Dịch giả Tịnh Minh
Chương 22
Phật Chuẩn Bị Thuyết Pháp

Đức Phật bắt đầu phân vân không biết làm sao truyền bá tri kiến. Ngài tự nhủ:
"Ta đã khám phá một sự thật vô cùng thậm thâm vi diệu. Đây là một sự thật khó nhận, khó hiểu; chỉ có bậc trí giả mới lãnh hội được. Trong một thế giới tràn đầy hỗn loạn, cuộc sống con người luôn luôn bất an xao xuyến, nhưng họ lại thích sống như vậy! Làm sao họ có thể hiểu nổi vòng xích nhân quả? Làm sao họ có thể hiểu nổi giáo pháp? Họ sẽ không bao giờ chế ngự được dục vọng của họ; họ sẽ không bao giờ vất bỏ lạc thú trần gian; họ sẽ không bao giờ thể nhập niết bàn. Nếu ta thuyết pháp, họ sẽ không hiểu ta; có lẽ họ không thèm nghe ta nữa là khác. Công bố cho nhân loại biết sự thật mà ta phải chiến đấu mới đạt được thì có ích gì? Sự thật không dính dáng đến những ai bị dục vọng và hận thù sai khiến. Sự thật khó thấy lắm. Chân lý vẫn còn là một sự huyền diệu. Tâm tính phàm phu ô trược sẽ không bao giờ nắm bắt được chân lý. Kẻ nào đầu óc chìm ngập trong vô minh đen tối, kẻ nào tâm trí khổ đau ray rứt vì dục vọng trần gian, người ấy sẽ không bao giờ hiểu được sự thật."
Đức Thế Tôn không dự định truyền bá giáo pháp.
Thế rồi, nhờ thần thông diệu lực, hiểu được những hoài nghi đang vây hãm đức Thế Tôn, Phạm-thiên lo sợ tự nhủ: "Thế giới sẽ bị tiêu ma, thế giới sẽ bị hủy diệt nếu đức Phật, đấng Đại Giác Thế Tôn đứng riêng lẻ một mình, không chịu cùng giữa dòng nhân thế để thuyết giảng giáo pháp, truyền bá tri kiến."
Phạm-thiên rời khỏi cung trời, tức tốc giáng trần, xuất hiện trước mặt Thế Tôn nhanh như cánh tay co dãn của một lực sĩ. Để tỏ lòng tôn kính sâu sắc, Phạm-thiên trịch một vai áo, rồi quì gối, chấp tay, cúi đầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài thuyết minh giáo pháp; bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền đạt tri kiến. Ở đời có những người rất thanh tịnh trang nghiêm, những người chưa từng bị nhiễm ô phiền não, nhưng nếu họ không được trao truyền tri kiến, làm sao họ có thể tự thấy giải thoát? Những người này phải được cứu độ; bạch Ngài, xin Ngài hãy cứu họ! Họ sẽ nghe theo Ngài; họ sẽ là môn đệ của Ngài."
Phạm-thiên tác bạch như thế nhưng Đức Thế Tôn vẫn im lặng. Phạm-thiên thưa tiếp:
"Ác pháp hiện nay đang dọc ngang thắng thế trên đời. Ác pháp đã lôi kéo nhiều người vào vòng tội lỗi. Sứ mạng của Ngài là tiêu diệt ác pháp. Bạch Đấng Đại Giác, xin Ngài hãy mở cửa bất diệt cho chúng con; xin cho chúng con biết Ngài đã tìm ra những gì, hỡi Đấng cứu tinh của nhân loại! Ngài là người leo núi, Ngài đứng trên đỉnh đá tuyệt vời. Ngài thấy rõ nhân loại cùng khắp. Bạch Đấng cứu độ, xin thương xót chúng con; xin nghĩ đến những kẻ bất hạnh thống khổ vì sinh tồn già lão tác hại. Hỡi tráng sĩ chiến thắng, hãy lên đường, lên đường đi thôi! Hãy đi khắp thế giới, hãy là ngọn đèn sáng, hãy là đấng Đạo Sự Hãy thuyết giảng, hãy truyền đạt; sẽ có nhiều người lãnh hội ngôn ngữ của Ngài."
Đức Thế Tôn đáp:
"Giáo pháp mà ta đạt được thì vô cùng thậm thâm hy hữu, vi diệu khó hiểu và siêu việt hẳn các luận lý thông thường. Thế gian không hiểu sẽ nhạo báng; chỉ có một vài trí giả nào đó may ra nắm được ý nghĩa và dốc lòng qui ngưỡng mà thôi. Nếu ta lên đường, nếu ta thuyết giảng và rồi không ai hiểu ta, thế là ta tự chuốc lấy sự thất bại nhục nhã. Này Phạm-thiên, ta sẽ ở lại đây, nhân loại ham vui lười dốt lắm."
Phạm-thiên lại bạch:
"Hỡi vầng thái dương lồng lộng, Ngài đã đạt đến trí tuệ siêu việt; ánh hào quang rực rỡ của Ngài tỏa sáng khắp vũ trụ, vậy mà Ngài vẫn thờ ơ lãnh đạm! Không, thái độ như thế không phù hợp với Ngài; sự im lặng của Ngài là điều thật đáng trách; Ngài phải nói lên mới được. Xin Ngài hãy đứng lên! Hãy đánh trống dộng chuông! hãy làm cho giáo pháp huy hoàng như ngọn đuốc sáng ngời, như cơn mưa ngọt ngào tắm gội mặt đất cằn khộ Hãy cứu độ những ai bị khổ đau hành hạ; hãy mang lại hòa bình cho những ai bị lửa dữ đốt thiêu! Ngài là vì sao giữa dòng nhân thế; Ngài, chỉ có Ngài là nhổ sạch gốc rễ tử sinh. Ngài hãy xem, nhân danh Phạm-thiên, ta quì lạy dưới chân Ngài, xin nguyện cầu Ngài thương nhận lời ta!"
Đức Thế Tôn Ngẫm nghĩ:
"Giữa đám hoa sen xanh trắng bừng nở trong hồ, có số thì còn ở dưới nước, có số thì trồi hẳn lên trên mặt nước, có số thì vươn cao đến độ cành hoa không còn dính nước. Trên đời cũng thế, ta thấy có kẻ ác, người hiền; người thì tâm trí sắc sảo, kẻ thì đầu óc đần độn; người thì cao sang, kẻ thì hèn mọn; có số sẽ không hiểu; nhưng ta sẽ xót thương tất cả. Ta sẽ coi sen nở dưới nước và sen nở tươi đẹp trên cao như nhau."
Ngài nói với Phạm-thiên:
"Nguyện cầu cánh cửa bất diệt mở ra cho tất cả chúng sanh! Nguyện cầu những ai có tai nghe được âm hưởng và tín nhận. Ta đang lo ngại là sự cố gắng của ta sẽ không được gì, chỉ nhọc xác vô ích; nhưng lòng từ bi của ta có giá trị hơn những đắn đo suy tính đó. Này Phạm-thiên, ta đứng lên đây, ta sẽ trao truyền giáo pháp cho tất cả chúng sanh."

Mãn xà rời tổ ấm, bò đến quấn quanh đức Phật bảy vòng rồi phùng mang che trên đầu Ngài. Đức Phật nhờ thế không bị gì cả trong suốt thời gian mưa gió tơi bời.
Tuần thứ sáu, Ngài đến chỗ có cây sung, nơi bọn chăn dê thường tới lui gặp gỡ. Tất cả đều cung kính cúi đầu khi Ngài đến gần. Ngài nói:
"Hỷ xả là sự tươi mát cho ai hiểu biết giáo pháp; từ bi là sự tươi mát cho ai thấy rõ giáo pháp; hỷ xả là sự tươi mát cho tất cả chúng sanh; từ bi là sự tươi mát cho tất cả chúng sanh. Ở đời ai không dục vọng là có hạnh phúc; ai hàng phục được tội lỗi là có hạnh phúc; ai thoát khỏi sự dày vò ray rứt của cảm giác là có hạnh phúc; ai hết khao khát sinh tồn là có hạnh phúc!"
Tuần thứ bảy, Ngài lại kiết già bất động dưới cây đại giác.
Hai anh em Đề-lê-phú-bà (Trapusha) và Đạt-lê-ca (Bhalika) đang trở về các nước phương bắc. Họ là những thương gia đem theo 500 cổ xe ngựa. Khi họ đến gần cây bồ Đê, các cổ xe đều dừng lại. Bọn phu xe cố thúc ngựa kéo xe tiến lên, nhưng vô ích, chúng không thể tiến thêm một bước. Các bánh xe đều lún sâu đến giữa trục. Đề lê-phú-bà và Bạt-lê-ca hoảng hốt, một lão ông từ đâu xuất hiện và ôn tồn trấn an họ:
"Này các thương gia, hãy đi tới tí nữa là các ngươi sẽ gặp một đạo sư mà các ngươi phải kính lễ, tôn thờ."
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca nhìn thấy Đức Thế Tôn, mặt Ngài rực lên ánh hào quang sáng chói.
Họ tự hỏi: "Đó là thần sông hay thần núi? Có thể là đấng Phạm-thiên không chừng?"
Nhưng khi nhìn kỹ y phục, họ lại nghĩ:
"Ngài ấy hẳn là một đạo sĩ. Có lẽ Ngài muốn có gì để ăn."
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca đến xe chở lương thực, họ lấy bột, mật ong và bánh đựng trong một cái bát đem dâng Phật.
Họ vừa dâng bánh vừa thưa: "Bạch thánh nhân, xin Ngài dùng bánh và độ chúng con."
Ngài nhận bánh của các thương gia cúng dường. Khi dùng xong, Ngài nói:
"Này các thương gia, nguyện cầu chư thiên gia hộ cho các ngươi được phát đạt hạnh phúc!"
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cúi đầu đảnh lễ, và nghe trên không có tiếng thiên thần vọng xuống:
"Ngài ngồi trước mặt các ngươi đã đạt đến tri kiến tối thượng. Đây là bữa ăn đầu tiên kể từ khi ngài mở đường đi đến giải thoát, và niềm vinh dự cúng dường đặc thù này đã dành hẳn cho các ngươi. Giờ đây Ngài sẽ lên đường thuyết giảng chánh pháp qua khắp thế giới."
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cảm thấy hân hoan sung sướng, họ là những tín đồ qui y Phật qui y Pháp đầu tiên.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Maybonphuong
Được bạn: TSAH đưa lên
vào ngày: 16 tháng 7 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--