CHƯƠNG 2

Tôi nằm sấp trên đi văng, đầu ngóc lên như con thằn lằn. Xung quanh tôi, đám con ông chú nhìn tôi bằng ánh mắt hãi sợ.
Tờ báo có bái tuỳ bút của tôi ký tên thật nằm ngay trước mặt và chú tôi thì cầm chổi lông gà cán mây, đôi mắt ông lấp lánh sau cặp kính trắng. Ông nổi giận, cơn giận có thể khủng khiếp lắm, nhưng ông cố kìm lại bằng tiếng thở dài tuyệt vọng, ông khẽ lắc đầu:
- Long, con có nghe chú nói không?
- Dạ, con nghe chú nói.
- Bố con chết được mấy năm rồi?
- Dạ, thưa ba năm.
Giọng ông chú trở nên buồn bã:
- Bố con trước đây là một họa sĩ xuất thân từ Beaux Art ( Cao Đẳng Mỹ Thuật ) Đông Dương ra có bằng cấp đàng hoàng mà suốt đời chẳng làm nên trò trống gì. Sống nghèo rớt mùng tơi cho đến lúc chết. Bố con kỳ vọng ở con rất nhiều, gửi con cho chú, hy vọng con sẽ học hành đến nơi đến chốn, có bằng cấp làm nên ông nọ ông kia, ngờ đâu con lại xao lãng việc học hành mơ làm văn sĩ, con chọn sai đường rồi....
Giọng ông hằn học nhưng không kém phần buồn bã:
- Làm văn sĩ không phải là chuyện gì xấu xa, chú khẳng định như vậy, nhưng đời nghệ sĩ khốn khổ lắm con ơi, nhất là nghệ sĩ ở đất nước mình, mang cái nghiệp đó vào thân rồi khổ cả một đời đấy con ạ. Con không thấy bao nhiêu văn nghệ sĩ ở đất nước mình than thân trách phận đó sao: Anh thì than đói, than nghèo, than khổ, nợ nần ngập đầu, rõ ràng là họ đã viết thành văm, làm thơ.....
Tôi ngạc nhiên vì thấy chú tôi đọc ra mấy câu thơ dẫn chứng cho lối nói của ông. Hình như mấy câu thơ của Nguyễn Vỹ. Giọng chú tôi như muốn gầm lên:
- Đấy nhé, chính mấy anh làm thơ viết văn nói ra để " khuyên đời ", răn đe những kẻ lăm le đi theo con đường ấy, chú không dặt điều nói bậy. Chú khuyên vậy nhưng vẫn chưa thể ngấm vào da thịt con được đâu. Chú cần phải cho con thấm hơn, thấm đến tận đầu, xương tuỷ và nhớ đến già. Con xứng đáng nhận mười cái chổi lông gà....
Tôi kinh hoàng, nhưng biết làm sao được, đành nhắm mắt nghiến răng chịu trận tỏ ra can đảm không khóc để giữ " sĩ khí " của kẻ cầm bút. Cái chổi vun vút phết vào mông đít tôi bỏng rát, quả là thấm đến tận tâm gan, tì, phế. Khi đó tôi chỉ mơ ước cái mông đít của tôi bỗng dưng biến thành mo cau. Tôi không hét lên, nhưng nhất định không van xin để bớt đòn.
Thằng Hiền, thằng em láu cá con chú, vô công rỗi nghề ngoác miệng đếm từng roi, thỉnh thoảng nó còn đếm lộn. Con bé Hạnh giận lên đùng đùng như chính nó bị ăn roi.
Trận mưa roi đã qua, tôi đau quắn đít mà không khóc được, nhưng con bé Hạnh thì khóc nức nở đi " cứu thương " bằng cách đề nghị xát muối ớt vào những vết thương " văn nghệ " của tôi lằn lên như con lươn.
Cuối cùng ông chú nghiêm khắc của tôi cụng phải phì cười. Tôi cuống cuồng van xin con bé Hạnh đừng cứu vớt " thể xác đớn đau " của tôi cái kiểu đó.
Thằng Đức nhảy tưng tưng như mọi da đỏ, đếm:
- Mơ làm văn sĩ này....một, ái da đau. Mơ làm văn sĩ này....hai. Ối chu choa. Mơ làm văn sĩ này....ba. Trời đất ơi....
Cứ thế nó đếm tới mười, cho đến lúc cả bọn bị chú nạt lên mới chịu im
Buổi tối hôm ấy đến giờ học bài, chú tôi kiểm soát bài vở chặt chẽ của tôi và chú đã khám phá ra khá nhiều bài thơ tôi chép vào sau cuốn vở toán. Ông lắc đầu ngao ngán:
- " Thi văn đoàn Lãng Bạc " của mày không biết là cái quái gì. Mày đáng được hưởng thêm mười cái chổi lông gà nữa rồi con Hạnh sát muối ớt vào đít. Làm toán đi, mày phải làm xong mấy bài toán đại số này không thì chết đòn, suốt ngày mơ mơ mộng mộng, nút mắt ra đã làm thơ tình ái, nguy hiểm đáng báo động.
Một sự thật hết chối cãi, cái tên thật của tôi làm so giấu chú được. Phần thì đớn đau mông đít, phần thì tủi thân vì bị " đàn áp ". Tô ra vườn một mình ngồi " sầu thế sự ".
Dưới bóng lá cây chấp chới trên đầu, tôi ngước lên ước ao nhìn thấy một ngôi sao cô đơn. Đêm này thật yên tĩnh, bây giờ tôi mới khóc được. Nước mắt tôi nhoè nhoẹt, ngôi sao của tôi cũng mờ đi.....Chỉ còn một ngôi sao cô đơn làm bạn với tôi giữa đêm trường thanh vắng. Sương đêm xuống nhiều, trời hơi lành lạnh. Có lẽ giờ này chú tôi đã ngủ yên giấc, đời sống chú tôi rất mực thước và kỷ luật, chú luôn luôn theo đúng giờ giấc như chiếc đồng hồ treo tường của chú, kể cả lúc chú chơi văn nghệ giải trí. Đúng sáu giờ chiều chú ôm cây đàn Mandoline, gảy tưng tưng đúng mười lăm phút, tôi đếm được 3 bản nhạc, có khi chỉ hai bài rưỡi chú ngừng vì đã hết giờ. Sau đó đọc báo 45 phút. Bảy giờ chiều ăn cơm, nghỉ một lát. Tám giờ tối chúng tôi vào phòng học. Đến 9 giò 15 tối tất cả chúng tôi phải đi ngủ. Sáu giờ sáng tất cả phải dậy ra sân tập thể thao với ông. Bảy giờ sáng làm vệ sinh cá nhân, ăn điểm tâm rồi đi học.
Trong tủ sách của ông ngoài những sách toán, khoa học, ngoại ngữ tôi thấy thêm loại sách " học làm người ".
Chỉ riêng ngày hôm nay ông phá lệ " ban " cho tôi một trận đòn nên thân vì tôi dám mơ ước làm văn sĩ. Cái nghề văn sĩ, thi sĩ qua con mắt môt người mực thước như ông là một nghề cùn mằn, dở ông dở thằng, bất mãn đời mới lao vào. Con người đó là con người lung tung chẳng còn ra làm sao hết, tự hại mình, ăn hoang phá hoại, trác táng hư hỏng. Mất cả đàng hoàng đứng đắn. Tôi có thể lây cái tính nghệ sĩ đó sang các con ông không chừng. Tôi biết trong đầu ông nghĩ như thế. Tôi nguyện sẽ ghi điều này vào nhật ký. Như Anne Frank. Tôi lại mơ mộng mình viết nhật ký như thế nào cho lâm ly thống thiết. Nhưng nguồn cảm hứng tôi bị cắt ngang thảm h
Buổi sáng hôm ấy, thay vì tôi mời anh em một chầu đậu đỏ bánh lọt, nước đá, mát rượi ở Bến Thành, anh em đều nhất trí tôi nên mua một chai " si rô cam " về trụ sở, tức căn phòng của Le Đình Điểu, cả căn nhà của Lê Đình Điểu vắng vẻ vì ba mẹ anh đi làm suốt ngày. Cho nên chúng tôi mặc sức nói chuyện văn nghệ.
Sau chầu nước đá si rô, ăn bánh bích qui. Lê Đình Điểu làm công tác của " nhà báo " với tôi, anh phỏng vấn:
- Xin " nhà văn " vui lòng cho biết cảm tưởng của anh về " tác phẩm " anh cho đăng tải trên đại trang văn nghện học sinh của đại nhật báo Ngôn Luận.
Trời đất ôi, Lê Đình Điểu đã " bơm " trang văn nghệ học sinh thành đại trangvà tôi thành nhà văn. Có phải là giấc mơ không? Tôi liền trả lời thẳng ro, chẳng nghĩ ngợi gì:
- Khoái thấy mồ, khoái nhất là có tiền nhuận bút.
Miệng anh chàng Lê Đình Điểu dẻo như bán kẹo kéo, anh ta tán tụng bài tuỳ bút của tôi một hồi, rồi tiếp:
- " nhà văn " có buồn phiền gì khi " người ta " quên béng mất không ghi bút hiệu của anh dưới tác " phẩm giá " trị đó không?
Tôi suy nghĩ một lát rồi mới trả lời:
- Có chút chút, vì bút hiệu của tôi tra trong nhiều quuyển từ điển Hán Việt mới tìm ra, nay bỗng dưng bị " phang " luôn tên thật thì cũng phiền thôi.
Phiền như thế nào thì ở đây không thể nói được. Tôi từ chối luôn những câu hỏi hơi rắc rối của Lê Đình Điểu. Buổi họp chấm dứt trong bầu không khí vui vẻ, liên hoan si rô đá với bánh kẹo. Tất cả đều hài lòng. Tôi không quên bôc mấy cái kẹo bỏ túi. Tôi thành người " vĩ đại " nhất trong đám bạn bè. tôi thả hồn lãng đãng trong giấc mơ làm văn sĩ, tôi chỉ thành văn sĩ được thôi, không thể thành thi sĩ được. Vì tôi biết mình không có khiếu làm thơ.
Tôi đạp xe quanh trong thành phố. Sài Gòn hôm nay đối với tôi sao đẹp thế, nắng vàng rực rỡ trên những tàn cây đại lộ. Tôi đi qua trường học, con đường rộng thênh thang. Hôm nay là ngày nghỉ sân trường vắng vẻ, hàng phượng vĩ cũng bắt đầu trổ hoa, tôi nghe đâu đây tiếng ve sầu kêu., tuy rằng không ran ran như những ngày cao điểm mùa hè. Ngồi lại bên lề đường, ngẩng lên nhìn tàn cây phượng vĩ. Tiếng ve sầu kêu, nó ở đâu nhỉ? Dưới những chiếc lá xanh nhỏ xíu hay những chùm hoa đỏ? Tiếng ve sầu kêu, ở đâu cũng giống nhau. Tiếng ve sầu ở Sài Gòn cũng giống như ở Hà Nội. Tôi xa Hà Nội đã sáu năm rồi mà sao hình ảnh Hà Nội tôi vẫn nhớ như in, từ con đường, góc phố. Tiếng ve kêu ở Nghi Tân, Cổ Ngư ở sân trường báo hè về....Sân trường tiểu học Đỗ Hữu Vị ở cuối dốc phố Hàng Than. Trước trường Hàng Than có một gánh phở sáng nào cũng đông khách. Mùi nước phở thơm lừng. Những ngày đó tôi thường ao ước được ăn một bát phở, nhưng gi đình bố mẹ tôi đều còn ở ngoài kháng chiến. Tôi sống nhờ một ông bác ruột, dù bác có thương cũng không thể bằng bố mẹ lo cho mình. Tôi nhậy cảm nên thường có những lúc thầm tủi thân.
Buổi sáng hôm nay, tự bài mình viết được đăng báo. Tôi lại nhớ miền Bắc, nhớ vùng Trung Châu Bắc Việt, nhớ thượng du, những nhớ nhung xa xôi da diết. Hình ảnh bố mẹ tôi, gia đình tôi ngày đoàn tụ, sự đoàn tụ thảm hại sau nhiều năm tháng. Bố tôi ở ngoài kháng chiến trở về Hà Nội. Buổi chiều tôi đi học về, bố tôi ngồi đó với bác, râu ria mọc tua tủa. Ông vốn đã lầm lì, may càng lại lầm lì hơn khi nghe bài hát " trở về " của Hoàng Giác từ chiếc máy radio Philips ở nhà bác. " tung cánh chim tìm về tổ ấm, nơi sống bao ngày giờ đằm thắm......
Bố tôi nói với bác:
- Cơn sốt rét cách nhật của em lại đế nrồi. Cứ cách ngày lại một trân....anh cho em đi nằm, dứt cơn em lại ra nói chuyện với anh.....
Bố tôi chưa kịp có cái vuốt đầu tôi thì ông đã nằm rên hừ hừ. Những cảnh đó bây giờ tôi đã thấy lại.
Như thời cha tôi làm việc ở Cục Kiến Tạo trên Đại Từ Thái Nguyên. Cái cầu cheo leo bắc qua con sông Đại Từ nước chảy xiết. Hôm nào đó cha tôi đưa tôi đến chiếc cầu treo ấy để tôi vể Hà Nội, mẹ tôi đưa tôi về rồi trở đi ngay ít hôm sau. Tôi đứng khóc mùi trên lan can nhà bác ở số 38 ngõ Hoà Mã buổi sáng Hà Nội sương mù....
Buổi tối, sau bữa cơm chiều, cha tôi ngồi uống trà với bác ở phòng khách. Ông nói:
- Cám ơn anh, nhưng em không thể đi làm cho Pháp được. Em không thể nào quên ngày anh Cả bị Tây giết ngoài hậu phương bởi vậy em mới đi theo kháng chiến. Em về đây cũng chỉ vì vợ con. Được anh vá các chú ấy ở Sài Gòn giúp đỡ em và vợ con em sẽ buôn bán qua ngày, mong sao các con nên người, được học hành......Em nói thật, em không ưa gì bọn vẹm nên mới về đây. Sống ở đâu cũng là bất mãn thôi với những người bị coi là trí thức vô sản....
Một tháng saugia đình tôi thuê được một căn nhà ở đầu phố Trần Nhân Tôn và phố Huế trông sang chợ Hôm. Gia đình tôi mở cửa hàng cơm, cha tôi bưng tô rửa chén. Ông đông bạn bè, toàn là bạn bình dân xích lô, xe kéo, ông kiêm luôn nghề vẽ quảng cáo cho rạp xi nê. Ông nguyên là hoạ sĩ xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Tôi hoà nhập vào đời sống Hà Nội. Tô lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm, nghịch như quỷ sứ. Cha tôi nói như vậy. Ông muốn hướng tới một hướng khác. Thế là gia đình tôi vào Sài Gòn. Tôi được gủi ra Vũng Tàu học trường Thiếu Sinh Quân vì chú thứ năm của tôi dạy học ở trường đó. chú tôi xin cho tôi được ngoại trú để kèm học.
Nhưng thực tế không phải như vậy. Tôi ở nhà chú, không có thì giờ để học vì có bà thím quá gian ngoa, quá quắt. Tôi bị đối xử tệ hại còn hơn một đứa ở không công. Từ năm giờ sáng đã phải trở dậy dọn hàng cho thím ở ngoài chợ, bẩy giờ mới được đi học. Trưa trở về coi hàng cho thím.Hai giờ trưa lại đi học. Chiều về dọn hàng đến bẩy giờ tối. Đẩy cả mấy xe bó ệt đầy nhóc hàng hoá. Tôi còn thì giờ đâu mà học hành. Ngày chủ nhật cũng không được ra bãi biển chơi đùa như các banmạ phải ở nhà bổ củi. Sự học hành của tôi bắt buộc phải sút giảm. Thím tôi điêu ngoa về SG nói về tôi với bố mẹ tôi là một đứa trẻ chẳng ra gì. Một ngày kia tôi chịu đựng không nổi bèn bỏ nhà chú thím ra đi, ra bến tàu về SG bằng đường thuỷ, muốn thế nào xũng được. Nhưng tôi bị bắt trở lại. Tôi còn nhỏ bé quá đành phó mặc cho số phận....Cho đến ngày điện tín bay ra VTàu báo tin bố tôi chết đột ngột......Tôi đang bệnh nặng, chân tay phù thủng to bằng cái chĩnh. Chú tôi xin vé máy bay của nhà binhPháp trở về SG, cũng đúng là lúc đưa tang bố tôi ra nghĩa địa đô thành. Bộ quân phục thiếu sinh quân của tôi chật cứng và chân không thể đi nổi đội giầy, tôi lết đi bằng đội dép Nhật, chống gậy đi theo xe tang. Cuộc trở về thảm nảo, tôi khóc vùi bên quan tài của cha.
Tôi cương quyết ở lại SG với mẹ và em, không ra VTàu nữa. Tôi bị coi là đưa cứng đầu. Xảy cha nhờ chú. Tôi còn ông chú thứ tư ở SG. Ông này như ông bác thứ hai của tôi hết lòng vì em vì cháu. Sự thật tôi được nhờ ông rèn cặp như chính các con của ông, nên những năm đầu của trung học dù phải học lại lấy căn bản nhưng cũng khá ra, không giỏi lắm, nhưng không đến nỗi dốt nát. tôi luôn đứng đầu môn văn trong lớp, nhưng môn toán lại kém. Điều mà chú tôi, một người khoa học không thích tí nào. Sau thời gian đi chơi loanh quanh, tôi lo lắng biến thành sợ hãi. Tự đánh giá việc viết văn của tôi là có tội, đại tội với chú. Sự trừng phạt không thể khác. Tôi nghĩ đến cái chổi lông gà rung lên trên tay chú mà toát mồ hôi. Tôi cầu cứu sự " cứu rỗi " ở đâu bây giờ? Ở linh hồn bố toôi? Mả của ông ở dưới nghĩa địa Đô Thành. Tôi đạp xe xuống tuốt cuối đường Lê Văn Duyệt, trước trại lính nhảy dù Nguyễn Trung Hiếu, ngồi trước mồ cha tôi khấn khứa ông phù hộ cho tôi " tai qua nạn khỏi ". Tấm tức khóc, khóc vì sợ hãi trận đòn đau, sẽ không tránh khỏi. Dù tôi biết chú tôi trừng phạt vì thương không phải vì căm thù hoặc để thoả lòng độc ác. Trời về chiề utôi mới ra về.
Tôi mồ côi cha, tuy còn mẹ, nhưng mẹ tôi phải lo buôn bán để nuôi các em nhỏ của tôi. Tôi hpải sống nhờ, học nhờ ngay nhà chú ruột. Chú tôi là người học thức, chú có địa vị cao trong xã hội, thương yêu cháu như những đứa con ruột cuẩong, nhưng ông vô cùng nghiệm khắt, nhất là chuyện học hành.
Tôi đâm hoảng khi nghĩ đến chú, đôi mắt loang loáng sau cặp kính trắng. Chếc chổi lông gà rung rung trong tay chú. Sau bữa cơm chiều, anh em tôi nghỉ chơi một lát rồi ngồi vào bàn học. Ông chú tôi thường xuyên xem bài vở chúng tôi và sẵn sàng chỉ dẫn cặn kẽ, ông gầm thét như cọp khi thấy anh em tôi dốt nát, hoặc trong sổ điểm có môn nào kém cỏi. Môn toán, tôi kém nhất. Ông nhìn vào môn văn, dù rằng tôi luôn luôn vào hạng cao, nhưng ông chẳng có một lời khen nào, mà chỉ nghe ông hừ hừ trong cổ họng. Ông lạnh lùng nói:
- Mày kém toán lắm, mày phải luyện cho giỏi, mấy bài toán đại số tao ra mày đã làm xong chưa?
Chú thường nhắc nhở với anh em chúng tôi như thế! Chú yêu thương chúng tôi, nhưng yêu thương theo kiểu của chú, tôi hiểu thế. nhưng còn điều gì xảy ra cho tôi hôm nay, tôi biết rõ vào buổi chiều.
Tôi cho là một buổi chiều ảm đạm trong đời tôi, có lẽ là một khúc quanh. Tôi không thể oán trách chú được. Tôi cố hiểu trong vầng trán rộng của chú tôi hơi nhăn lại suy nghĩ gì, có lẽ không bình thường như mọi khi, lúc trừng con cháu lười biếng học hành.
Qua mắt tôi nhìn, ông là môt nhà khoa học, trong đầu ông chứa toàn những bài toán rắc rối, mà tôi có học đến bạc đầu cũng không giải nổi đáp số, nói chi đến những bài đại số, hình học tầm thường tôi phải làm và học mỗi ngày.
Ông chú có cái lý của ông, lý của đấng làm cha mẹ, hoặc phải thay cha mẹ lo cho tương lai máu mủ của mình. Quyền huynh thế phụ, chú thay cha.