vòng rào. Có lẽ trọn một đêm dài con Quít đã không nhắm mắt phút nào. Vào sáng hôm sau, chú Chưởng cầm miếng thịt lớn đem đến trước nó để nó nhìn thấy rồi chú lè lưỡi liếm trước và trao cho nó.
- Quít, ăn li, tao không có thuốc mày lâu.
Con chó tỏ vẻ ngần ngừ rồi hơi cúi đầu tới trước, ngoạm vào miếng thịt một cách nhỏ nhẹ. Nó ăn chậm chạp từ tốn, có lẽ là vì tuân lệnh hơn vì thèm khát. Thấy nó chịu ăn, chú Chưởng mừng lắm. Đợi nó xong bữa chú lại vỗ vào đầu nó nhẹ nhàng, rồi dắt ra ngoài thớt thịt dặn dò:
- Này Quít, tao giao cho mày nằm dưới thớt thịt lể canh chừng mèo. Có người lên mua thì nhớ sủa lên, nghe chưa?
Nó nằm yên dưới thớt thịt, đưa mắt nhìn từng người qua kẻ lại. Mỗi khi thoáng thấy bóng dáng con mèo từ xa, nó vọt nhanh như mũi tên, phóng đuổi. Con mèo vội vàng nhảy lên nóc nhà, trốn biệt. Con Quít lại quay về nằm chỗ cũ. Thấy người nào dừng lại trước thớt thịt, nó sủa lên một tiếng ngắn vừa đủ báo hiệu cho người nhà biết, vừa đủ cảnh báo khách hàng rằng có một sự kiểm soát trực tiếp tại chỗ về “quyền sở hữu” của thớt thịt này.
Dần dà được sự ăn uống no đủ và sự chăm sóc vỗ về, con Quít làm nhiệm vụ mới một cách ngoan ngoãn và quen dần đi với khung cảnh mới. Bây giờ một cuộc sống khác đã làm đổi thay người nó. Về với chú Chưởng nó không còn được chạy nhảy thỏa thích ngoài đồng, đuổi chim, bắt chuột, không còn lặn ngụp tự do giữa dòng theo những chuyến săn ngoài sông, không còn làm những trò vui để tiếp nhận lấy trận cười hỉ hả của người chung quanh vào những buổi tối. Nhưng nó cũng khỏi lê lết trên con đường dài mệt nhọc, nhiều khi đói lòng hứng chịu nắng trưa, nó cũng thoát khỏi những cảnh đêm dài dằng dặc chập chờn thức ngủ canh từng tiếng động ngoài xa, và dù gió lạnh mưa bay cũng phải theo chủ tuần canh chung quanh đồn bót. Bây giờ nó được ăn uống béo bổ, lại nằm một nơi, chỉ phải di chuyển từ nhà ra đến thớt thịt gần đấy rồi từ thớt thịt lại quay về nhà. Vì vậy con Quít no tròn mập ú, bước đi núc na, núc ních. Thỉnh thoảng nó mới được dịp đi xa một chút, đó là mỗi lần chú Chưởng rảo tìm mua heo trong xóm nó được dịp tốt đi theo rong chơi cho đỡ tù túng phần nào. Về sau chú Hai, em của chú Chưởng đến ở chung nhà với anh, bán hủ tiếu ở đâu phố và nó được gọi chạy theo. Chuyến về, chú dẹp thùng nước rửa chén, kêu nó vào nằm trong đó, và chú gánh nó lại nhà. Kể ra chú Hai cũng mến nó lắm. Cũng như chú Chưởng, hai anh em của nhà này đối với con Quít thật là tử tế. Tuy vậy, sự tử tế ấy biểu lộ phần nhiều ở trên đời sống vật chất thừa mứa nhưng rất thiếu sót về phần tình cảm. Ở đây, người ta ít vuốt ve nó, ít mơn trớn nó. Người ta cũng không dạy bảo gì hết. Nó cũng không phải làm các trò cũ như là ngày xưa, nhặt banh, mò trứng, bắt cò v.v... những trò chơi làm cho nó linh hoạt và tươi tỉnh hơn. Đã vậy thấy nó quá sức khôn ngoan trong việc giữ gìn nhà cửa chú Chưởng, nhiều người làm công lại không ưa nó, có người thường lén đập đánh con Quít để đuổi nó đi. Một số những người láng giềng cũng ghét con Quít. Họ ghét đến nỗi nhiều khi muốn giết chết nó. Con Quít chừng như cũng biết nỗi ác cảm ấy ở chung quanh mình nên nó đâm ra dè dặt, nghi kỵ đối với mọi người. Bây giờ chỉ còn chú Hai thỉnh thoảng vẫn tưng tiu nó. Nhưng chú mới ở bên Tàu chạy loạn sang đây, nói tiếng lơ lớ khó hiểu. Chú chưa vợ con và trong nỗi cô đơn đó, giữa một khung cảnh còn xa lạ người chú dành cảm tình của mình cho conm được những nét mảnh dẻ ngày nào. Cơn đau vừa rồi có làm gầy sút, tiều tụy, nhưng sự bồi dưỡng tiếp theo đã giúp hồi phục lần hồi được vẻ mỹ miều sẵn có. Như những cô gái biết mình có chút duyên dáng, cô Quít cũng thấy tự kiêu. Nếu lại có dịp rong chơi ngoài đường thì không thiếu gì những chàng trai trẻ vẫy đuôi, mon men tìm lại làm quen để mua một chút cảm tình người đẹp. Thế mà coi bộ anh Vá nhà này có vẻ phớt tỉnh đối với cô nàng. Gã là thứ gì mà lại cao ngạo như thế? Hay đây là một con người bệnh hoạn, chẳng còn chút sinh lực nào nên có thái độ hờ hững đối với sự đời? Dù sao đi nữa thì sự lạnh lùng của gã chẳng đáng quan tâm. Cô Quít nghĩ ngợi như thế để tự trấn an lấy mình. Nhưng dầu không thèm để ý đến gã, sự việc gã không để ý đến cô ít nhiều cũng làm cho cô phiền lòng. Dưới mái nhà này, chỉ có hai người đồng loại mà lại hờ hững với nhau, chẳng là buồn sao?
Cứ thế, hai con vật ấy nuôi dưỡng những điều ngờ vực lẫn nhau, và hình như tìm mọi cách để sống dang xa dưới một mái nhà. Một hôm, con Quít đang ngồi gần nơi cửa chính thì thấy con Vá khập khiễng lê bước ra ngoài. Trông cái bộ tướng của gã sao mà ghét thế! Gã đi gần bên cạnh mình mà tuồng như đang mải mê bận suy nghĩ gì ở trong gan ruột. Rõ ràng là gã vẫn còn một con mắt đây, chứ đâu có phải mù lòa cho cam. Thế mà như dưới vòm trời gã không hề biết có một cô Quít đang nằm giữa chốn cô đơn. Lập tức, thấy gã đi lại gần mình và sắp vượt qua, cô Quít đứng choàng ngay dậy, nhe một ít răng vừa đủ biểu lộ chút lòng giận dữ, vừa gừ một tiếng, chong mõm vào mặt anh chàng. Anh Vá có vẻ ngạc nhiên, lùi lại đứng yên, giương một con mắt còn sáng nhìn vào người bạn cùng dưới mái nhà. Trông gã không có vẻ gì sợ hãi, cũng không có một chút gì giận dữ. Dáng điệu của gã có vẻ chững chạc của một người anh, có vẻ tự tin của một người chủ, và con mắt gã vừa sáng long lanh vừa có một nét dịu hiền kỳ lạ. Cô Quít tự thấy thái độ của mình thật là kỳ cục, vội hạ mõm xuống, giấu bớt những chiếc răng phô ra ngoài. Về phần anh Vá, sau khi nhìn ngắm như muốn đoán hiểu thái độ của kẻ trước mặt, anh lại quay đầu lặng lẽ bước ra khỏi nhà. Cô Quít nhìn theo lo lắng mãi cho đến khi anh chàng đã khuất, và cũng tự hỏi không biết với những khó khăn, cực nhọc như thế, gã đi về đâu mà thường vắng mặt cả nửa ngày trời? Anh chàng lại có một cô tình nhân đâu đó hay chăng? Chỉ có yêu đương quấn quýt người ta mới bỏ nhà đi suốt buổi, suốt ngày như thế. Trông cái bộ dạng chàng ta thì tìm cho được người tình xứng hợp chắc phải khó khăn - cô Quít nghĩ ngợi với chút mỉa mai trong lòng. Nhưng điều cô Quít có phần ngạc nhiên là vợ chồng người chủ nhà coi bộ nể nang anh chàng tàn tật và thường châm sóc anh ta thật là chu đáo. Thỉnh thoảng có vài người khách xa lạ đến chơi - điều này cô Quít nhận rõ qua sắc diện họ và những dấu bụi đường trường ở trên quần áo - họ thường nói chuyện một cách nồng nhiệt rồi vụt chỉ chỏ về phía anh Vá, gật gù với cái dáng điệu hâm mộ chừng nào. Thậm chí có người đã không ngần ngại mua những tô cháo lòng heo thơm phức đem lại cẩn trọng mời mọc anh chàng. Nằm nghe những mùi thơm tho từ tô cháo ấy bốc lên, cô Quít cảm thấy nao nao gan dạ. Nhưng người ta đâu mời mình? Trong khi cô ả thèm thuồng rối cả ruột gan thì anh chàng nọ lại không thiết tha gì đến miếng ăn ngon ngọt dâng mời. Anh chàng chỉ ngước lên như gật đầu cám ơn, cúi xuống ngửi trên tô cháo rồi hướng nhìn về cô Quít với dáng mời mọc. Có nên nhận lời hay chăng? Chẳng lẽ trong bây lâu nay không có chút thân tình nào, bây giờ lại nhảy xổ đến ăn uống của người ta sao? Hơn nữa, chính phần ăn ấy là dành cho anh chàng mà. Cô Quít ngẩng đầu lên đáp lại sự mời mọc rồi lại cúi xuống. Miếng ăn thường dễ làm hư nhân cách con người. Thôi thì đành chịu nhịn vậy, dù mùi cháo lòng gợi cho cô Quít nghĩ đến những ngày no đủ xa xôi trong tiệm chú Chưởng. Chừng như nhìn thấy người bạn cùng nhà có vẻ bẽn lẽn, anh Vá vội vàng đứng dậy, khập khiễng đi ra ngoài hiên. Ở lại một mình, chắc hẳn cô Quít phải dám ăn xong phần cháo. Và đợi khá lâu, anh chàng mới lại quay vào. Bát cháo vẫn nguyên như cũ, bây giờ đã nguội lạnh rồi. Đảo mắt nhìn về cô bạn, anh thấy cô ta cũng đang nghếch mõm nhìn lên, và trong sự lặng lẽ ấy cả hai cùng thấy phân vân không biết xử trí thế nào.
Nhưng ông Hai Thìn đã hiểu tâm sự của hai con vật. Ông lấy cái bát, sớt nửa phần cháo đem lại con Quít. Rồi đứng giữa nhà, ông truyền mệnh lệnh:
- Ăn đi!
Cả hai cùng ngước nhìn chủ, lại liếc nhìn nhau, rồi mới cúi xuống trên bát cháo lòng. Mỗi con ăn hết phần m&ig chó Quít. Mỗi lần muốn cho nó ăn, chú đút vào tận mồm nó. Muốn nó nằm đâu, chú ẵm đặt nó nằm xuống, vì vậy con chó chỉ biết quấn quýt theo sát chú Hai.
Tôi làm quen với con Quít từ khi nhà nước bắt các tiệm buôn phải giữ sổ sách. Thấy tôi lanh lợi, đọc thông chữ nghĩa và làm được các con toán rõ ràng, chú Chưởng vào nói với cha mẹ tôi cho tôi ra cửa tiệm chú làm việc, sau khi đã ở trường về. Công việc của tôi là làm sổ sách, ghi các giá hàng như một thư ký, và cũng như con chó Quít, tôi được nuôi cơm và không ăn lương. Kể ra trong thời buổi đó, được một công việc như thế là quý lắm rồi. Mới học lớp nhì trường làng mà đã giữ chân thư ký trong một tiệm buôn vào cỡ tiệm buôn chú Chưởng, còn gì vẻ vang hơn nữa? Cha mẹ tôi còn sợ tôi ở không sẽ sinh lêu lổng vì giờ rảnh rỗi tôi thường lang thang ngoài đồng, lặn ngụp ngoài sông, ít khi có mặt ở nhà. Đi làm là cách biến đổi con người cho đứng đắn hơn. Tình trạng khủng hoảng kinh tế thời ấy vẫn còn kéo dài, và dù chỉ ăn cơm không cũng đỡ phần nào cho gia đình tôi.
Những lúc làm xong công việc tôi cũng cảm thấy trống rỗng, cô độc. Ngoảnh đi ngoảnh lại, không ai có thể hầu bạn hay là trò chuyện với mình. Mỗi người đều bận công việc của họ và tôi nhận thấy những kẻ phải làm lụng nhiều đều rất tiết kiệm lời nói. Ba hoa, tán dóc, nói chuyện cà kê dê ngỗng là thói quen của một lớp ăn không ngồi rồi. Hơn nữa, trong nhà chú Chưởng cũng không có ai vào trạc lứa tôi để mà tâm sự. Người lớn chỉ có la mắng hay là đùa cợt lũ trẻ chứ không chịu xem trẻ nhỏ như những người bạn tâm tình. Điều đó gây nên lắm nỗi thiệt thòi - thiệt thòi cho lũ trẻ con và cả cho người lớn nữa. Chỉ có anh Múi, con riêng thím Chưởng là lớn hơn tôi vài tuổi có thể nói chuyện ít nhiều. Nhưng anh thuộc về loại trẻ phiêu lưu, ưa sự phá phách hơn là trò chuyện. Ngôn ngữ của anh là sự hiếu động ở trên tay chân và nếu cần phải sử dụng đến miệng là để chửi thề tục tĩu. Cái miệng của anh chỉ còn bận tâm về hai công việc quan trọng là ăn và chửi. Anh cũng không ưa gì tôi, bởi lẽ tuy tôi nhỏ tuổi nhưng có trình độ học vấn hơn anh. Đáng lẽ công việc biên chép, làm sổ sách này là phần việc của anh Múi. Anh làm được thế sẽ là một cách đóng góp thiết thực cho phần cơm áo mà anh thụ hưởng trong nhà, vừa là cơ hội để mà ngày sau kế tục thừa hưởng gia tài chú Chưởng. Nhưng anh không có khả năng để làm như thế, dù khả năng ấy chỉ là chịu khó ngồi yên một chỗ và làm ít phép cộng trừ nhân chia.
Nhiều hôm, không có việc làm, tôi thực hết sức buồn rầu. Tôi bắt đầu cảm nhận được loài người là giống động vật rất ưa tâm sự, cho dù thuộc lứa tuổi nào. Chú Chưởng cố nhiên là không thể nào trò chuyện với tôi. Chú là người lớn, vừa là ông chủ, hai điều kiện ấy đã ngăn cản chú cảm thông với lũ trẻ nhỏ. Thím Chưởng, tất nhiên phải được sắp xếp vào loại với chủ. Chỉ mỗi chú Hai thì lại chưa nghe rành được tiếng Việt và sự bất đồng ngôn ngữ là hàng rào cản ngăn hết sức quan trọng giữa những con người.
Như thế chỉ còn lại mỗi con Quít là tôi có thể thân thiện. Ngược lại, về phía con Quít nó cũng không còn ai khác ngoài tôi. Hai kẻ cô đơn gặp nhau tất nhiên rất dễ trở thành một đôi tri kỷ. Những lúc xong việc tôi thường đùa với con Quít, bắt nó làm trò, dắt nó đi quanh trong vườn, trong sân, thơ thẩn ngoài chợ. Ngay cả trong khi làm việc, khi phải cong cả lưỡi lại liếm lấy môi trên, gò mình nắn nót từng chữ ở trên trang sổ thì con Quít vẫn chui rúc giữa ống chân tôi, nhai gặm ống chân nhỏ bé của tôi một cách nhẹ nhàng hoặc lôi kéo chiếc quần tôi như một dọa dẫm đùa cợt. Tôi nhận thấy chó cũng cần tình cảm như người. Nó cũng cần sự nâng niu, ve vuốt, cần những lời nói ngọt ngào. Tôi đáp ứng lại nhu cầu sâu xa của nó và dĩ nhiên nó quyến luyến tôi hơn ai hết trong ngôi nhà này. Từ con vật ấy, tôi đã bắt đầu cảm thấy rất sớm được rằng, ngay cả giống vật, không chỉ cho ăn uống no nê mà gọi rằng đủ. Hơn các nhu cầu vật chất, loài vật cũng có nhu cầu tình cảm. Và nhu cầu ấy không phải là không bức xúc, không phải là không quan trọng. Như thế, đối với loài người là loài động vật duy nhất được xem như có ý thức, vì có cuộc sống cộng đồng, vấn đề tình cảm tất nhiên là một nhu cầu còn thiết tha hơn, còn bức xúc hơn.
Thành thật mà nói, tôi không có ý dụ dỗ con Quít về ở với gia đình tôi. Nó là con chó nhà chủ, dầu mình ưa thích bao nhiêu, lòng nào quyến rũ cho đành, vả lại, dễ gì mang nó về được nhà mà không gây những phiền lòng đối với gia đình chú Chưởng. Đó là chưa nói đến một vấn đề khá quan trọng kng lẽ tiến bước về nhà. Cô Quít dừng lại, liếc mắt nhìn xem coi thử chàng ta có muốn nhập cuộc hay chăng. Biết đâu anh chàng lại cũng có nỗi khát thèm như thế, nhưng vì mặc cảm bởi sự tật nguyền nên làm ra vẻ xa lạ đấy thôi. Dù sao, anh ta cũng là bạn tốt, cô Quít thấy rõ điều đó hơn bất cứ ai trong những kẻ này. Nhưng anh chàng Vá vẫn đi trên đường, bình thản, tự nhiên, rõ ràng không phải là anh cố ý làm ra như thế. Có lẽ anh thuộc về thế giới khác, thế giới của sự suy tưởng và sự làm việc, thế giới của những trách nhiệm và những âu lo, không phải là cái đám người hỗn độn chỉ lo đú đởn và chịu lệ thuộc một cách vô tư. Cô Quít bỗng nảy ý định gợi cho anh ta thấy cô đang được những chàng trai hào hoa quấn quýt bên mình. Một lối chọc tức theo như phản ứng tự ái thông thường của những giống loại nhàn rỗi. Cô phóng nhanh qua bãi cỏ, vừa quay đầu lại có ý mời mọc những chàng trai kia rồi lướt qua đường đón đầu anh Vá lang thang. Những chàng trai trẻ không đợi gì hơn, ồ ạt đuổi theo trong sự phấn khởi có dịp bày tỏ tài năng, bản lĩnh của mình. Và cô áo vàng cảm thấy trơ trọi cũng chạy theo sau trong cuộc biểu diễn khá ồn ào đó.
Nhưng kỳ lạ thay khi vừa chạm mặt con người tàn tật trên đường, những chàng trai kia bỗng nhiên khựng lại. Họ như va chạm một sức cản ngăn vô hình và cùng ngước về anh Vá khập khiễng với niềm kính cẩn đặc biệt. Rồi tức thời họ dang ra, ngoan ngoãn lảng tránh ở hai bên đường, nhường chỗ cho chàng khập khiễng đi qua. Thấy thế, cô Quít cũng vội nép lại một bên vệ đường, ngơ ngác đứng nhìn. Người bạn cùng nhà của cô có gì đáng phải sợ hãi dường kia? Những chàng trai trẻ chung quanh khỏe mạnh như thế, phương phi như thế, lẽ nào sợ hãi một kẻ tật nguyền? Thái độ của họ với niềm khuất phục rõ rệt khiến cho cô Quít ngơ ngác. Nhưng họ không phải khuãt phục như sợ một tay anh chị hung hãn mà niềm tôn trọng của họ với những cặp mắt ngưỡng vọng dõi theo anh chàng có cái ý nghĩa của sự thán phục sâu xa. Rõ ràng anh Vá là kẻ khác thường. Anh Vá uy nghi, lặng lẽ mà đi, không hề kiêu hãnh mảy may về sự ngưỡng mộ chung quanh. Anh không lộ chút xúc động trước cái vinh dự mà những kẻ khác ước ao, thèm muốn gần như tuyệt vọng trong cuộc đời mình. Hình như anh sống và hiển nhiên có được giá trị ấy, chứ không dụng tâm xây dựng cho mình những thứ hào quang. Con đường anh đi, và anh cứ đi. Nhưng cô Quít càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy lẽo đẽo ở sau chân anh có cô áo vàng nối bước. Cô ả dần dần tiến lên, đi cạnh anh chàng khập khiễng như muốn tạo dịp làm quen. Anh chàng ngước sang nhìn cô, vẫy đuôi một cách nhẹ nhàng, hơi nghếch mõm sang như ngửi trên màu lông tơ vàng óng rồi lại lặng lẽ mà đi. Cô Quít bỗng nhiên nghe như có mối hờn giận trong lòng. Cô ném về phía cô áo vàng kia cái nhìn khinh bỉ như cho rằng đây là hạng trắc nết lăng loàn, tự do quá trớn xông vào tán tỉnh đàn ông mà không biết ngượng. Nhưng cô áo vàng với niềm tự tin đặc biệt vẫn đi bên cạnh anh chàng, sóng đôi trên quãng đường vắng trời chiều. Cô Quít không ngăn được mình, lẽo đẽo theo sau. Những chàng trai kia vẫn còn ngoan ngoãn ngồi lại phía sau trên những bãi cỏ, ở những lề đường. Cô Quít nhìn thấy hai người đi trước không hề lộ một chút gì suồng sã, họ cũng không thân mật lắm. Thỉnh thoảng mỗi người có nghếch mõm sang bên cạnh như một cử chỉ thân ái nhưng ngoài cách biểu lộ ấy họ không có những ân tình gì khác. Khi đến cổng nhà, anh Vá dừng lại quay nhìn cô bạn đồng hành như có ý bảo: “Thôi cô về đi. Trời đã chiều rồi, tôi phải lại nhà”. Cô áo vàng cũng nghiêng đầu, rồi mới quay lui. Anh chàng nhìn theo một thoáng rồi lại quay mình lặng lẽ vào nhà.
Như thế, rõ ràng chưa phải là tình yêu đâu, đó mới chỉ là tình bạn. Cô Quít bước theo vào trong, không còn cảm thấy hứng thú nô đùa ở nơi công viên như trước. Cô vào chỗ nằm, khoanh tròn, ra vẻ sầu thảm. Anh Vá cũng đang nằm nghỉ sau chuyến đi về nhọc mệt, bỗng ngước nhìn cô ra tuồng quan sát, rồi lại nằm xuống.
Buổi tối hôm ấy cô Quít không ăn. Cô như một kẻ hờn dỗi, và cô hờn dỗi ai đây? Cô nằm ghếch mỏm, duỗi dài bốn chân, tự nhiên cảm thấy cô độc hơn bao giờ hết từ khi đến ở nhà này. Khi cô nhẹ nhàng nghiêng đầu liếc mắt trông sang, cô bỗng bắt gặp anh chàng liếc mắt nhìn về phía mình. Đó là một gã kỳ lạ, một người khác thường, một kẻ coi như chẳng đáng giá gì mà lại có một cung cách đặc biệt khiến cho mọi người nể trọng, là tại làm sao? Có gì trong sự què quặt và mù lòa kia? Có gì trong những chuyến đi cô độc và lang thang đó? Tại sao gã được nể sợ dường ấy? Và tại sao cô áo vàng coi thường bao nhiêu những chàng trai trẻ hào hoa, lại cố mua chuộc cảm tình của gã? Cô Quít đôi lúc cảm thấy ghét gã không biết chừng nào. Nhưng thật sự gã có làm gì để cho cô oán hận được đâu? Gã đã lo liệu mọi việc cho cô, gã biết nhường nhịn và biết chia sẻ. Kìa gã đã ăn xong rồi bát cơm và bây giờ đang hướng mắt nhìn cô có ý thầm hỏi: “Tại sao cô Quít không ăn? Cô Quít buồn phiền việc gì? Ăn đi một bát cơm nào, chúng ta phải ăn để sống, và nếu không còn một niềm an ủi nào khác thì bát cơm kia chính là sự sống, là cái nguồn thương đối với chúng ta”. Nhưng cô Quít đã nghiêng đầu phía khác, không ăn. Phải dỗ dành nhiều, chưa chắc ăn hết một bát cơm đâu. Cô có thoáng thấy mấy lần anh ta hình như nhổm dậy muốn tiến lại về phía cô, nhưng lại ngồi xuống. Người ta có những tâm sự thầm kín, và tốt hơn hết mình đừng nên dây dính vào.
Rõ ràng anh ta không hiểu được mình, cô Quít giận dỗi hơn bao giờ hết. Mãi cho đến khuya khi anh chàng đã bước ra sân ngoài canh gác, cô Quít mới ngồi nhổm dậy lẹ làng ăn hết bát cơm.
Một buổi chiều nọ, đứng ở cổng nhà nhìn ra bãi cỏ, cô bỗng ngạc nhiên thấy một anh chàng to lớn khác thường đang đi nghễu nghện. Hai tai xù lên, vóc dáng cao ráo, hiên ngang, lưng dài cong như lưng ngựa, bắp đùi to lớn rắn chắc đưa những bước chân đĩnh đạc. Có lẽ đây là một người xa lạ mới về cư ngụ nơi đây hay là anh chàng lạc loài đến từ một khu phố khác. Thoáng thấy cô Quít, anh ta vội nhảy chồm lên chào đón và chiếc đuôi cong đầy lông được quỵt xuống thấp nhiều hơn giữa những chân sau. Một sự mời mọc có vẻ ân cần với những cốt cách hoàn toàn mới mẻ. Cô Quít bé nhỏ cảm thấy lòng mình rung động, những muốn phóng tới, nhưng nhớ lại thể giá mình nên chỉ vẫy đuôi nhẹ nhàng rồi tiến tới từng bước một. Cuối cùng họ đã gặp nhau ở giữa bãi cỏ. Anh chàng này lại vẫy đuôi, lại ngúc ngắc đầu, chồm sang bên tả, nghiêng sang bên hữu, đánh bạo hít lấy trên mình cô ả với sự săn đón thật là ân cần. Làm sao cưỡng lại trước một thái độ nồng nhiệt chào mời như thế? Cô Quít cũng vẫy đuôi lại, cũng ngẩng đầu lên, nhưng mồm của cô chỉ với tới giữa lồng ngực anh chàng. Bên kẻ khá cao lớn ấy cô Quít như được che chở dưới cái bóng núi sừng sững. Anh chàng hơi khom người xuống như tự làm cho bé nhỏ để vừa chạng cô bạn mới và để mõm cô có thể ghếch lên cần cổ của anh trong một cử chỉ tâm tình. Dầu sao cô Quít vẫn nhớ những lời dạy dỗ từ xưa, không cho phép mình suồng sã. Kẻ này là kẻ lạ mặt, làm sao có thể tin cẩn ngay được phút đầu? Mọi cuộc ân tình phải có thời gian tìm hiểu mới không chuốc lấy hiểm nghèo, cô vừa sốt sắng đáp lại những sự hỏi han ân cần vừa tự hạn chế lấy mình như vậy.
Lúc ấy trời chiều thật mát và gió từ nơi sông xa phe phẩy đưa về, thấp thoáng những chàng trai khác lảng vảng nơi xa có vẻ e chừng chàng cao lớn nọ. Giữa phút cùng nhau lân la êm đềm như thế, bỗng nhiên cô Quít nghe hực một tiếng khá lớn ở sau lưng mình. Cô quầy ngoắt lại và thấy sừng sững một cô nàng lớn, chẳng khác hình dạng với anh chàng kia bao nhiêu, đang nhe những chiếc nanh nhọn chồm về phía cô. Cô Quít nghiêng đầu rất nhanh, nhảy thoát khỏi sự vồ chụp, quay nhìn lại một lần nữa kẻ vừa mới tấn công mình. Rõ ràng đây là một cuộc đánh ghen xảy đến bất ngờ. Cuộc đời cô Quít chưa hề gặp những rắc rối loại này, bây giờ nó đã xuất hiện đột ngột, cô cần phải đối phó lại. Nhưng coi bộ dạng kẻ thù thật là hết sức hung hăng, chừng như cô ả vừa đến không muốn chờ nghe sự phân trần nào, cô thuộc vào loại ỷ tư thế mạnh của mình sẵn sàng trấn áp đối thủ. Trong cuộc đối phó này đây, cô Quít không hy vọng gì thắng trận. Nhưng nếu anh chàng cao lớn, quả thực có lòng, ắt phải tiếp sức với cô. Vậy thì cứ hãy đương đầu, đừng có sợ nào. Và khi cô kia nhảy tới thì cô Quít cũng chồm lên, nhất định một mất một còn. Nhưng cái vóc dáng cô Quít thật quá bé nhỏ để đối địch lại với kẻ trước mắt. Cô kia chỉ cần phóng tới là đã trùm cả thân hình to lớn lên mình cô Quít, chìa đủ mấy cặp răng nanh ngoạm mạnh vào lưng đối thủ như muốn rứt ra một mảnh da lông để làm chứng tích. Cô Quít nghe những chiếc răng bấu vào da thịt của mình, đau buốt tận xương, vùng vẫy quyết liệt để cố vượt thoát khỏi kìm kẹp ấy. Anh chàng to lớn vẫn đứng yên như cục đá, ngơ ngác nhìn cô chịu sự giày vò. Y đúng là tên khốn nạn, một kẻ chỉ biết lợi dụng trong cơn yên ổn, mà lại rút cổ, co đầu giữa phút hiểm nguy. Xem cái bộ gã ân cần ban nãy tưởng gã có thể chia sớt ruột gan, san sẻ cuộc đời, thế mà giờ đây trước cơn hùng hổ của một con mụ quái ác, gã đã đầu hàng, có thể nhẫn tâm đứng làm chứng nhân thụ động cho vụ bức hiếp thô bạo ở giữa thanh thiên bạch nhật.
Bây giờ chỉ còn mỗi cách là phải đào thoát. Cô Quísơ để cúng ông bà. Con Quít liếm lông sạch sẽ, nằm nghỉ một chốc rồi nhảy lên nằm ở một góc ván. Tôi biết nó không quen nằm dưới đất, nên tìm cái thúng lót giẻ vào trong đặt kề bên nó. Rồi tôi búng tay làm hiệu, chỉ vào cái thùng. Con Quít vâng lời, bước vào, nằm gọn ở trong lòng thúng, ghếch mõm ra ngoài.
Đến lúc cúng xong, tôi dọn cỗ xuống bộ ván, bày thịt cá ra đấy mà nó vẫn chẳng nhúc nhích, chừng như nó đã tập quen tinh thần kỷ luật trong việc ăn uống. Tôi bưng vài món đặc biệt sang biếu bác Ba bên cạnh, quay về thì cả gia đình đã quây quần bên mâm cơm. Tôi bèn lấy một tô riêng xúc cơm, chan canh, để các thức ăn lên trên, đặt ngoài góc ván và gọi con Quít. Nó vâng lời ngay, bước ra khỏi thúng và hình như nó hết sức đói lòng nên ăn một loáng là đã hết sạch.
Con Quít đã đến ăn Tết với tôi năm đó. Gia đình tôi nghèo hơn tiệm chú Chưởng nhưng chắc nó cảm thấy ấm cúng hơn vì được che chở, được trìu mến hơn. Tôi định qua mấy ngày Tết, không còn tiếng pháo sẽ ẵm con Quít đem đến trả cho chủ nó. Trong khi chờ đợi ngày sẽ cho nó hồi hương, một buổi sáng nọ tôi bèn đến gặp chú thím hỏi cho biết rõ sự việc con Quít tìm xuống nhà tôi. Thím Chưởng cho hay sự tình đã khiến con vật bỏ nhà ra đi: anh Múi, con trai của thím đã tinh nghịch cột một dây pháo dài vào vòng cổ nó, châm lửa đốt vào, đúng trưa 28 Tết. Con Quít kêu la, lăn lộn rồi phóng như điên ra đường. Nó chạy trở về con đường thầy Đội hay dắt nó đi lúc trước và thím nhất định là nó đi lạc mất rồi. Sau này mới biết là con Quít chạy một mạch về đồn Gò Cát, hy vọng gặp sự chở che của người chủ cũ. Nhưng mới bước vào vòng đồn bên ngoài nó lại gặp một toán lính đốt pháo khiến nó tháo chạy ngược lại. Đến đâu nó cũng nghe tiếng đì đùng, đì đẹt nên men theo rừng dừa nước ven sông tìm đường lẩn trốn. Trong bao nhiêu năm sống cạnh thầy Đội, con Quít vẫn chưa dạn với tiếng súng. Nhất là tiếng pháo dồn dập xoắn lấy quanh mình vào trưa ngày 28 Tết đã gây cho nó ấn tượng hết sức kinh hoàng. Rồi cứ đi trong sình lầy, lẫn trong đám lá, nó đã đánh hơi lần mò tìm đến nhà tôi. Qua cơn hốt hoảng như thế mà con Quít vẫn biết hướng để chạy, biết hơi để tìm, đủ nói lên sự khôn ngoan của nó.
Đến hạ niêu, tiếng pháo thật sự dứt hẳn, tôi ẵm con Quít đến giao lại cho chú Chưởng. Tình cảm chú thím với nó vẫn còn đậm đà như xưa. Chú thím hết sức dỗ dành và an ủi nó, nhưng vừa thấy bóng anh Múi, nó đã vụt chạy ra đường. Vợ chồng chú thím rầy la anh Múi, nhưng sự trách mắng như thế chỉ làm cho anh càng oán giận thêm con chó mà thôi. Tôi phải chạy ra ẵm con Quít vào. Thím Chưởng lấy dây xích lại. Khi tôi ra về nó vẫn nhìn theo lom lom. Hễ gặp anh Múi đến gần là nó cúi mặt cố ý lẩn tránh.
Chỉ vài ngày sau, con Quít lại chạy bổ đến nhà tôi, run rẩy cầu cứu. Đằng sau, anh Múi đang rượt đuổi theo. Anh bảo cho tôi biết rằng vợ chồng chú Chưởng thấy nó ăn uống trở lại tưởng nó không còn sợ hãi gì nữa nên đã mở xích. Không ngờ vừa thả ra là nó vội phóng đi. Anh Múi bèn lôi nó về, đánh nó một trận, và lần thứ nhất anh cảnh cáo nó bằng cách chặt mất một bên chót tai. Được mấy ngày sau, vết thương đã lành, nó lại được mở dây xích, nhưng cũng như trước vừa được tự do là nó phóng chạy xuống ngay nhà tôi. Anh Múi đến tìm bắt lại và lần này nữa anh chặt luôn chót tai kia. Con Quít lồng lộn, bứt dây, nhất định không chịu ở lại đây nữa. Nó đã kháng cự quyết liệt đến nỗi một người mạnh như anh Múi mà không cách nào trói buộc được nó. Khi nó thoát chạy, anh cầm quả cân hai ký ném theo. Tất cả biện pháp đối xử thô bạo như thế đã khiến con Quít nhất định rời bỏ ngôi nhà chú Chưởng và đến mong được tá túc ở gia đình tôi. Má tôi, nghĩ thương hại nó, nhưng sợ mất lòng vợ chồng chú Chưởng nên đã lên chợ nói với chú thím xin cho nó được ở lại nhà tôi. Má tôi nói thêm:
- Con Quít ở đây có ngày anh Múi lỡ tay sẽ đập nó chết, càng thêm mang tội mà thôi.
Đối với chú Chưởng, dù sao con Quít cũng là kỷ niệm của thầy đội Sáu. Một thứ kỷ niệm khôn ngoan, hữu ích như thế mà không giữ được cho người bạn mình, nghĩ cũng có lỗi.
Chú cần răn dạy anh Múi, la anh một trận kịch liệt. Chú nói:
- Nếu ai cột pháo vào mình của mày mà lốt, mày có liên không? Mày là một thằng lộc ác.
Chú Chưởng biết không cách nào giữ nó lại được, nên đành nhận lời, để chúng tôi nuôi. Nhưng bị la rầy, anh Múi càng căm thù hơn. Một hôm, anh rình rập nó và bắt gặp nó theo sau má tôi lên tiệm mua thịt, anh xông vào nắm chân nó ném mạnh vào một gốc vông khá lớn bên đường. Con chó chết giấc, tôi phải mang về cứu cho tỉnh lại.
Từ khi về ở luôn với tôi nó không bao giờ đặt chân trở lại nhà chú Chưởng nữa. Đôi khi thấy nó, chú đem thịt quay, cháo lòng dỗ dành, nó cũng không ăn. Thấy vậy, chú Chưởng phát cáu, bảo nó:
- Mày giận thằng Múi, chớ mày phản tao luôn à?
Cố nhiên, con Quít không biết trả lời. Nhưng coi dáng vẻ của nó thì mối thiện cảm ngày qua với gia đình chú đã bị những sự đối xử thô bạo của người con trai thím Chưởng làm cho tan tành.
Sau khi tôi cứu sống nó, nó đã biến thành con Quít của gia đình tôi. Đúng ra, nhà tôi có hai con Quít. Đứa em gái tôi cũng tên là Quít. Ấy thế mà con vật ấy không hề lầm lẫn bao giờ. Chưa khi nào má tôi gọi em tôi mà nó lầm tưởng gọi mình. Rõ ràng nó biết phân biệt giọng nói. Khi cần sai nó đuổi gà, rượt mèo, bà bảo: “Xuỵt, con mèo kìa Quít”, hoặc: “Đuổi gà coi Quít”, là nó biết ngay bà gọi nó rồi. Còn với em tôi, giọng của má tôi nhẹ hơn, câu cũng dài hơn. Chẳng hạn, bà nói: “Con Quít sửa soạn để đi học chưa? Coi chừng trễ giờ rồi đó.” hoặc gọi: “Quít? Thay áo đi chợ với má”.
Nếu có việc gì cần kíp gọi nó, má tôi thường gọi dồn dập: “Quít, Quít”. Mỗi lần phải ngăn cấm nó điều gì, má tôi thường tằng hắng trước rồi mới gọi tên: “Con Quít có trở vô không?” là nó tiu nghỉu quay lại không dám cãi lệnh bao giờ. Nó giống như một trẻ ngoan dễ dạy. Mỗi lần đi đâu muốn dẫn nó theo, tôi phải xin phép má tôi. Nó chực ngoài cửa, nghe má tôi ừ là nó mừng rỡ tíu tít, vọt chạy trước xa một đỗi rồi vòng trở lại như một người lính dò đường. Có lúc, tôi không có ý định dẫn nó đi theo, nhưng vừa ra ngõ kịp trông thấy tôi nó phóng đuổi theo thì nghe tiếng má tôi gọi: “Quít, trở lại” lập tức nó quay về ngay và nằm trong thúng ở bên cạnh bàn. Má tôi liền giải thích rõ lý do cấm đoán vừa rồi, như bà nói chuyện với người nào vậy: “Thằng Bảo đi xa, đến tối mới về, mày theo sao nổi? Chừng nào cho phép, mày mới được đi nghe không?”
Con Quít đỡ tay, đỡ chân chúng tôi rất nhiều. Từ ngày nó đến tá túc, khu vườn nhà tôi không hề có bóng con gà nào ở hàng xóm dám bén mảng đến. Cũng không có con mèo nào dám héo lánh đến ăn vụng. Không một con vịt nhà ai dám đến rúc rỉa dưới ao. Mỗi lần đem lúa đi phơi, tôi dẫn nó theo, giao trọn mấy đệm lúa dài cho nó canh chừng. Rồi tôi vót nan, đan giỏ hay đi hái ổi, đánh trổng cùng với lũ trẻ trong xóm, mãi cho đến khi tắt nắng, gom lúa xúc về mà không gà vịt đến ăn mất một hột nào.
Tới bữa, nếu má tôi còn bận việc đằng xóm chưa thể về kịp, tôi dọn sẵn cơm rồi kêu con Quít lên giữ để làm việc khác. Nó thật xứng đáng với lòng tin cậy của tôi.
Phải nói về sự ăn uống, con Quít đã được giáo dục theo một phong cách vững vàng. Bất cứ người lạ cho món ăn nào, nó cũng không bao giờ ăn. Ngay cả những khi đói khát, nó cũng tự biết giữ mình như thế. Chính khi cho ăn mà không đúng cách, nó cũng không thèm. Có lần tôi trộn bắp nấu với dừa, cho thêm muối mè và đường xà ngầu như cháo, đưa tận mõm nó mời mọc, nhưng nó quay đầu ra sau né tránh không ăn. Tôi bèn ăn trước vài miếng rồi đút cho nó, nhưng cũng vô ích, nó vẫn quay đi. Tôi bèn lấy gói bắp khác rắc dừa lên mặt, rắc mè và đường lên trên, đưa lại thì nó ăn hết.
Có lúc nhặt được một chiếc mo cau mới rụng, tôi bèn ép nó kéo cộ nhưng nó giẫy nẩy cự tuyệt. Tôi bèn cột vào cổ nó, nhưng nó lồng lộn rồi chạy vuột ra tới tận đầu làng đón má tôi đi chợ về. Khi bà trở về, nó lại lót tót theo sau. Mỗi lần gặp nó như vậy, má tôi đoán biết đã có sự gì bất thường xảy ra ở nhà. Và bà rầy bọn chúng tôi: “Lũ bây giở cái trò gì bắt ép con Quít đó hả?”. Nghe má tôi rầy bọn tôi, con Quít đưa mắt lấm lét nhìn anh em tôi. Nhưng chúng tôi không giận nó như anh Hai Múi, mà thường vào trường hợp ấy tôi làm lành với nó trước.
Học xong tiểu học, má tôi gởi tôi lên tỉnh tiếp tục theo ban trung học. Rời khỏi gia đình, đồng quê, bạn bè chòm xóm là một nỗi buồn lớn lao đối với một đứa bé con như tôi. Nhưng trong nỗi buồn khổ ấy, sống xa con Quít là nặng nề nhất. Dù sao, không ai vì sự quyến luyến con chó mà lại chối bỏ học hành. Tôi đã ra đi, chỉ vào dịp hè mới trở về chơi với nó. Vào một mùa đôn với một dáng điệu vô cùng thân mật. Khi trời bắt đầu sụp tối, chàng dìu cô bạn trở về. Cả hai cùng đi bên nhau trong bóng hoàng hôn xuống chậm, và đêm hôm ấy ông Hai vui mừng nhìn thấy cô Quít cúi liếm những vết trầy trụa ở chân anh Vá một cách dịu dàng. Ông quay sang bảo bà Hai:
- Kể đã lâu rồi, bây giờ hai con vật này mới thấy gần nhau. Anh chị đã biết săn sóc cho nhau tận tình như thế, sớm muộn gì mình cũng có một bầy chó nhỏ.
Từ đấy cô Quít quyến luyến không rời người bạn của mình. Tật nguyền của anh không có vẻ gì là thảm thương nữa. Trái lại, nó như xác nhận thêm cái bản lĩnh chàng ta. Cả vẻ cằn côi tiều tụy nơi người bạn ấy cũng không còn nữa. Trong cái bề ngoài như tầm thường ấy quả có chứa đựng cái gì phi thường. Cô Quít cảm nhận sâu xa giá trị của người bạn mình không những ở trên thực tế mà cả ở trong linh diệu của khiếu năng mình. Được gần gũi chàng người ta cảm thấy yên lòng không biết bao nhiêu. Trong con người đó có một sự sống tiềm tàng kỳ lạ với nhiều đức tính tốt đẹp của một truyền thống tuyệt vời. Chàng ta chiều chuộng mọi điều phiền nhiễu của người bạn gái, trừ những buổi đi lang thang dành lấy một mình. Và những ngày chàng quyết định ra đi như thế, cô Quít ngỏ ý đi theo bỗng bắt gặp vẻ quyết liệt nơi con người ấy. Sự quyết liệt có nghĩa như lời ngăn cản, như một chối từ. Và cô Quít đành ngoan ngoãn tuân lời, ngồi trong ngưỡng cửa nhìn theo bóng chàng thấp thoáng xa dần rồi mất hút sau những khu phố hẹp. Những buổi ra đi như thế, bắt đầu từ sáng thì đến trưa lơ mới thấy chàng về. Đôi lúc ra đi vào lúc xế trưa thì đến chiều mát, chàng mới quay trở lại nhà.
Nhiều đêm trăng sáng, sau đấy, vợ chồng ông Hai nhìn thấy đôi bạn thẩn thơ ngoài vườn, đi bên cạnh nhau một cách lặng lẽ. Có lúc họ cùng đưa nhau ra ngoài bãi cỏ, kề mõm, cọ vai rồi lại lững thững quay về trong sân. Ngồi bên nhau chán họ lại trở vào dưới hiên, nằm sát cạnh nhau, lơ mơ trong một giấc ngủ chập chờn. Nhiều đêm mưa lạnh. Vợ chồng ông Hai thấy đôi bạn ấy quấn quýt nằm sát bên nhau như để chia chung hơi ấm. Và ông Hai Thìn vui mừng chờ đợi...
Sự chờ đợi của ông cuối cùng đã được toại nguyện. Cách mấy tháng sau cô Quít trở nên nặng nề mệt nhọc nhiều hơn. Cô nàng thường nằm vật vã và hay hờn dỗi. Bữa cơm ít khi được ăn vào giờ đã định mà chừng như đợi có sự ân cần mời mọc của người bạn mình. Bụng cô càng ngày càng lớn và những chuyến anh Vá đi suốt buổi cũng thưa thớt lần. Trách nhiệm - gia đình đã làm hạn chế những chuyến phiêu lưu kia chăng? Và những cái gì phải đến, đã đến. Cô Quít một hôm trở dạ vào lúc nửa đêm, đã cho ra đời được hai đứa nhỏ thật là kháu khỉnh. Ông Hai vào nhìn, kêu lên mừng rỡ. Hai con chó đực có bộ lông giống như cha mẹ chúng: một con màu lông đen tuyền, một con lông trắng vá nâu. Ông Hai vẫn mong đợi nhiều hơn thế nhưng được bấy nhiêu cũng đã quý rồi. Tất cả công phu gầy dựng, chờ đợi trong bao lâu nay, thế là toại nguyện. Nòi giống tốt đẹp không bị tuyệt diệt và những cái gì đáng được lưu giữ kể như được duy trì rồi. Dĩ vãng, dù được thể hiện qua cái sự sống nơi loài súc vật, vẫn không hề bị xóa nhòa. Dĩ vãng còn đấy và đang di chuyển về hướng tương lai.
Chuyện sinh đẻ này là điều vui chung cho cả gia đình: vợ chồng ông Hai lấy làm toại nguyện, cô Quít tỏ ra hoan hỉ và anh chàng Vá cũng thực hài lòng. Bây giờ mới thấy rõ được tấm lòng người cha chan chứa nhiệt tình của anh. Suốt ngày anh ta quấn quýt bên những đứa nhỏ, liếm lông của chúng, đùa nghịch với chúng, tập chúng bò lê bò lết ra cửa đón ánh mặt trời. Mẹ chúng nằm yên nơi ổ, lim dim đưa mắt nhìn theo không nói tiếng nào. Nhưng khi người cha hăng hái muốn dìu những đứa bé con ra khỏi ngưỡng cửa để tiến về vườn thì người mẹ khẽ ngóc đầu và hực một tiếng cản ngăn. Cô Quít có lẽ đánh hơi được cái ý hướng phiêu lưu mà người chồng mình truyền dạy quá sớm cho bầy trẻ nhỏ. Người đàn bà vốn không thích phiêu lưu, và những di chuyển trong đời cô Quít ít nhiều là chuyện đau lòng. Số phận của con cái nàng, của giống loại nàng hình như đã được chỉ định ở trong khung cửa và nên bằng lòng như thế để khỏi rước lấy hiểm nghèo. Không ai biết được người cha của chúng, hào hùng là thế, lịch thiệp là thế, đã phải chuốc lấy tật nguyền là bởi vì đâu? Phải chăng là vì những cuộc phiêu lưu ngang dọc giang hồ? Bởi vậy, đánh hơi được ý hướng ấy manh nha nơi tổ ấm mình, cô Quít vội vàng phát biểu một lời ngăn chặn. Tiếng hực của cô thường làm chấm dứt rất mau ý định phiêu lưu như thế. Và anh chàng Vá nghe sự phát biểu của vợ, ngước đầu nhìn lại với một vẻ mặt không mấy bằng lòng nhưng vẫn ngoan ngoãn lấy chân khều hai đứa nhỏ để chúng quay vào bên mẹ. Rồi anh lặng lẽ, khập khiễng một mình ra dạo ngoài vườn và đến ngồi ngay chỗ ngõ, hướng nhìn về một nơi xa.
Suốt cái thời gian cô Quít sinh đẻ và trong mấy tuần sau đó anh Vá thường nằm ở nhà, quanh quẩn săn sóc vợ con. Khi hai đứa nhỏ đã chạy liến láu khắp nhà, đã biết vui đùa cùng với mẹ nó thì anh Vá lại thỉnh thoảng rời nhà như trước. Cô Quít tỏ ý không được bằng lòng. Cô muốn làm cho ra lẽ một phen để chấm dứt những phiêu lưu như thế nơi người đàn ông bây giờ đã có trách nhiệm gia đình, cần phải bảo vệ sự yên ấm này để mua những ngày hạnh phúc mà đợi tuổi già sẽ đến.
Nhưng nỗi yên vui mà cô chờ đợi không thể xảy đến như cô mong ước. Sau niềm vui của ông Hai Thìn, tai biến đột ngột xảy ra trong gia đình ông. Một buổi chiều nọ, theo như lệ thường, con Vá ra đi và đến tối mịt không thấy trở về. Đến chín giờ tối thì ông Hai Thìn bắt đầu sốt ruột, cô Quít nhấp nhổm ra vào, chờ đợi, băn khoăn. Người ta linh cảm có một sự gì bất thường xảy đến. Lát sau, Ba Tuất, một người láng giềng của ông Hai Thìn, hối hả chạy vào:
- Này ông Hai ơi, ông có biết chuyện gì chưa?
Ông Hai ngơ ngác:
- Chuyện gì kia chớ?
Ông Ba cúi xuống thì thầm vào tai ông Hai:
- Thằng Tẩu Bù Lon chết rồi.
Ông Hai bàng hoàng, liếc nhìn mẹ con cô Quít nằm ở góc phòng. Tuy không hiểu được tiếng người, nhưng trông dáng họ thì thầm thế kia vừa liếc nhìn mình, cô Quít chừng như cũng đoán được một chuyện gì bất hạnh xảy ra cho mẹ con nàng. Cô rời hai đứa bé con, tiến lại phía chủ. Ông Hai một tay vuốt nhẹ lên đầu cô Quít, mắt nhìn ông Tuất, nói bằng một giọng lo âu:
- Câu chuyện thế nào, anh kể cho tôi nghe với. Từ chiều đến giờ con Vá đi đâu biệt tích biệt tăm.