Chương 13
ĐỢT TIẾN CÔNG CUỐI CÙNG

VỀ phía ta, mọi công tác chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba đã tiến hành rất chu đáo. Các chiến hào được củng cố tới mức bộ đội có thể di chuyển ban ngày ngay gần quân địch, cho phép các đơn vị mỗi khi tiến đánh một vị trí, nhanh chóng bỏ qua giai đoạn đột phá tiền duyên. Cán bộ, chiến sĩ thuộc địa hình cứ điểm mục tiêu như những đồn đã diễn tập nhiều lần.
Chiến sĩ vừa điều trị khỏi vết thương, chiến sĩ mới, nô nức về đơn vị để được có mặt trong đợt tiến công cuối cùng.
Đợt học tập chính trị đã mang lại cho mọi người niềm tin vững chắc ở thắng lợi. Chưa lúc nào kho của mặt trận đầy đủ, sung túc thóc gạo bằng thời kỳ này. Vào cuối tháng Tư, hậu cần đã có dự trữ cho tháng Năm. Về đạn cho lựu pháo, ngoài 5.000 viên lấy được của địch, hơn 400 viên đạn chiến lợi phẩm thu được ở Trung Lào đã được ngành hậu cần chuyển rạ tới nơi. Bạn cũng chuyển cho ta hai dàn hỏa tiễn sáu nòng. Vì số lượng đạn không có nhiều, nên đây sẽ là một bất ngờ dành cho quân địch vào những ngày tiến cóng cuối cùng. Sau đợt 2 chiến dịch, chỉ trong mười ngày ta đã xây dựng xong một tiểu đoàn ĐKZ 75 và một tiểu đoàn H6 (hỏa tiễn) do trung đoàn 676 phụ trách, kịp thời bổ sung cho mặt trận.
Trung đoàn 9 của 304, lên Tây Bắc từ trung tuần tháng Ba làm xong công tác tiễu phỉ, đã nhanh chóng tới Điện Biên Phủ. 304 (thiếu một trung đoàn) với các đồng chí Lê Chưởng, chính ủy, Nam Long, tham mưu trưởng, là đại đoàn cuối cùng có mặt trong đội hình chiến dịch.
Mở đầu kế hoạch đợt 3 là tiếp tục hoàn thành nốt những nhiệm vụ đã đề ra cho đựt 2: tiêu diệt hoàn toàn hai cao điểm A1 và C1, đồng thời đánh chiếm thêm một số cứ điểm ở phía tây và phía đông thu hẹp thêm nữa phạm vi chiếm đóng của quân địch, chuẩn bị cho tổng công kích. Nhiệm vụ được trao cho các đơn vị như sau:
- Đại đoàn 316, được phối thuộc trung đoàn 9 của 304 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiêu diệt A1, C1 và C2.
- Đại đoàn 312 tiêu diệt các cứ điểm: 505, 505A, 506, 507, 508 ở phía đông, tiến sát bờ sông Nậm Rốm.
- Đại đoàn 308 tiêu diệt các cứ điểm 311A, 311B ở phía tây.
- Đại đoàn 304: trung đoàn 57 được phối thuộc 1 tiểu đoàn của trung đoàn 9, cử 1 tiểu đoàn chốt chặn trên đường đi Tây Trang không cho quân địch rút chạy sang Lào, siết chặt vòng vây chung quanh Hồng Cúm, tập kích trận địa pháo binh, tiêu diệt khu C Hồng Cúm.
- Đại đoàn 351 phối hợp với bộ binh trong các trận đánh điểm và đánh phản kích.
Thời gian chiến đấu bắt đầu từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 5 năm 1954. Nhiệm vụ trọng tâm cửa đợt này là tiêu diệt cho được A1. Từ sau đợt tiến công khu đông, A1 trở thành nhức nhối đối với các đơn vị tham gia chiến dịch.
Tôi đã nhiều lần trao đổi trong cơ quan tham mưu về cao điểm A1. Chúng ta tìm được một người dân địa phương ngày trước đã tham gia xây dựng ngôi nhâ trên đồi này. Theo bác thì đó là một ngôi nhà tuy kiên cố, nhưng không có gì là đặc biệt, khi mới xây, không có hầm ngầm. Nghc bộ đội tả lại căn hầm, bác cho rằng có thể quân Nhật trong thời gian đóng ở Điện Biên Phủ đã xây dựng căn hầm này đề phòng máy bay Mỹ ném bom, hoặc có thể quân Pháp đã cải tạo hầm đựng rượu cũ thành hầm ngầm. Về sau mới biết, trong hai tháng xây dựng công sự, quân Pháp đã dùng những gạch, đá từ ngôi nhà trên đồi, biến hầm rượu thành một căn hầm trú ẩn tương đối kiên cố với rất nhiều đất đổ bên trên... Nhưng nó vẫn không thể nào sánh với những boongke của Đờ Lát_ mà bộ đội ta đã từng tiêu diệt ở đồng bằng.
Anh Thái đã cử cán bộ cơ quan tham mưu cùng đi trinh sát với cán bộ 174, phát hiện một giao thông hào chạy từ A1 xuống A3 ở phía bờ sông, địch có thể dễ dàng đưa quân ứng chiến lên phản kích bất cứ lúc nào.
Anh em đề nghị đào một đường hào men theo đường 41, táeh rời A1 với A3, cũng là cắt đứt đường tăng viện của quân địch. 174 đề nghị đào thêm một đường hầm từ trận địa của ta tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc phá với số lượng lớn vào đặt rồi cho nổ. Đây quả là một kỳ công.
Công binh của đơn vị tính toán sẽ hoàn thành công trình này trong vòng 14 ngày, và bảo đảm đào đúng hướng. Tôi nói với anh Thái những người trực tiếp đánh A1 đã đề nghị thì nên chấp nhận, cử cán bộ kỹ thuật xuống cùng đơn vị giải quyết những khó khăn về chuyên môn, còn cơ quan theo dõi thật kỹ việc cât rời A1 với A3, chl khi nào hoàn thành đường hào này mới cho 174 tiến công.
Nửa tháng qua quân địch không còn tính tới chuyện đẩy ta ra khỏi A1 và C1, chúng chỉ ra sức củng cố hầm hào chờ đợi đợt tiến công cuốt cùng.
Đường hầm ở A1 đào chậm hơn dự kiến. Một đội đặc biệt gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung, cán bộ cóng binh của Bộ, trực tiếp chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng quân địch, trong tầm kiểm soát của lựu đạn. Đất đồi A1 cực kỳ rắn. Tiểu đội trưởng công binh Lưu Viết Thoảng lựa chọn một tổ khỏc nhất mở cửa hầm. Cả đêm đầu chỉ khoét được vào vách núi mỗi chiều 90 xăngtimét. Địeh không ngừng bắn súng và ném lựu đạn. Ba đồng chí bị thương. Bản thân Thoảng cũng bị ngất vì sức ép của lựu đạn. Ba đêm mới đào xong cửa hầm. Khi đào sâu vào lòng núi được mười mét, bât đầu phải khảc phục thêm khó khăn: thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số đất moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân địch phát hiện. Các chiến sĩ phòng ngự tại A1 đã có kế hoạch chiến đấu không cho quân địch tiến xuống cửa hầm, dù phải hy sinh tới người cuối cùng, để bảo vệ bí mật tuyệt đối ý đồ đánh địch của ta.
Trong khi đó, các đơn vị khác đều chuẩn bị xong, nhiều mũi hào đã luồn sâu dưới hàng rào dây thép gai của địch. Bộ chl huy chiến dịch quyết định đúng ngày N các đơn vị cứ nổ súng, triệt để áp dụng chiến thuật đánh lấn để giảm nhẹ thương vong, riêng A1 sẽ đánh khi đường hầm ở A1 hoàn thành.
Những ngày cuối tháng Tư tương đối yên tĩnh. Mỗi ngày địch huy động hưn một trăm máy bay đổ lương thực, đạn dược xuống Mường Thanh. Nhưng Đờ Cát chỉ nhận được khoảng một nửa. Máy bay địch phải bay cao thả dù để tránh cao xạ tầm trung của ta, khu vực thả dù lại quá hẹp, nên một phần ba đồ tiếp tế rơi xuống trận địa ta, một số không ít rơi xuống bãi mìn và những khu vực bị hỏa lực ta kiểm soát chặt nên địch không thể thu lượm.
Ngày 1 tháng 5 năm 1954, máy bay địch bắt đầu sử dụng một loại bom mới của Mỹ (Hail Leaflet) chứa hàng ngàn mũi tên rất nhỏ sâc bén, nhằm sát thương những đám đông. Loại bom này không gây nguy hiểm cho những người ở trong công sự hoặc dưới chiến hào, và khó sử dụng trong những trận đánh khi quân ta và quân địch gần như trộn lẫn vào nhau. Lănggơle và Bigia đã điều chỉnh, củng cố lại tổ chức phòng ngự ở khu trung tâm.
Những đơn vị khá nhất, và những chỉ huy được tin cậy nhất còn lại của tập đoàn cứ điểm, được tăng cường cho trung tâm đề kháng Êlian. Tiểu đoàn trưởng dù Brêxinhắc đã nắm quyền chỉ huy tại khu đông, thay thế Bigia trở về sở chl huy Mường Thanh. Tại đây có tiểu đoàn 2 trung đoàn dù thuộc địa số 1, tiểu đoàn dù xung kích 6, tiểu đoàn dù ngụy số 5, tiểu đoàn 1 bán lữ đoàn lê dương 13, cùng với hai đại đội độc lập, đơn vị công binh, và một số lính Angiêri, lính Thái. Tuy nhiên, những đơn vị này đều bị tổn thất nhiều, đội hình chắp vá 17 giờ chiều ngày 1 tháng 5 năm 1954, bất thần tất cả các cỡ pháo của ta nhả đạn vào nhiều khu vực của tập đoàn cứ điểm. Lần này cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị kiềm chế, tê liệt. Một kho đạn với 3.000 viên đạn dự trữ của địch nổ tung. Kho lương thực thực phẩm bốc cháy. Đợt pháo kích kéo dài gần một giờ đồng hồ. Dứt tiếng pháo, các đơn vị đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí.
Tại phía đông, 98 tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai. Brêxinhắc, vẫn đặt sở chỉ huy trên Êlian 4, đã linh cảm trận đánh Êlian 1 sắp nổ ra trên đầu mình. Ngày 1 tháng 5, Brêxinhắc quyết định đưa đại đội 3 của iểu đoàn dù tiêm kích số 2 lên thay thế cho đại đội Clêđíeh (Clédic) đã bị tiêu hao, đồng thời ra lệnh cho đại đội 1 sẫn sàng tbam gia phản kích.
Đại đội 811 của ta đã có hai mươi ngày đêm phòng ngự tại C1, được lệnh rời khỏi trận địa 200 mét cho hỏa pháo chuẩn bị. Đại đội trưởng Lê Văn Dy thấy công sự đã được củng cố vững chắc đủ sức chịu đựng đạn pháo, và tin vào sự chính xác của pháo hinh ta, quyết đình chỉ cho bộ phận dự bị lui về phía sau, toàn đơn vị vẫn bám trận địa để không lỡ thời cơ xung phong.
Những cao điểm ta chỉếm được ở khu đông phát huy tác dụng. Sưn pháo đặt trên đồi Dl nhắm từng hỏa điểm trên C1 bắn rất chính xác. Dứt tiếng pháo, Dy lập tức ra lệnh mở những hàng rào cự mã ngăn cách giữa ta và địch, đưa bộ đội xông lên phía Cột Cờ. Thủ pháo và lựu đạn của ta trùm lên trận địa địch, tiểu liên nổ ran. Chiến sĩ Thắng cầm cờ lao lên cách mục tiêu mười mét thì trúng đạn hy sinh. Chiến sĩ Ân lấy chiếc chăn phủ lên người bạn, nhặt lá cờ thấm máu đồng đội, lỗ chỗ vết đạn, tiếp tục tiến lên mỏm đất cao nhất trên đỉnh đồi. Cả tiểu đội mũi nhọn bám sau anh. Chỉ sau năm phút, ta đã chiếm được Cột Cờ. Đại đội dù tiêm kích số 3 mới thay thế choáng váng trước đòn tiến công chớp nhoáng và quyết liệt. Quân dù bắn xối xả vào khu vực Cột Cờ. Đại đội 1480 của ta từ phía dưới tiến lên đã kịp thời có mặt, cùng với 811 hình thành hai mũi tiến công chia cắt quân địch để tiêu diệt.
Những trận đánh giáp lá cà diễn ra. Viên trung úy Lơghc (Leguère) chỉ huy đại đội 3 cố chống cự, chờ lực lượng tiếp viện. Brêxinhắc quyết định đưa đại đội 1 lên tăng viện. Nhưng đã quá muộn. Trung úy Pêriu (Périou) chỉ huy đại đội chết ngay khi mới đặt chân lên đồi. Lát sau, đến lượt trung úy Lơghc chỉ huy đại đội 3 bị trọng thương. Quân địch ở C1 mất dần sức chiến đấu. Có tên phủ bạt trên người nằm giả chết chờ tiếng súng yên sẽ đầu hàng. Nửa đêm, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa của địch lập tức được trải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại dày đặc, đề phòng quân địch phản kích.
Sau hơn ba chục ngày đêm liên tục chiến đấu, trận đánh tại C1 lúc này đã kết thúc. C2 nằm gọn dưới nòng pháo không giật của ta. Trời sáng, không thấy quân phản kích của địch. Chỉ có những cỗ trọng liên bốn nòng đặt tại Êpécviê lồng lộn tuôn đạn về phía trận địa ta trên đỉnh đồi như muốn ngăn chặn một đợt xung phong..
ở phía đông sông Nậm Rốm, hai tiểu đoàn 166 và 154 của trung đoàn 209 tiến công các cứ điểm 505 và 505A (Dominiquc 3). Một đại đội của tiểu đoàn lê dương dù 6 và những đơn vị lính Angiêri, lính- Thái tại đây, do viên tiểu đoàn trưởng Sơnen (Chenel) chỉ huy, chống cự khá quyết liệt. Ta và địch giành giật nhau từng ụ súng, từng chiến hào. 2 giờ sáng ngày 2. tháng 5, trung đoàn 209 tiêu diệt hoà toàn hái cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung.tâm đề kháng Đôminích.
Trên cánh đồng phía tây, trận đánh tiêu diệt cứ điểm 811A (Huguette 5) của trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Chiến thuật đánh lấn tiếp tục được phát huy. Với những đường hào đã đào xuyên qua hàng rào cứ điểm, bộ đội ta bất thần tổ chức xung phong. Toàn bộ đại đội Âu Phi vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cử điểm này, bị diệt gọn trong vòng không đầy 80 phút.
Như vậy, ngay trong đêm đầu của đợt tiến cóng thứ ba, địch đã mất thêm bốn cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía đông, và 311A ở phía tây. Tại Hồng Cúm, trận vây ép đánh lấn khu C của trung đoàn 57 đã tiêu hao nhiều Binh lực địch, nên sáng ngày 2 tháng 5, địch phải rut chạy khỏi đây.
Những đường hào thọc sâu của bộ đội ta trên cánh đồng phía tây, đều nhắm thẳng về phía sở chỉ huy Đờ Cát. Tập đoàn cứ điểm đã bị dồn lại trong cái "ô vuông cuối cùng!''.
RẤT nhiều cuốn sách của phưưng Tây xuất bản trong những thập niên qua đã giúp chúng ta bổ sung vào bức tranh toàn cảnh về chiến cục Đông Xuân 1953-1954 cũng như những ngày giờ cuối cùng của con nhứn Điện Biên Phủ.
Ngày 2 tháng 5, Nava vội vã từ Sài Gòn bay ra Hà Nội. Nava triệu tập họp khẩn cấp bàn cách cứu vãn tình thế. Dự họp có Nava, Cônhi, Crevơcơ, tư lệnh lực lượng Lào, và những sĩ quan thuộc lực lượng lục quân ở chiến trường Bắc Việt Nam.
Cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đã kéo dài năm mươi ngày đêm. Không biết lúc này Nava đã nhận ra sai lầm lớn nhất của mình là đã phân tán hầu hết lực lượng cơ động tập trung tại đồng bằng sông Hồng trước khi trận đánh bắt đầu! Ngoài những tiểu đoàn tinh nhuệ đưa lên Tây Bâc, ba binh đoàn cơ động của Bắc Bộ vẫn bị cầm chân ở Trung Lào. Suốt thời gian qua, những mưu toan cứu nguy cho Điện Biên Phủ đều không th thực hiện vì thiếu lực lượng, đặc biệt là lực lượng nhảy dù và không quân Nếu ném những tiểu đoàn dù ít ỏi vào những cuộc hành binh giải tỏa thì không còn lực lượng tăng viện để duy tn cuộc sống của tập đoàn cứ điểm. Nếu huy động không quân vào những cuộc hành binh Xênôphôn Côngđo thì không còn lực lượng yểm trợ, tiếp tế hàng ngày cho Điện Biên Phủ. Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đi vào thời điểm quyết định khi Nava chỉ còn trong tay một tiểu đoàn dù!
Hội nghị Giơnevơ đã khai mạc, nhưng còn bàn về vấn đề Triều Tiên. Đại diện của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa có mặt. Hy vọng cuối cùng của Pháp lúc này là đạt được một thỏa thuận ngừng bắn tại Điện Biên Phủ.
Nhưng muốn được như vậy, ít nhất con nhím Điện Biên Phủ phải tồn tại thêm một thời gian. Chính phủ Pháp hoàn toàn không muốn thấy một cuộc đầu hàng ở Điện Biên Phủ. Những bức điện của Đờ Cát và Lănggơle mới gửi về đều mang những lời lẽ gay gắt và tuyệt vọng. Số phận của Điện Biên Phủ chỉ còn tính từng ngày. Có thể ngay ngày mai nếu không có quân tiếp viện. Cônhi một lần nữa lại đưa ra ý kiến mở một cuộc hành binh đánh vào sau lưng đối phương. Đây chỉ là sự suy nghĩ thiển cận.
Lấy đâu ra lực lượng để mở một cuộc hành binh như vậy lúc này! Tất cả các binh đoàn cơ động đang sa lầy ở đồng bằng Bắc Bộ, ở Trung Lào, ở miền Trung. Muốn điều động chúng cũng không còn thời gian. Và làm cách nào tiếp tế đạn dược, lương thực cho một cuộc hành binh mới trong lúc toàn bộ lực lượng không quân vận tải với cả những máy bay hạng''nặng của Mỹ đã không thể bảo đảm những yêu cầu khẩn thiết của riêng Điện Biên Phủ.
Nava tuyên bố: "Không cần phải tiếp tục cuộc chiến ở Điện Biên Phử''.
Nava quyết định tiến hành một cuộc hành binh phá vây Khác với những kế hoạch rút chạy lần trước, tuy còn là trên giấy, Xénophon huy động 15 tiểu đoàn, Condor, 7 tiểu đoàn, cuộc hành binh phá vây mang bí danh Albatros (Hải âu lớn) lần này chỉ dựa vào bản thân lực lượng đồn trú tại Điện Biên Phủ, với sự hỗ trợ tạo một hành lang của một lực lượng biệt kích địa phương nhỏ ở Lào. Nava cho rằng cuộc hành binh có thể thực hiện trong hai hoặc ba ngày bằng sức mạnh, hoặc bí mật, khôn khéo, vì Việt Minh không có phương tiện hậu cần ở Lào, phải 24 giờ sau mới có thể đối phó". Nava quyết định "bỏ lại thương binh và sĩ quan quân y", vì tin chắc là họ sẽ được Việt Minh trao trả. Do tính chất của cuộc hành binh như vậy nên nó được trao cho Đờ Cát tự mình vạch ra kế hoạch.
Nava đồng ý với Cônhi tăng viện thêm cho Điện Biên Phủ một tiểu đoàn dù. Đây là tiểu đoàn dù cuối cùng.
Tổng chỉ huy trực tiếp nâm các đơn vị dù và không quân. Từ trước tới nay Nava vẫn sử dụng lực lượng này rất dè dặt, theo nguyên tâc không hy sinh vô ích một tiểu đoàn nào. Nhưng lần này Nava nhận thấy muốn phá váy con nhứn Điện Biên Phủ phải được tăng thêm sức mạnh.
Ngày 4 tháng 5, Cônhi điện cho Đờ Cát một số chỉ thị về cuộc rút chạy theo quyết định của tổng chỉ huy:
"Chỉ huy trưởng GONO được trao quyền lựa chọn cách thức và thời gian tuỳ theo sáng kiến của mình sau khi nhận được lệnh". Cônhi chỉ thị cho Đờ Cát phải phá hủy các xe tăng, đại bác, tài liệu mật, mật mã và dụng cụ vô tuyến điện. Nbưng vẫn không quên nhấn mạnh "cho tới khi có lệnh mới, chỉ huy trưởng GONO phải duy trì nhiệm vụ chống cự tại chỗ không được có tư tưởng rút lui", phải hết sức giữ bí mật về kế hoạch và chuẩn bị thực hiện với sự thận trọng tối đa. Cônhi vốn cho rằng tháo chạy khỏi Điện Biên Phủ chỉ dẫn tới sự hy sinh vô ích.
Trong ngày, dưới trời mưa tầm tã, Đờ Cát họp các sĩ quan cao cấp của Mường Thanh phổ biến kế hoạeh Albatros. Có mặt Lănggơle, Lơmơniê (Lemeunier), Bigia, Vađô (Vadot) và Xêganh Pagít. Không mấy ai có ảo tưởng vào lối thoát này. Chiến hào của đối phương đã bao vây rất chặt, không còn kẽ hở. Lực lượng của Crevơcơ không có khả năng chống chọi với Việt Minh. Tuy nhiên, mọi người thống nhất phải chia làm ba cánh khi rút chạy. Cánll thứ nhất, gồm toàn bộ quân dù, do Lănggơle và Bigia chỉ huy. Cánh thứ hai, gồm toàn bộ quân lê dương và Bắc Phi, do Lơmơniê và Vađô chỉ huy. Cánh thứ ba, gồm toàn bộ quân ở Hồng Cúm do fLalăng chỉ huy. Có ba đường rút lui: đường thứ nhất qua bản Keo Lom, đường thứ hai, theo thưng lũng Nậm Nưa, đường thứ ba theo hướng Nậm Hợp. Con đường chạy về phía nam - đông nam dường như có vẻ ít nguy hiểm hơn 1 Mọi người phải rút thăm. Dự kiến kế hoạch rút chạy sẽ được thực hiện vào 20 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Theo Giuyn Roa: "ở Điện Biên Phủ, người ta gọi cuộc hành binh này là "mở con đừờng máư'' để chứng tỏ không có ảo tưởng về nó: mười người sẽ chỉ còn lại một người".
Đêm ngày 4 tháng 5, trên cánh đồng phía tây, sau khi tiêu diệt 311A, đại đoàn 308 tịếp tục đánh 311B (Huguette 4) ở phía trong. Trung đoàn 36 tiêu diệt 1 đại đội gồm lính lê dương và lính Marốc, đưa trận địa tới gần trung tâm đề kháng Lili (Lilie, từ Claudine mới tách ra), tấm bình phong cuối cùng che chở cho sở chỉ huy Đờ Cát ở hướng này. Buổi sáng, địch phản kích định chiếm lại, nhưng thất bại.
Ngày 5 tháng 5, cả Lănggơle và Bigia đều kéo tới Êlian. Họ đã biết rõ số phận của phân khu trung tâm sẽ được kết thúc trên hai cao điểm còn lại ở phía đông. Tại A1, tiểu đoàn 1 bán lữ đoàn lê dương 13 đã bị tổn thất nặng sau một thời gian dài phòng ngự. Lănggơle quyết định chuyển những lính lê dương xuống Êlian 3 dưới chân đồi làm lực lượng dự bị, và điều tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 (1er BPC) vừa được tăng viện lên thay thế.
Tiểu đoàn dù 1, do viên đại úy Badanh (Bazin) chỉ huy, nhận lệnh khẩn trương nhảy xuống Mường Thanh, nhưng sau ba đêm chỉ mới tới được hơn hai đại đội, và bộ phận chỉ huy tiểu đoàn. Badanh chưa kịp làm gì thì đã trúng một mảnh đạn pháo bị thương. Đại úy Pugiê (Jean Ponget), đại đội trưởng đại đội 3, được chỉ định nắm quyền chỉ huy tiểu đoàn. Cáeh đây không lâu, Pugiê còn là sĩ quan tùy tùng của Nava, thường xuất hiện phía sau tổng chỉ huy trong những bức ảnh. Pugiê đã mất gần sáu giờ đưa đơn vị vượt qua quãng đường 1.500 mét từ Êpécviê tới Êlian trong những chiến hào ngập bùn, luôn luôn bị đại bác ta bắn chặn. Sau khi nhận bàn giao của Cutăng (Coutant), chỉ huy tiểu đoàn lê dương 1, Pugiê đi quan sát vị trí ồi quvết định chia lực lượng bố trí thành ba nơi tại Êlian 2. Đại úy Étmơ (Edme), chỉ huy đại đội 2, phụ trách tuyến lô cốt và chiến hào phía đông và phía nam cứ điểm đối diện với lực lượng ta. Pugiê cùng với đại đội 3 giữ đỉnh đồi có hầm ngầm, và mặt tây nam tiếp giáp với A3, nơi có một mũi chiến hào của ta chạy men theo đường 41, đang trực tiếp đe dọa con đường nối A1 với Mường Thanh. Chỉ một ngày sau, Pugiê mới biết sự phân công này mang tính định mệnh.
Lực lượng địch ở Điện Biên Phủ còn 5.385 quân chiến đấu, và 1.282 thương binh. Nếu so với sau đợt tiến công thứ hai, thì quân địch đông hơn, do đã được tăng cường. Con nhím khổng lố của Nava đã thu lại bằng con nhứn của Xalăng ở Nà Sản năm trước. Diện tíeh phân khu trung tâm còn không đầy một kilômét vuông.
Cũng trong ngày 5 tháng 5, trung đoàn 174 báo cáo đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kilôgam, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm của địch.
Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định đẩy nhanh nhịp độ phát triển của đợt tiến công thứ ba chuẩn bị mọi điều kiện sớm chuyển sang tổng công kích.
SÁNG ngày 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn 255 của 174 phòng ngự suốt ba mươi tư ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua Đồi Cháy làm lực lượng dự bị.
Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối nay.
Trời ngớt mưa. Cơ quan tham mưu báo cáo đêm qua địch đã thả dù thêm hàng trăm quân tăng viện. Máy bay địch hoạt động với mức độ chưa từng có kể từ đấu chiến dịch. Chúng ném bom, bắn rốekét vào những vị trí phòng ngự của ta, đặc biệt là đồi C1. Pháo cao xạ bắn rơi thêm một chiếc C.119.
Buổi trưa trời hửng nâng. Tôi trèo lên đỉnh núi Mường Phăng sau sở chỉ huy, quan sát trận địa. Gần một tháng qua, từ vị trí này, với một chiếc ống nhòm có bội số quang học lớn, tôi đã theo dõi sự tiến triển của chiến hào ta. Thời gian đầu, sự tách biệt giữa ta và địch rất rõ.
Tập đoàn cứ điểm địch là một khối đông đặc, như những tổ ong khổng lồ nằm sát nhau hai bên bờ sông Nậm Rốm. Trận địa ta là những đường hào rất nhiều nhánh từ chung quanh cánh đồng lan dấn vào. Nhưng từ cuối tháng Năm, rất khó phân biệt trận địa ta và trận địa địch. Vì hầu hết những mũi chiến hào của ta đã cắm sâu vào tập đoàn cứ điểm. Đôi lúc phải xác định trên bản đồ đâu là những cứ điểm địch còn giữ, đâu là nơi ta đã tiêu diệt.
Trận mưa dù đang tiếp tục trên bầu trời Điện Biên Phủ. Những chiếc máy bay vận tải bay cao ngoài tầm với của pháo cao xạ. Hàng ngàn chiếc dù màu sắc tươi rói chi chít trên cánh đồng, như nấm nở rộ sau một trận mưa. Có thể thấy rõ số khá lớn đồ tiếp tế của địch rơi vào trận địa ta. "Miếng da lừa" Điện Biên Phủ đã thu lại quá nhỏ. Sáng nay, tham mưu báo cáo, nó chỉ còn một chiều 1.000 mét, một chiều 800 mét. Tổng thống Aixenhao đã ví nó với một "sân bóng chày".Tôi dùng ống nhòm tìm vị trí 311B ở phía tây, đã bị tiêu diệt đêm 3 tháng 5, và vị trí 310 nằm bên. Cả hai vị trí này chỉ cách sở chỉ huy Mường Thanh hơn 300 mét. Từ đây vượt qua một cứ điểm nữa là tới hầm Đờ Cát Những mũi lê đã chĩa vào bên sườn Đờ Cát. Nhưng phản ứng của địch rất yếu ớt. Chúng đã không làm gì nhiều sau khi mất 311B. Và đêm nay sẽ đến lượt 311, được coi là "con mầt" của tập đoàn cứ điểm.
Tôi nhận thấy: tình hình địch đã thay đổi, không phải không có khả năng giải quyết con nhím Điện Biên Phủ trước khi Hội nghị Giơnevơ về Đóng Dương bảt đầu. 20 giờ, hỏa lực của ta tập trung bắn vào A1, C2, cứ điểm 506, bâc Mường Thanh, cứ điểm 310, tây Mường Thanh. Lần này có thêm sự phối hợp của 12 dàn hỏa tiễn sáu nòng. Mặc dù độ tản xạ còn cao, những đuôi lửa, tiếng rít và tiếng nổ dữ dội của loại vũ khí mớ này đã làm cho quân đồn trú sơng trong những công sự đắp đất đã bị. mưa làm suy yếu, hoảng sợ.
Đợt pháo hỏa kéo dài 45 phút. Địeh phản ứng yếu ớt. Nhưng chúng đã có chuẩn bị. Khi pháo ta vừa ngừng bắn, tất cả những khẩu pháo còn lại của tập đoàn cứ điểm tập trung trút đạn xuống những trận địa chiến hào của ta xung quanh A1 và C2.
Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quay điện thoại liên lạc với công binh để kiểm tra lần cuối. Điện thoại lại bị đứt! Tình hình lại diễn ra như lần trước. Nhưng cơ quan tham mưu chiến dịch đã rút kinh nghiệm, phổ biến giờ nổ súng cho các đơn vị. Trước giờ G năm phút, các chiến sĩ ở chiến hào xuất phát xung phong được lệnh quay lưng về A1, nhắm mắt, há mồm đề phòng sóng xung kích và ánh chớp của ngàn cân bộc phá. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, không phải như chúng ta chờ đợi.
Quay đầu nhìn lại, trên đồi A1 có một đám khói lớn đang phụt lên. Một số người phân vân: có phải đây là bom nổ chậm địch thả lúc chiều! Nguyễn Hữu An lập tức ra lệnh cho pháo của trung đoàn nổ súng. Mấy ngày trước đó, chúng ta đã tiêu diệt một số hỏa điểm địch hướng vễ phía tiền duyên, nên lần này pháo của trung đoàn chỉ bắn chế áp mạnh trong vòng 15 phút, rồi bộ binh xung phong. Ở phía đông - nam, hướng tiến công chủ yếu, tiểu đoàn 249, do tiểu đoàn trưởng Vũ Đình Hòe chỉ huy, chia thành lai cánh tin lên đồi hình thành thế bao vây quân địch. Phía tây - nam, tiểu đoàn trưởng Dũng Chi đưa tiểu đoàn 251 tiến theo giao thông hào mới đào trên mặt ruộng ven đường 41, thọc một mũi dùi cắt rời A1 khỏi Mường Thanh.
Khối bộc phá nổ cách hầm ngầm vài chục mét thổi bay chiếc lô cốt bên trên, và cuốn theo phần lớn đại đội dù 2 của Étmơ đóng ở đây. Pugiê ngồi trong hầm ngầm bỗng thấy quả đồi rung rinh, một tiếng nổ trầm át mọi tiếng động khác kéo dài vài giây. Một lát sau y mới hiểu ra, và biết mình vừa thoát chết.
Khối bộc phá một ngàn cân đã tiêu diệt một phần tuyến ngang gây khó khăn cho các đơn vị đánh A1 trong đợt trước, tạo nên một cửa mở quan trọng giúp cho hai đại đội của tiểu đoàn 249 xung phong thuận lợi. Nhưng càng lên gần đỉnh đồi thì những đất đá tử hố sâu bốc lên đã làm trái đồi biến dạng và trở nên rất khó đi. Lợi dụng lúc đó, những -tên lính dù còn sống sót của đại đội 2 liên tiếp trút đạn liên thanh về phía ta. Đại đội 316 đánh vào trận địa súng cối. Đại đội 317 đánh vào khu thông tin gần hầm ngầm. Đại đội 3 của Pugiê đóng trên đỉnh đồi và từ phía hầm ngầm tiến ra phản kích. Cuộc chiến bằng tiểu liênl lựu đạn, lưỡi lê lại diễn ra trên từng thước chiến hào, từng ụ súng.
Phía tây - nam, các chiến sĩ bộc phá tiểu đoàn 251 nhiều lần tiến lên mở đường về phía lô cốt "Cây đa cụt" đều bị thương vong. Pugiê biết nếu để mất lô cốt này thì cứ điểm hoàn toàn cô lập, sớm muộn cũng bị tiêu diệt.
Tiểu đoàn quyết định đưa ĐKZ lên bắn sập chiếc lô cốt:
Khẩu đại liên bên trong đã hoàn toàn im lặng. Nhưng khi bộ đội lên phá tiếp hàng rào lại bị hỏa lực không biết từ đâu chặn lại. Tiểu đội trưởng Phấn cùng đại đội phó bí mật bò lên quan sát, phát hiện được một ụ súng ngầm được ngụy trang kỹ, ở ngay gần lô cốt. Phấn đề nghị cho mình được tiêu diệt ụ súng để trả thù cho các bạn đồng đội đã hy sinh, nếu cần sẽ ôm bộc phá lao vào ụ súng đê mở đường cho đơn vị. Đại đội tổ chức hỏa lực yểm hộ cho Phấn hoàn thành nhiệm vụ an toàn. Tiểu đoàn 251 đã cắt đứt con đường tiếp viện của địch từ Mường Thanh lên.
Trên đỉnh đồi, những tên lính dù dựa vào chiến hào và công sự đã được củng cố trong thời gian qua ra sức chống đỡ chờ quân viện.
Quá nửa đêm, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa đại đội dự bị của tiểu đoàn 249 vào giải quyt trận đánh. Bộ đội ta chia thành từng tổ nhỏ tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng của địch.
Tại Mường Thanh, trước tình hình nguy ngập của nhiều cứ điểm ở phía đông và cả phía tây, Lănggơle quyết định tập hợp tại Êpécviê những bộ phận còn lại của tiểu đoàn dù 6 mới được tăng viện chưa lâu, và tiểu đoàn dù 8. Lănggơle ra lệnh cho hai đại đội của tiểu đoàn dù 8, mỗi đại đội chỉ còn lại 40 người, lập tức lên Êlian 2. Nhưng con đường lên đồi A1 đã bị ta chốt chặt.
Lănggơle đành cho đại đội này chuyển sang Êlian 4, nơi Brêxinhắc cũng đang khẩn thiết đòi tăng viện.
Sau khi tiêu diệt được vị trí Cây đa cụt tiểu đoàn trưởng 251 Dũng Chi quyết định đưa một lực lượng xuống uy hiếp A3, đồng thời tổ chức một mũi đánh lên đỉnh đồi dồn quân địch ở A1 vào thế giữa hai gọng kìm.
4 giờ sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pugiê chỉ còn lại ba mươi tư lính dù. Pugiê gọi bộ - đàm một lần nữa cho Mường Thanh, yêu cầu phải tăng viện ngay một đại đội nếu không cứ điểm sẽ bị tràn ngập. Ở đầu dây là tham mưu trưởng Vađô:
Hãy biết điều một chút. ông muốn tôi tìm đâu ra một đại đội! Tất cả đều không còn gì! '' Nếu vậy thì cho tôi và những người còn lại mở đường chạy xuống Êlian 3.
- Ông phải ở tại chỗ, ông là lính dù, phải chiến đấu cho tới chết... Chí ít là tới khi trời sáng.
- Rõ rồi. Với tôi, thế là xong. Nếu ngài không còn điều gì nói thêm, tôi hủy điện đài.
- Với tôi cũng là xong - Vađô nói.
Quân dù đã sử dụng đến những viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Viên chl huy Pugiê bị thương nặng và bị bắt.
Trước khi trời sáng trận đánh kết thúc. 174 đã trả được cái hận A1.
Trong đêm, cũng ở phía đông, trung đoàn 165 của 312 đã tiêu diệt 506 (Eliane 10), cứ điểm rất quan trọng nằm bên đường 41 chạy tới sở chỉ huy của Đờ Cát.
Lănggơle đã dồn vào đây tất cả những gì còn lại của tiểu đoàn dù 6. ở phía tây, trung đoàn 102 của 308 chiếm xong cứ điểm 311 (Huguette F) đưa trận địa tiến công của đại đoàn vào cách sở chỉ hưy Đờ Cát 300 mét.
Sáng ngày 7 tháng 5 năn- 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên cao điểm A1 báo hiệu giờ tàn của tập đoàn cứ điểm.
Nhưng trận đánh trên dãy đồi phía đông vẫn chưa kết thúc. Trong đêm, ở hướng chính, tiểu đoàn 215 của 98 đã mở nhiều đợt xung phong chiếm cứ điểm C2. Tiểu đoàn dù 5 dựa vào công sự kiên cố chống trả rất quyết liệt. Một bộ phận nhỏ của 215 lọt được vào bên trong cứ điểm. Tiểu đoàn dù 5 mất dần sức chiến đấu. Đúng lúc đó có lực lượng tử Mường Thanh lên tăng viện, địch chuyển sang phản kích định đánh bật ta ra khỏi đồn.
Cuộc chiến đấu kéo dài tới sáng. Các chiến sĩ của ta chỉ còn cố bám giữ lấy đầu cầu. Mũi vu hồi của tiểu đoàn 439 đánh vòng theo hướng tây bắc, nhằm chia cắ̉t C2 với Mường Thanh, gặp địa hình trống trải bị hỏa lực từ C2 và pháo ở Mường Thanh tiêu hao khi tiếp cận, đột phá không thành công.
Thấy trận đánh ở C2 kéo dài, tôi gọi điện cho anh Lê Quảng Ba, nhắc: "174 đã chiếm xong A1, tận dụng hỏa lực bắn thẳng của ta từ A1 chi viện cho 98 ở C2. Đưa ngay lực lượng dự bị trung đoàn 9 vào chiến đấu. Pháo chiến dịch sẽ kiềm chế pháo địch ở Mường Thanh, dành riêng cho C2, 200 quả pháo 105. Cần nhanh chóng tiêu diệt được C2 để làm chủ hoàn toàn các cao điểm phía đông:
° 7 giờ 30, pháo ta vừa ngừng chế áp, tiểu đoàn 215 và đại đội 138 của tiểu đoàn 375 chia làm ba mũi xung phong lên C2. Quân ta lần lượt đánh chiếm từng mục tiêu 9 giờ 30, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ đồi C2. Bộ chỉ huy khu đông Brêxinhắe, Bôtenla và một số đông sĩ quan dù tập trung tại đây cùng với hàng trăm thương binh đều bị bât sống.
Cuộc chiến đấu trên những ngọn đồi phía đông đã kết thúc. Cả khu trung tâm nam gọn dưới hỏa lực bắn thẳng của ta.
Tại Mường Thanh, 12 giờ, Lănggơle triệu tập cuộc họp các chỉ huy tiểu đoàn. Lần này vâng mặt những người chỉ huy dù. Theo kế hoạch, cuộc phá vây sẽ phải thực hiện vào 20 giờ ngày hôm nay, mồng 7 tháng 5.
Như thường lệ, một chiếc Corsair F.4-U của không lực hải quân bay sát tập đoàn cứ điểm ném xuống một túi văn thư, trong đó là những bức ảnh máy bay vừa chụp được Lănggơle và Bigia chăm chú nhìn những tấm ảnh.
Con đường cách đây ba ngày còn để ngỏ phía nam Junon, đã bị ba đường hào cắt ngang. Bigia lẩm bẩm: Sẽ phải mở "một con đường máư''. Chỉ huy các tiểu đoàn lần lượt báo cáo đơn vị mình không ở trong trạng thái thực hiện một cuộc phá vây mà họ tin là khó sống sót. Những người dự họp đều nhận thấy: dù có hy sinh phần lớn quân rút chạy, cũng khó giúp cho một nhóm người thoát khỏi thung lũng. Cuộc tiến công của những người lính kiệt sức nhắm vào những vị trí được đối phương bảo vệ vững chắc, sẽ là một hành động tự sát. Vấn đề thực hiện kế hoạeh Albatros không còn được đặt ra. Và mọi người cũng thấy không nên tiếp tục cầm cự thêm một đêm với cái giá phải trả từ 300 đến 500 người! Những người ngồi đây chưa biết tình hình bên ngoài đang biến chuyển rất nhanh.
Suốt đêm, chúng tôi tập trung tại phòng tác chiến theo dõi cuộc chiến đấu. Mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm khi được tin 316 giải quyết xong A1 và C2. Mục tiêu đợt tiến công thứ hai đã hoàn tất. Các đồng chí hậu cấn định trở về lo đạn dược cho cuộc tổng công kích. Tôi thấy còn một số nơi chưa báo cáo đầy đủ tình hình, nên nói ngồi nán lại.
Số lượng quân địch ở Mường Thanh hãy còn đông. Nhưng chúng sẽ không chiến đấu tới người cuối cùng.
Chúng ta đã biết tại Mường Thanh có nhiều binh lính phản chiến, một số đơn vị đã chạy ra hàng. Và quân địch đã lâm vào tình thế rất nguy ngập. Cần phải rất khẩn trương chuẩn bị tổng công kích. Bộ phận quân báo và các đơn vị trinh sát được lệnh theo dõi chặt chẽ từng biến chuyển của địch. Chúng ta đã biết tin địch chuẩn bị đột phá vòng vây mở một đường máu rút chạy về phía tây. Khác với những ngay trước, mới 9 giờ sương mù đã tan Trời không một gợn mây. Máy bay địch trút bom dữ dội vào những trận địa của ta.
Các đài quan sát phía trước báo cáo: Nhiều chỗ trên sông Nậm Rốm nổi bọt trắng. Anh em phán đoán địch ném súng đạn và đồ dùng xuống sông. Phòng 2 cử người chạy tới sở chỉ huy báo cáo, bộ phận theo dõi điện đài địch nghe được Mường Thanh yêu cầu Hà Nội "chỉ thả thêm dù lương thực, không thả dù vũ khí".
Chúng tôi nhận thấy địch đã có biến động. Chúng có thể mở một đường máu rút chạy vễ phía Thượng Lào hoặc đầu hàng. Tôi gọi dây nói cho anh Vương Thừa Vũ, chỉ huy bộ đội phía tây:
- Tình hình địch có những triệu chứng rối loạn, có nhiều khả năng đầu hàng, cũng có khả năng đột phá vòng vây để tháo chạy. Đồng chí phải chỉ huy bộ đội bao vây thật chặt, không được để cho bất cứ một tên địch nào chạy thoát.
10 giờ, trung đoàn 209 đêm qua chưa hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt 507, một trong bốn cứ điểm còn lại trên đường 41 bên tả ngạn sông Nậm Rốm ngăn chặn bộ đội ta vượt qịla cấu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm, đề nghị cho đánh tiếp ban ngày. Tiểu đoàn 130 đánh 507 đêm trước đã gây thiệt hại nặng cho quân địch nhưng lực lượng cũng bị tiêu hao. Đại đoàn 312 lệnh cho trung đoàn 141 cơ động từ phía sau lên sằn sàng tiếp sức cho 209, trung đoàn 165 đã chiếm được cứ điểm 506 sằn sàng chi viện cho đơn vị đánh 507.
Buổi trưa, trinh sát báo cáo máy bay vận tải hai thân chỉ lượn một vòng trên bầu trời Mường Thanh, không thả dù tiếp tế, quay trở về Hà Nội. Trên sông Nậm Rốm vẫn nổi những đám bọt trắng. Trong khu trung tâm của địch, thỉnh thoảng lại có một tiếng nổ khác thường. Bộ phận theo dõi điện đài nghe được những viên phi công và quân địch ở Mường Thanh trao đổi với nhau lời chào vĩnh biệt.
Bộ chỉ huy chiến dịch qụyết định cuộc tổng công kích sẽ diễn ra khl trời tối.
° 14 giờ, phào chiến dịch bắn mãnh liệt vào khu trung tâm tập đoàn cứ điểm, dọn đường cho cuộc tiến công cứ điểm 507 của 209.
Những cứ đlểm 505 và 505A đối diện với 507 lúc này do tiểu đoàn 154 của Nguyễn Năng và đại đội trợ chiến của tiểu đoàn 166 chốt giữ. Lực lượng ở đây gồm chủ yếu là đại đội 325, đơn vị đã phòng ngự từ ngày đầu, mới được tăng cường thêm những bộ phận của đại đội 520 và 530. Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 154 Ngô Trọng Bảo có mặt ở tiền duyên nhận thấy quân địch chống cự yếu ớt quyết định cho bộ đội mở hàng rào ngay trong lúc pháo ta còn chế áp quân địch. Với sự chi viện của trợ chiến, chỉ sau bốn quả bộc phá, bộ đội ta đã lọt vào trong cứ điểm 507. Quân địch bàng hoàng, bắn vài loạt đạn rồi bỏ chạy sang cứ điểm 508 và qua sông Nậm Rốm, số còn lại đầu hàng. Trung đoàn 209 được tiểu đoàn trưởng Nguyễn Năng từ sở chỉ huy tiểu đoàn báo cáo đã chiếm được 507 lập tức điều tiểu đoàn 130 từ phía sau lên tiếp ứng. Trong khi đó, 154 thừa thắng đánh tiếp sang 508. Đại bác của ta đã gây nhiều đám cháy lớn trong khu trung tâm. Tuy nhiên những khấu trọng liên tự động bốn nòng của địch vẫn nhả đạn dữ dội về phía cầu Mường Thanh.
Tại sở chỉ huy, trinh sát báo cáo trong khu trung tám của địch xuất hiện những đốm cờ trắng. Tôi yêu cầu cán bộ tham mưu chỉ những điểm có cờ trắng trên bản đồ, nhận thấy có cả những đơn vị Âu Phi.
Chúng tôi nhận định: Địch đã đến lúc tan rã.
Đúng 3 giờ chiều, các đại đoàn được lệnh: "Không cần đợi trời tối, lập tức mở cuộc tổng công kích vào Mường Thanh. Đơn vị phía đông đánh thẳng vào khu vực trung tâm, đơn vị phía tây giáp công sang, cùng tiến vào sở chỉ huy của địch. Phải đánh thật mạnh, bao vây thật chặt, không để cho Đờ Cát hoặc bất cứ tên địch nào chạy thoát".
Tại trận địa, đại đội 360 của tiểu đoàn 130, có chính trị viên tiểu đoàn Trần Quải đi cùng, đã có mặt ở cứ điểm 508. Tiểu đoàn phó Ngô Trọng Bảo cho các lực lượng của 154 tiến sang cứ điểm 509, cứ điểm cuối cùng bảo vệ cầu Mường Thanh, rồi trao đổi với chính trị viên Trần Quải, lệnh cho đại đội 360 tiến vào khu trung tâm, nơi lửa khói của những đám cháy mỗi lúc càng bốc cao.
Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật lập tức dẫn đại đội 360 luồn dưới làn đạn của nhưng khẩu trọng liên bốn nòng, băng qua cầu Mường Thanh. Nhận thấy quân địch hầu như không chống cự, Tạ Quốc Luật cho bộ đội rời giao thông hào đầy âp quân địch, nhảy lên mặt đất, dùng một lmh ngụy dẫn theo đường tât tiến thật nhanh tới sở chỉ huy của Đờ Cát. Các đài quan sát báo cáo về: Quân ta từ ba phía đang đánh vào khu trung tâm, 312 từ phía đông tiến qua cầu Mường Thanh, 308 từ phía tây mở đưừng qua sân bay, và từ phía tây nam mở đường. vào Lili, hướng vễ sở chỉ huy của Đờ Cát. Quân địch chỉ chống cự lẻ tẻ.
Nhiều toán địch ra hàng. Những đốm cờ trắng xuất hiện ở Mường Thanh mỗi lúc một nhiễu. Anh Thái luôn luôn nhắc các đơn vị: "Bao vây chặt, không để một tên nào chạy thoát"..
5 giờ 30 chiều, 312 báo cáo lên: "Toàn bộ quân địch tại khu. trung tâm đã đầu hàng. Đã bắt được tướng Đờ Cát"
Cả khu rừng cơ quan chỉ huy mặt trận, từ xưa đến nay rất nghiêm mật, bỗng sôi lên trong những tiếng ầm ầm như biển động. Cán bộ, chiến sĩ hò reo, khua chân múa tay, ôm nhau nhảy nhót, biểu lộ sự vui mừng như những em nhỏ. Có nời chỉ hét. Có người mỗm há to. Có người mặt tái ngắt.
Sự vui mừng chưa đến với tôi. Có chắ̀c chắn là đã bắt được tướng giặc không! ở Hồ̃ng Cúm, vẫn còn một ngàn rưỡi quân địch. Từ Mường Thanh, các đơn vị báo cáo lên: Binh lính địch lũ lượt kéo ra hàng. Có tên vừa đi vừa hát. Các chiến sĩ ta cũng ra khỏi công sự, nhảy múa trên giao thông hào. Nhiều anh em bắn súng chỉ thiên và pháo hiệu xanh, đỏ để mừng thắng trận.
Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị: "Cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. Tất cả phải ở vị trí chiến đấu.
Không được để một tên địch nào chạy thoát. Lập tức dùng hệ thống loa địch vận kêu gọi và hướng dẫn địch ra hàng. Khẩu hiệu như sau: "Hãy ra hàng! Các anh sẽ được đối đãi tử tế. Cầm cờ trắng, đi ra phải có trật tự.
Cấm không được phá hoại vũ khí, đạn dược. Ai còn mang súng, phải chúc đầu súng xuống đất".
Ngay sau đó, tôi hỏi anh Lê Trọng Tấn:
- Có đúng là đã bắt được De Castries không!
- Báo cáo anh, anh em báo cáo lên là đã bầt được.
- Căn cứ vào đâu mà biết nó là De Catries?
Anh Tấn im lặng.
- Cần bắt cho được Đờ Cát. Không được để địch đánh tráo tên chỉ huy. Phải đối chiếu nhân dạng với căn cước, kiểm tra cấp hiệu, phù hiệu. Các đồng chí chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc này. Các đồng chí có ảnh của De Castries chưa!
Đơn vị trả lời không có. Một cán bộ của mặt trận dùng xe Jeep xuống đơn vị mang theo tấm ảnh của Đờ Cát. Anh Lê Chưởng và anh Nam Long báo cáo ở Hồng Cúm, địch có triệu chứng định đánh ra để tháo chạy sang Lào. Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho 308 đưa một đơn vị nhanh chóng tăng cường cho Hồng Cúm, phối hợp cùng 304 truy kích tiêu diệt quân địch, không để một tên nào chạy thoát.
Chung quanh vẫn ầm ầm. Không sao hạn chế được sự ồn ào, niềm vui của mọi người. Các đồng chí vệ binh hạ những cánh cửa liếp xuống cho sở chỉ huy yên tĩnh hơn.
Lệnh cho 312 phải báo cáo nhanh về việc bắt Đờ Cát được nhắc lại. Mỗi phút chờ đợi lúc này rất dài.
Lát sau, anh Lê Trọng Tấn gọi dây nói báo cáo, đúng là đã bắt được Đờ Cát cùng toàn bộ bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Đờ Cát vẫn mang cấp hiệu, ta đã kiểm tra kỹ giấy tờ và chữ ký của y.
Tôi hỏi lại:
- Đồng chí đã thực mắt nhìn thấy Đờ Cát chưa!
Anh Tấn vui vẻ đáp:
- Báo cáo anh, De Castries cùng với cả bộ chỉ hu Pháp ở Điện Biên Phủ đang đứng trước mặt tôi. Hắn vẫn còn cả "can" và mũ đỏ.
Tôi viết ngay điện báo cáo với Trung ương và Chính phủ tin quân ta ở Điện Biên Phủ đã toàn thắng.
Bây giờ phải có ngay một bản thông cáo đặc biệt để đài Tiếng nói Việt Nam kịp truyền đi trong đêm nay.
Tin địch ở Mường Thanh đầu hàng được truyền cho các đơn vị bộ đội và dân công ở phía sau qua đường dây điện thoại.
Lại có ngay một chuyện mới: Giải quyết cái ăn cho một vạn tù binh, cứu chữa cho thương binh địch tại dây như thế nào! Anh Lê Liêm nhắc đi nhắc lại các đơn vị:
"Các đồng chí nhớ bảo đảm chính sách! Phải tổ chức cho tù binh ăn cơm chiều nay". Nhưng người nhẹ nhàng nhất là anh Đặng Kim Giang và các đồng chí phụ trách hậu cần. Không còn phải lo chuẩn bị gạo, đạn cho bộ đội qua cả mùa mưa.
Với tôi trận đánh chưa kết thúc. Quân địch ở Hồng Cúm lúc này do Hà Nội trực tiếp chỉ huy. Nếu chúng chạy thoát một số sang Thượng Lào thì chiến thang của ta sẽ không trọn vẹn. Tôi gọi điện thoại trực tiếp cho Nam Long, ra lệnh quyết không để một tên địch nào chạy thoát. Tại đây chỉ có trung đoàn 57. Nam Long nói:
“Thưa anh, sẽ không có một tên nào chạy thoát. Chúng tôi đã chốt chặt đường sang Lào".
Tại Hồng Cúm từ 5 giờ chiều ta đã phát hiện địch ném vũ khí xuống sông Nám Rốm và có nhiều đám cháy trong cứ điểm. Chính ủy Lê Chưởng nói với tham mưa trưởng: "Ta lệnh cho chúng đầu llàng. Nếu ngoan cố sẽ bị tiêu diệt".
Lệnh được truyền xuống các đơn vị. Tiếng loa của ta vang vang: "Mường Thanh đã đầu hàng! Đờ Cát đã bị bắt! Hồng Cúm hàng nhanh thì sẽ không bị tiêu diệt!".
Địch vẫn im lặng. Ta dùng vô tuyến điện gọi:
- Isabelle! Lalande! Các anh hãy đầu hàng ngay, nếu không sẽ bị tiêu diệt!
- Chúng tôi sằn sàng hạ vũ khí. Nhưng đề nghị các ông cho mượn đường sang Lào.
Chính ủy Lê Chưởng hạ lệnh cho pháo bắn. Hồng Cúm chìm trong khói lửa. Quân địch không chống cự. Bộ đội được lệnh tiến vào trong cứ điểm. Nhưng chỉ còn lại những tên bị thương. Có lẽ nào quân địch đã chạy thoát! Vòng vây của ta vẫn siết chặt chung quanh.
Trung đoàn trưởng 57 hạ lệnh cho bộ đội đốt đuốc truy tìm quân địch. Đuốc sáng hồng cả một vùng trời. Du kích và đồng bào những bản xung quanh Hồng Cúm cũng chủ động phối hợp, dẫn đường cho bộ đội đuổi bắt Tây. Nhưng quân địch không ở đâu xa. Pháo ta bắn mạnh, các công sự trong các cứ điểm đều đổ sụp, Lalăng đã ra lệnh cho tất cả binh lính chạy ra chung quanh cứ điểm để tránh pháo.
° 24 giờ, anh Lê Chưởng gọi điện thoại báo cáo đã bắt được toàn bộ quân địch ở Hồng Cúm, trong đó có cả Lalăng, chỉ huy phó của tập đoàn cứ điểm, đặc trách phân khu Hồng Cúm.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu ác liệt, chiến dịch lịch sử đã thu được toàn thắng. Tôi ngả mình trên chiếc đệm cỏ tranh thao thức mãi không sao ngủ được. Giờ này, Bác và Trung ương đã được tin. Ngày mai, chắc bộ đội sẽ nhận được thư khen của Bác. Anh Phạm Văn Đồng đã có mặt ở Giơnevơ, sẽ có một tư thế mới để bước vào hội nghị. Các đồng chí của ta và các đồng chí Liên Xô, Trung Quốc đều mong đợi tin này hàng giờ... Lá cờ Tổ quốc được nhân dân ta nêu cao trên chiến trường lịeh sử: Quân đội ta lớn lên nhanh quá. Kế hoạeh Nava coi như đã thành mây khói.
Cục diện sẽ đổi mới. Điện Biên Phủ xong rồi, nay mai sẽ tiếp tục đánh ở đâu! Niềm vui làm tôi mất gần trọn giấc ngủ đêm hôm đó..
Hôm sau, cơ quan hậu cần tổ chức một bữa ăn mừng chiến thắng, một bữa "tiệc" bánh cuốn. Đồng chí Vi Quốc Thanh, đồng chí Mai Gia Sinh cùng dự liên hoan với Bộ chl huy chiến dịch.
Bốn năm sau đó, đồng chí Vi Quốc Thanh từ Quảng Tây sang thăm Hà Nội. Đồng chí tặng tôi một bức mành trúc có con chim ưng và dòng chữ "Đông phong nghênh khải hoàn" (Gió đông đón khải hoàn). Đồng chí nói:
"Những năm ở Việt Nam là thời kỳ hoàng kim trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi". Và đồng chí kể lại:,,Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bâc Kinh điện hỏi tôi: Trận Điện Biên Phủ là vận động chiến hay trận địa chiến!".
NGÀY hôm sau, 8 tháng 5 năm 1954, chúng tôi nhận được thư của Bác.
Bác viết:
- "Quân ta đã giải phóng Điền Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời ngợi khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào dia phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.
Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt dầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn... "
Hai ngày sau khi cuộc chiến đấu kết thúc, tôi từ Mường Phăng tới thăm chiến trường Điện Biên Phủ. Trạm tù binh ở rải rác hai bên đường. Binh lính địch vóc dáng to lớn tắm giặt ở suối dưới sự canh gác của những chiến sĩ rất trẻ, bé nhỏ, vẻ mặt lành hiền. Từ một khu rừng vẳng ra tiếng phong cầm rộn ràng, hòa với tiếng hát của những tù binh Pháp. Các đồng chí công tác địch vận đã báo co, binh lính địch tỏ vẻ vui thích khi ra hàng: Họ đều muốn sớm chấm dứt cuộc chiến đấu tuyệt vọng, không mang lại lợi lộc gì cho mình, để thoát khỏi cái địa ngục trần gian do Nava đã tạo nên.
Dọc đường, tôi dừng xe, vào thăm một vị trí pháo. Điều kiện chiến đấu, ăn ở của các đồng chí pháo binh khá tươm tất. Bom đạn địch suốt thời gian qua không là suy suyển những căn hầm này. Địch đã phải điên đầ vì sự an toàn tuyệt đối của những trận dịa pháo ta.
Anh em bộ binh hay gọi đùa hầm của pháo binh là "Hầm chữ Thọ!". Ta đã báo cho địch biết, thương binh của tập đoàn cứ điểm tập trung ở Mường Thanh, nên mấy ngày nay máy bay địch không hoạt động tại khu vực này.
Xe dừng trước vị trí cửa ngõ: Him Lam. Nhiều hố đại bác lỗ chỗ trên khâp mặt ruộng chung quanh đồn. Xem trận địa xuất phát xung phong của bộ đội, tôi nhận thấy các chiến hào hầu hết đều nông không đạt tiêu chuẩn quy định. Cụm cứ điểm Him Lam với ba quả đồi đỏ lòm đứng chụm vào nhau ngay bên phải đường 41. Tôi trèo lên đồi, đi trên con đường nằm giữa rừng dây thép gai bát ngát, xem xét vị trí. Địch đã chọn được một địa thế rất lợi cho việc phòng ngự. Tiêu diệt được cứ điểm Him Lam, bộ đội ta đã trưởng thành rất nhiều.
Đồng chí cán bộ chỉ huy chiến đấu ở đây, đưa tôi vào xem một ụ súng, trong đó địch đã đặt một khẩu liên thanh có kính ngắm sử dụng tia hồng ngoại để phát hiện bộ đội ta ban đêm. Tôi nhìn qua lỗ châu mai, thấy hỏa điểm này khá nguy hiểm vì nó kiểm soát một khu vực rất rộng. Tôi hỏi đồng chí cán bộ:
- Các đồng chí có gặp khó khăn nhiều vì ụ súng này không!
Đồng chí đó tươi cười đáp:
- Báo cáo anh... ít thôi.
- Vì sao!
- Sau trận đánh, chúng tôi hỏi tên bắn súng máy ở đây, nó nói: khi bộ đội ta bắt đầu bắn, nó ngồi thụp ngay xuơng, nên không nhìn thấy bộ đội ta tiến vào đồn.
Đi khỏi Him Lam, trước mảt tôi, đột ngột hiện ra một cánh đồng. Mường Thanh đây rồi! Cánh đồng rộng hơn nhiều so với khi tôi đứng ngâm nó từ đỉnh núi Mường Phăng. Nó chạy dài tít tắp đến chân dãy núi phía nam.
Cơn mưa thép đã tạnh. Cánh đồng phẳng lặng trang điểm những chiếc dù màu sắc rất tươi, như nở đầy hoa.
Xa xa, trên đỉnh núi ở biên giới Việt - Lào những đám mây trắng nhẹ êm đềm kéo nhau đi. Cảm giác đầu tiên của tôi, quang cảnh sao thật thanh bình!
Đi thêm một quãng, bỗng nghe tiếng mìn nổ. Cả chiến trường rộng lớn đã bày ra phía trước.
Tôi đã có mặt ở thị trấn Đông Khê, thị xã Cao Bằng, thị xã Lạng Sơn, thị xã Hòa Bình sau khi giải phóng, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy chiến trường với những nét khốc liệt và hùng vĩ như ở đây.
Bên trái là dãy đồi phía đông, thành lũy của tập đoàn cứ điểm, không còn ngọn cỏ, giống như những tổ mối khổng lồ, lỗ chỗ những ụ súng, hố bom, hố đại bác. Bên phải đường 41, từ chân những quả đồi ra đến bờ sông Nậm Rốm, nằm trên một cánh đồng hẹp, là những vị trí địch dày đặc. Chỗ nào cũng chỉ thấy chiến hào, ụ súng, và dây thép gai. Đất bị xới lộn khắp nơi, như bị nung đỏ, từng tấc đều như thấm máu quân thù và cả nỗi kinh hoàng của chúng. Rải rác còn những xác chết chưa kịp chôn đen đặc ruồi, những bãi rác bốc hơi kinh khủng.
Trước khi vào Đông Xuân 1953-1954 cả địch và ta đều chưa nghĩ tới một không gian và thời gian cho trận quyết chiến chiến lược. Đáy chmh là điểm hẹn lịeh sử, chung cục định mệnh của cuộc chiến tranh xâm lược sớm muộn rồi phải diễn ra ở một nơi nào đó trên đất nước ta. Điện Biên Phủ là sự nối tiếp của Bạch Đằng, Đống Đa trong thời đại mới..
Ngay đầu đường tôi đi vào, hai bên đường 41, là đồi E và đồi D, nơi đồng chí Quang Trung đã nhận chỉ thị phải biến ngay hai cao điểm này thành trận địa kiên cố của ta, đưa sơn pháo lên đây uy hiếp quân địch ở Mường Thanh.
Tôi nhìn lên đỉnh đồi C1 đỏ trụi, thử tìm cái "Cột Cờ" nơi trung đoàn 98 của Vũ Lăng, đã giành giật suốt một tháng ròng với những đơn vị quân dù trong những trận đánh sinh tử, hầu như ngày nào củng được nhắc tới trong báo cáo chiến sự. Không còn thấ́y chút dấu vết nào.
Đã đến chiếc cầu sắt bầc ngang sông Nậm Rốm, nối liền khu đông với trung tâm Mường Thanh. Chiếc cầu mới xuất hiện sau ngày quân địch nhảy dù. Đây là một sản phẩm của Mỹ mà bộ đội ta sẽ gặp nhiều trong những năm chiến tranh sau này. Dưới chân cầu, dòng sông Nậm Rốm đục ngầu, cây cối đổ ngổn ngang, và phủ đầy dây thép gai. Đầu cầu, những chiếc lô cốt há miệng châu mai đen ngòm. Địch đã cố gắng bảo vệ cái cầu này cho tới buổi chiều, cáeh đây hai hôm, các chiến sĩ ta nhanh chóng băng qua, và sau đó, bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm cùng với quân lính từ khu trung tâm lũ lượt kéo ra, qua đây với những lá cờ trắng. Một anh dân công còn trẻ, đứng đợi bên kia cầu. Anh chìa tay ra và nói:
- Đề nghị anh, cho em bắt tay một cái!
Tôi vui vẻ siết tay anh, và biết anh quê ở Thanh Hóa, một tỉnh đã cung cấp nhiều nhất về người, cũng như lương thực phục vụ chiến dịch. Tôi rẽ vào nói chuyện với một số bà con dân công, có cả đồng bào miền xuôi và đồng bào ở địa phương, đang ngồi bên đường. Trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc, mỗi người có góp phần của mình, đều cảm thấy tự hào. Riêng trong chiến dịch này, nếu thiếu tấm lòng thương yêu rộng lớn của nhân dân, chẳng quản gian lao, không sợ hiểm nghèo, chăm lo từng viên đạn, hạt gạo, thì bộ đội ở nơi tiền tuyến xa xôi này không thể nào chiến thắng quân giặc. Nhiều người chạy tới biến cuộc gặp thành một “mít tinh" nhỏ.
Đứng giữa Mường Thanh, trên là trời, dưới là hầm hố, dây thép gai và súng đạn, xe cộ ngổn ngang, một chiếc máy bay cắm đầu xuống đất không xa sở chỉ huy của Đờ Cát.
Chung quanh bát ngát một màu đất đỏ. Điện Biên Phủ không phải là một hiện tượng người ta thường gặp trong chiến tranh. Ký giả Rôbe Ghilanh đã viết: "Ngay cả trong đại chiến thứ hai vưa qua, quân đội Pháp cũng chưa bao giờ dựng lẽn một hệ thống phòng ngự dã chiến lớn mạnh như ở Điện Biên Phử''.
Nhìn các vị trí địch, thấy rõ cái mạnh của con nhím Điện Biên Phủ, và thấy vì sao địch đã chống giữ được ở đây 55 ngày đêm. Nhưng cũng chính lúc này, càng thấy rõ một nhược điểm rất lớn của tập đoàn cứ điểm: trong khi kẻ địch tự vây kín từng đại đội bằng những bãi dây thép gai và mìn để vô hiệu hóa những cuộc tiến công của ta, thì chúng cũng tự giam giữ, tự cô lập mình trong những chiếc cũi sắt, làm mất đi sức mạnh của trên 16.000 quân cơ động tinh nhuệ. Trước đây Nava cũng như nhiều nhà quân sự phương Tây đã không nhận thấy điều đó. Những ngày đầu kháng chiến, với dăm ba ngàn quân, địch nghênh ngang lùng sục khắp đường ngang lối tắt của Việt Bắc, tìm cơ quan đầu não và bộ đội chủ lực của ta. Chỉ tám năm qua, ngày nay, 17 tiểu đoàn quân địch được trang bị mạnh dường kia, đã phải co cụm lại một chỗ, dựa vào nhau trong một thế chỉ nhằm đối phó với cuộc tiến công của ta. Rõ ràng là tình hình đã đổi thay nhiều.
Đồng chí Cao Văn Khánh, tư lệnh phó đại đoàn 308, người phụ trách tiếp quản Mường Thanh, đưa tôi vào xem sở chỉ huy của Đờ Cát. Nó khá rộng, nằm không sâu dưới mặt đất, được bảo vệ bên trên bằng một vòm những thanh sắt uốn cong và rất nhiều bao tải cát. Những đường hào phủ ghi sắt nối liền hầm chỉ huy với những hầm nhỏ hưn của các cơ quan ở chung quanh. Nó nằm khá lộ liễu giữa cánh đồng. Có thể khi thiết kế sở chỉ huy, quân địch chưa hề nghĩ nhiều đến hỏa lực của pháo binh ta. Căn hầm này sẽ không đủ sức chịu đựng lâu nếu ta đặt pháo trên những đói khu đông bắn xuống. Trong hầm, giấy tờ vẫn ngổn ngang. Có cả một bức thư của vợ Đờ Cát. Tôi nhắc anh Khánh cho thu giữ những giấy tờ của địch, chúng sẽ có giá trị lâu dài.
Anh Khánh cho biết khu vực thưưng binh của địch dưới lòng đất thật là kinh khủng. Hơn một ngàn binh lính và sĩ quan bị thương nặng ở đầu, ở bụng, què cụt bị lèn chặt ních trong những căn hầm đầy bùn nhão hôi thối, lúc nhúc ròi bọ. Thưưng binh địch rên xiết, kêu khóc, đòi cứu chữa, đòi ăn, đòi uống. Nhân viên y tế của Pháp tỏ ra hoàn toàn bất lực. Một bác sĩ trẻ tốt nghiệp trường đại học y khoa Pháp nói: "Tử khi đặt chân xuống Điện Biên Phủ, tôi chỉ rúc trong cái xó này, có làm được gì đâu và trong tình cảnh này, chúng tôi có thể làm gì!".
Hơn hai chục bác sĩ và mấy chục nhân viên quân y Pháp cũng bị đói, thân hình gày guộc, mệt mỏi, phờ phạc. Anh Khánh cho biết có người nữ hộ lý duy nhất, tên là Đờ Gala (Genevièvc de Galard), đã được những thương binh Pháp coi là "thiên thần". Tôi nói điều ngay tới một đội điều trị kết hợp với nhân viên y tế của Pháp cứu chữa thưưng binh, có thể cho phía Pháp xuống lấy thương binh nặng như ta đã làm ở Thất Khê trong chiến dịch Biên Giới. Phải tổ chức ngay việc tẩy uế chiến trường để tránh dịch bệnh, cho chuyển thương binh địch từ dưới hầm lên khỏi mặt đất. Và sớm cho cô hộ lý duy nhất tại đây trở về với gia đình.
Sau đó đội điều trị 3 đã được điều tới Điện Biên Phủ đảm nhiệm công việc vất vả này. Để có vôi bột tẩy uế chiến trường, quân y ta đã phải tìm một chiếc lò vôi hỏng ở cây số 15 (cách Điện Biên Phủ 60 kilômét), tìm trong dân công những người biết dùng đá nung vôi.
Những chị em dân công được chọn làm hộ lý, sôi sục căm thù quân địch đã cướp bóc, đốt phá làng mạc quê hương, cướp đi của họ những người thân ngay trên chiến trường này, khi được giải thích kỹ chính sách của Đảng đã cùng các chiến sĩ quân y của ta di chuyển thương binh địch lên mặt đất và cứu chữa cho chúng. ít ngày sau,.được phép của ta, máy bay Pháp hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh để chở đi những thương binh nặng.
Từ chiến dịch Biên Giới, đây là lần thứ ba ta cho quân Pháp làm việc này. Một người lính da đen trước khi rời Mường Thanh đã ứa nước mắt nói với một bác sĩ ta:
- “Thưa ông, từ khi tôi có trí khôn, ngoài mẹ tôi ra, bây giờ tôi mới biết đến sự dịu dàng và lòng yêu thương".
Phải chở đợi hồi lâu mới có người dẫn lên xem A1, “chiếc chìa khóa" của Điện Biên Phủ. Anh em đã mất nhiễu công dọn một lối đi an toàn giữa những bãi mìn.
Tôi đứng nhìn đường hào sâu chạy từ chân đồi lên đỉnh. Đây chính là con đường tiếp viện kín đáo đã làm cho trung đoàn 102 của Hùng Sinh ôm hận. Đường chiến hào của 14 chạy men theo hàng rào của cứ điểm A3, đâm thẳng vào "Cây đa cụt", như vết chém của thanh kiếm khổng lồ cắt rời cao điểm này ra khỏi khu trung tâm nằm dưới cánh đồng. Trước ngày nổ súng đánh A1 lần cuối, Bộ chỉ huy chiến dịch đã theo dõi từng đêm bước tiến đầy gian khổ của đường hào này.
Trên đỉnh đồi, là chiếc xe tăng, nòng pháo đã gục xuống, lỗ chỗ vết đạn. Mỗi tấc đất đều mang dấu vết của cuộc chiến đấu quyết liệt. Dưới chân tôi toàn một thứ đất đỏ nát vụn như cám, trộn đầy những mảnh gang) những đầu đạn đồng lớn, nhỏ, những đoạn dây thép gai. Một đồng chí cán bộ chỉ cho tôi cái hầm ngầm nằm náu kín dưới ụ đất cao. Cách đó một quãng, khối thuốc nổ một tấn đã để lại trên mặt đồi một hố hình phễu khá sâu.
Tôi vào xem hầm ngầm. Nó không phải một công trình phòng ngự chiến đấu, chỉ là một khối gạch đá và xi măng kiên cố được bồi đất dày bên trên, nối với những hào sâu chạy về phía sau, khi ta tiến công thì địch rút vào đây, và dùng pháo bắn bên trên để ngăn chặn. Đường hầm của ta đưa thuốc nổ vào, dài 47 mét, nhưng vân còn cách hấm ngầm địch hơn 30 mét, nói lên trình độ nắm địa hình, xác định vị trí hầm ngầm của ta còn thiếu chính xác. Tuy nhiên, về sau ta biết khối bộc phá trên đồi A1 đã tiêu diệt gần hết một đại đội phòng ngự của địch và tạo ra một cửa mở ở phía đông nam nơi mũi chủ công của ta đánh vào tung thâm.
Từ đỉnh đồi A1, có thể nhìn rõ toàn bộ hình thái của tập đoàn cứ điểm và trận địa chiến hào của ta.
Một công trình lao động khổng lồ bày ra trước mắt. Cơ quan tham mưu ước tính bộ đội ta đã đào khoảng hai trăm kilômét giao thông hào. Đây chính là cải vòng lửa ghê gớm đã thiêu đốt con nhím Điện Bên Phủ. Tôi chợt nghĩ tới một nhiệm vụ của bộ đội, là phải trả lại cánh đồng không còn dây thép gai và mìn cho đồng bào làm mùa, trước khi tiếp tục đi đánh giặc trên những chiến trường khác.
Sau đó, đi thăm sân bay, thăm đồi Độc lập. Từ đồi Độc lập trở về, chúng tôi đi Hồng Cúm. Trên đường, ghé qua bản Long Nhai, nơi bom địch đã tàn sát một lúc mấy trăm đồng bào ta bị chính chúng tập trung ở đây. Xe không thể đi tiếp đến Hông Cúm vì đường hào trục vẫn còn cắt ngang.
Đêm hôm đó, tôi ở lại Điện Biên Phủ trong sở chỉ huy của Đờ Cát, nơi đã trở thành trụ sở của ban tiếp quản.
Niềm vui chiến thắng đã lắng lại. Bao nhịêu đồng chí đã vĩnh viễn nằm lại Him Lam, đồi Độc lập, đồi A1, những đồi C, đồi D...! Những người hầu hết'' còn ở lứa tuổi đôi mươi. Sự hy sinh của các anh không uổng phí.
Các anh đã cho quân xâm lược một bài học nhớ đời! Sau này đọc cuốn sách của một thầy thuốc ở Điện Biên Phủ, tác giả kể lại nhiều binh lính Pháp chết không hề có thương tích. Những gì ta mang lại cho quân địch đã vượt lên sức chịu đựng của những con người không biết mình đang chiến đấu cho ai, chiến đấu để làm gì.