24
Viện bảo tàng- Ông Diệm là người thông ngôn

Người quân sĩ, khi ra trận, có khi thắng khi bại. Thành công mới là đáng kể. Người công chức trong chế độ đã qua, nhục vinh lẫn lộn, và không nên quơ đũa cả nắm. Có cái cũ mới có cái mới, vinh là giữ cho đến già được hai chữ “liêm” “cần”; nhục là lén ăn của đút, làm giàu ngang xương, dẫu không ai biết, còn có lương tâm cấn rứt. Công chức ngày xưa, nay nổi mai chìm, nay thơ thới vinh vang, ăn trên ngồi trốc, chẳng may tham nhũng bị bắt tại trận, mất chức ngồi tù, kẻ nào khéo tu, ăn chắc mặc dày là nổi, không khéo tu, thì chìm luôn trong biển ô nhục mạt kiếp cùn căn. Công chức không nên khinh, và đáng thương hơn là đáng ghét.
Làm công chức lớp xưa, khi giữ tròn được bổn phận, gẫm có chỗ sướng: tuy lương ít ỏi, nhưng vẫn có đều đều, nếu biết liệu cơm gắp mắm, thì khỏi lo như bác nhà nông, nai lưng kệch dầm sương dang nắng mà còn lo hạn hán lụt lội nhiều bề; và vẫn sướng nhiều hơn, chú thương gia, mỗi khi tính sai một con toán hay lầm một chuyến bổ hàng, là có thể tán gia bại sản. Người công chức ngày xưa, sống ở giữa chốn thị thành, khi trẩy Bắc ra làm ở Hà Nội, dinh toàn quyền, khi vào Nam tùng sự nơi dinh thống đốc, nếu có lịnh sai xuống tận Cà Mau thì cũng ở chợ làm nơi dinh quận hay toà bố, không sợ muỗi mòng đỉa vắt, và hưởng đủ mọi thứ phong lưu đời trước, tiệc tùng ăn nhậu, và luôn luôn làm việc nơi bàn giấy, có quạt máy mùa hè trong Nam, và có lò hơ mùa giá rét ngoài Bắc, thương gia hạng trung và điền chủ cỡ nhỏ, làm sao sánh bằng anh công chức cỡ lương bảy tám chục đến một trăm đồng mỗi tháng. Không có cảnh “lặn lội eo sèo” như bà Tú năm xưa nuôi chồng cực khổ, và vẫn ung dung với cảnh “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”, nên có nhiều người chỉ trích. Tôi tả oán mấy câu, rao Nam đôi chặp để vào để thuật chuyện hôm nay, tuy vẫn biết “chuyện thằng tôi là đáng ghét” (le moi est haissable).
Tôi hai lần đã “đụng ông Diệm”. Ngày nay nhắc lại ông, nói rằng “tiếc” thì sẽ có người vọt miệng chửi: “tôi phe Tổng Diệm”, bằng nói “ghét” thì thú thật ông không có làm gì cho tôi có ác cảm, và nên ghét là “thằng đã bỏ chạy” ôm mớ tiền vơ vét cạn kho, bay qua Đài Loan, tên ấy tội đáng chết bằng mười bằng trăm. (Nhưng thiên bất dung gian, chuyện còn dài, hạ hồi phân giải).
Nay xin nhắc chuyện cũ về ông Tổng Diệm. Còn ai hách hơn ông, vào khoảng năm 1960? Thời thế đẩy đưa, ông lên như diều gặp gió. Quyền uy suất sá, bạo lực bao trùm từ vĩ tuyến 17 đến tận mũi Cà Mau. Tổng thống đầu tiên của Việt Nam cộng hoà! Câu “hét ra lửa”.., nơi đây nên dùng một nửa, dùng trọn câu, e ông đỏ mặt!
Ấy thế mà bỗng nhiên, một hôm ông làm thông ngôn cho thằng thơ ký quèn ăn lương công nhựt là tôi, vì vậy cho nên tôi đã hạ câu “làm công chức có khi lại sướng hơn ông Tổng thống!”. Câu chuyện đầu đuôi như sau, xin thong thả để tôi tường tận:
Ngày 17-12-1960, Tổng thống Diệm đón tiếp một ông thượng khách Tàu từ Trung Hoa hải đảo trẩy sang. Hai người vốn quen biết nhau từ buổi ông Ngô xách va li lưu vong thiên địa không nhà. Nay vị thượng khách của ông từ ngàn dặm bay qua đất Sài Gòn để mục kích tận mắt cảnh người vong khách không đất cắm dùi nay bỗng nhiên “bì với vua tuy chưa dám xưa “trẫm”, và cả hai đều rạng mặt.
Ông Tổng nhà tôi, bụng phệ, ôm cái thùng nước lèo “hoài bão quốc gia”.
Ông thượng khách, trái hẳn, mình gầy vóc khô, nhưng thanh tân mỹ mạo.
Cắc cớ thay con Tạo, là hai người bất đồng ngôn ngữ, và cây cầu nối tiếp đôi bên là một tuỳ giá quan cao lớn đẫy đà, mỗi lần chủ khách có dịp trao đổi ý kiến, ông nhà tôi nói tiếng Pháp, ông khách sử dụng rặt giọng Bắc Kinh, và cây cầu “thông dịch” phải nghe tiếng Tây, dịch lại tiếng Tàu, giọng Quan thoại, như vậy chủ và khách mới hiểu được nhau, tôi ở giữa bắt buộc làm nhân chứng bất đắc dĩ, và phải nhìn nhận thuở giờ tôi chưa gặp một ông Ba Tàu nào dùng tiếng Pháp đúng giọng Ba-ri-diên (Parisien) và đúng văn phạm như vị tướng quân thòn-xán (Dường sơn) nầy. (Không biết có phải đó là ông Hồ Liên, sau làm đại sứ bên này chăng?).
Còn ai không biết tính ông Diệm, hễ có dịp thì phô trương thanh thế đến tột cùng, cốt cách thượng thơ cũ triều đình Huế, chưa gột sạch: thôi thì tiền hô hậu ủng, nhà có bao nhiêu sai nha nô dịch, ông dắt hết ra đường: đằng đằng sát khí, đứa chó lửa giật lưng, đứa súng sáu treo đùi, mô tô phạch phạch chạy trước, ô tô bóng loáng theo sau, nghe đồn xe nầy ngồi trong không sợ bị ám sát vì kính che gió đạn bắn không lủng, và bánh lốp ổ ong, dẫu nổ không xẹp v.v...
Hôm ấy ông Diệm đưa ông khách đến viếng thảo cầm viên là một nơi thắng cảnh ông ưng ý nhứt trên đất Sài Gòn nầy. Nực cười tuy ông ưng ý, mà có nhiều người không biết ý ông, nên đã làm cho ông nhiều lần bực tức. Nguyên trước cửa vườn thảo cầm, ngay sân tiền của Viện bảo tàng, từ xưa để lại có trồng hai hàng cây “dái ngựa”, tên gọi chướng tai làm vây vì tới mùa trổ trái, trái vẫn tròn tròn mốc mốc y như hai viên hạ đạn của ngựa không khác.
Một hôm ông vào vườn chơi, hỏi tên, ông quản thủ thảo cầm viên tình thật nói ngay, ông đỏ mặt quở rân “tên không thanh” chút nào. Ông quản thủ sợ quá, hội nhân viên chuyên môn và đề nghị đổi lên mới là cây “nhạc ngựa” (nay còn bảng treo), nhưng quên rằng đã xỏ ông Tổng nhà tôi rất nặng, vì bao giờ nhạc ngựa lại treo lủng lẳng dưới đì? Cũng như trong vườn, hoa thơm thú là không thiếu, có cả chim hạc, chim séo biết nhảy múa theo nhạc điệu du dương, nhưng bộ hạ ông đã xỏ ông nữa, khi dâng lên ông một con “bạch tượng” báo điềm lành, mà con tượng bạch nầy da mốc mốc như đau ghẻ lác chớ không bạch chút nào. Và cũng như ở tận mút vườn, gần sở Ba Son, ông ngoại giao khéo lắm mới đổi được với Phi châu hai con giả nhơn, vóc lớn bằng trẻ lên mười, nhưng cớ chi mỗi lần ông mon men đến gần chuồng để viếng thì vẫn làm trò khỉ tục tĩu trước mặt. Nhưng nói sao hết, ông có tánh bẽn lẽn như gái muốn chồng, từ ngày ông ngự trị Miền Nam, ông nghe đầy lỗ tai những danh từ không thanh tỷ dụ như “dây thúi địt” và cây “cặc chó”, v.v. Ông cố tâm đổi ra cho thanh: Blao làm Bảo Lộc, Djiring làm Dĩ Linh, nhưng bộ hạ ông từng đổi “dây thúi địt” làm “dây mơ tam thể” (vì lá nó xanh tím nhiều màu), nhưng đến danh từ “cây cặc chó”, nhân viên đặc trách ăn đã hao mòn mấy quỹ ngân sách tìm chưa ra danh từ thay thế, thì ông đã hồn quy dị lộ.
Nhắc lại, hôm 17-12-1960, ông bổn thân đưa khách quý dạo chơi viện thảo cầm, hai người dạo khắp đó đây mà trời còn sớm quá chưa tới giờ về dinh ngự thiện, ông bỗng nảy ý cùng với khách đến xem một lần cho biết Viện bảo tàng Sài Gòn, mà ông chưa đặt chân đến lần nào. Khổ nỗi ông không cho tôi hay trước mới chết cha một cửa tứ! Thú thật tôi không phải là một nhân viên gương mẫu, và sở trường của tôi, cũng như của bao công chức khác đồng thời là vô làm trễ, đi về sớm, miễn công việc trôi chạy, để bù trừ những lúc làm thêm giờ bất chấp sớm trưa. Cũng may cho tôi bữa đó, dường như linh ứng mách bảo nên vào giờ ấy, hơn mười một giờ rồi, mà tôi vẫn chưa ra về. Như mọi ngày, tôi ăn mặc rất xoàng xĩnh, một bộ xá-xẩu cụt tay bốn túi, và đang cắm cúi viết viết trong văn phòng. Bỗng cửa phòng mở toát nghe một cái rốt. Ông tổng giám đốc cảnh sát, ông Nguyễn Văn Là bằng xương bằng thịt, đứng tần ngần trước mặt, dõng dạc hô to như giữa trận tiền: “Có Tổng thống viếng Viện bảo tàng! Mời giám đốc theo tôi ra rước!”
Thoạt nghe mấy tiếng, tôi quăng viết, ba chân bốn cẳng, vội chạy một hơi bám sát gót ông Là, hồn vía cũng chạy theo. Vả lại Viện bảo tàng vốn rộng thênh thang như nhà lồng chợ, hai tôi bắt từ văn phòng chạy một mạch đến chỗ ông Tổng thống và các quan khách đứng chờ thì đã gần hụt hơi. Lúc ấy đồng hồ điểm mười một giờ rưỡi trưa. Phái đoàn hiện đã qua khỏi cửa đại môn, lướt qua khỏi phòng mỹ thuật Chàm, và đang đứng ngắm nghía chuyện trò nơi phòng mỹ thuật Cơ-me. Ông Diệm vốn có tánh khó, cấm gọi ông bằng Cụ bằng ông, và chỉ ưng gọi ông trống trơ “Tổng thống”. Nhớ được điều đó, tôi đứng thẳng người, ngó ngay mặt ông, cung kính thưa một hơi không kịp thở:
- Kính thưa Tổng thống, Tổng thống đến quá đỗi thình lình, và vì không hay trước nên tôi không kịp mặc đúng lễ, và đã không kịp ra nghinh tiếp Tổng thống tận cửa viện như lòng mong muốn, xin Tổng thống lượng xét cho.
Nói xong câu ấy, biết rằng mình dối lòng mình vì câu nói gượng ép không tự nhiên, tôi đứng trân nín thở, không khác anh binh nhì đứng trước ông tướng ba bốn ngôi sao. Ông Diệm day mặt lại, nhìn tôi từ đầu chí gót, lấy cây ba-ton nhịp nhịp vào sân gạch, tôi lúc ấy cũng trộm nhìn ông, thấy mặt ông tươi rói, hồng hào như bao nhiêu gương mặt kẻ đắc thời ăn no ngủ kỹ, bỗng ông sầm nét mặt lại... Cặp mắt ông dường như muốn xẹt lửa, cặp chân mày đen đậm lông dài và dày khít, bỗng nhíu lại như báo tin một cuộc sấm sét bất ngờ, rồi bỗng tan ra như mây bị gió tạt. Ông day lại ngó vị tân khách, ông nghĩ ngợi về câu tôi tự bào chữa, ông không gật đầu cũng không bắt tay. Ông ngó lại tôi một lần nữa, phen nầy từ gót chi tóc... Tôi đứng thẳng lưng chờ đổ trận lôi đình. Ông không thốt lời nào, thì xin cho tôi suy nghĩ trộm: ông không chào, tôi không lấy làm lạ. Trong bụng tôi xét, giữa ông và tôi, vả chăng giai cấp và quan niệm rất cách biệt. Ông làm Tổng thống, ông nhờ. Tôi sở dĩ vô làm đây là vì vấn đề cơm áo thê nhi, cũng không phải ăn mày của ai mà phải khúm núm. Giữa ông và tôi, xa cách đến quăng mười lăm bã trầu chưa tới, tôi đâu có đèo bòng cái bắt tay chào. Nó có ích lợi no béo gì cho tôi, rủi gặp tay nhớt, tay mồ hôi bịnh phong thấp lại càng thêm gớm. Thà đừng ngoài mặt làm bộ xã giao mơn trớn, rồi lát nữa ông lên mặt chủ, là đủ tôi cám ơn ông nhiều. Tôi đoán chừng ông nhìn thấy tôi ăn mặc quá lèn xèn, ông lấy đó mắc cỡ hộ với ông khách thượng lân: “Nước Việt Nam tiếng rằng giàu có, có một thằng quản thủ Viện bảo tàng quá nghèo hèn!” Hay là đã có người “tâu” lên với ông, lên tôi là thế thế, lỡ Tàu lỡ Việt, rồi không khinh thầm? Ông có tiếng là người thuần tuý, chuộng thích những danh từ cho thật êm tai, những tên ngọt lịm: Chánh Thành hoặc Đình Thuần? Trung Dung? Nhưng Dung lỡ Dung, Thành chẳng Thành, ông giận đứng trước một người có tên xấu xí. Câu tôi vừa thốt là thành thực tạ lỗi, giọng thiết tha thẳng thắn, ông bắt tôi đợi một giây lâu. Sau rốt, cơn chuyển mưa vừa vần vũ kế gió đánh mây bay mất, ông khệ nệ ban cho hai chữ “Thôi được!” rồi ông lê cây gậy cù nèo và nơ cái bụng nước lèo bước tới, hai hàng chân vịt xàng xê, họ Tạ trong tuồng San Hậu! Trong lúc ông xê dịch, sau trước có tiền hô hậu ủng: nào cảnh sát chìm cảnh sát nổi, thám tử, mật quân, chúng bao vây ông chật phòng; trong lúc ấy tôi là quản thủ Viện bảo tàng, đã có mấy ông Phật Miên bằng đá chở che. Nhờ Trời Phật câu nói của tôi ban nãy làm tan cơn sấm sét. Tôi vẫn thấy và phục ông là con người khá, nhơn chi sơ tánh bản thiện; tự nhiên tôi có thiện cảm, càng thương ông sau nầy bị nịnh xỏ mũi mà hư cơ đồ, đến nỗi luỵ thân, (nhưng sau nầy khi đọc công văn thấy anh em ông ẵm bao vàng trên năm chục ký mà ngao ngán bất cứ ai, lòng tham không đáy).
Nhắc lại, hai tiếng ông ban ra “Thôi được!” đã làm cho tôi hoàn hồn, nhưng cũng vì đó, cái tánh châm biếm cũng lót tót trở lại: chứng nào tật nấy! Tôi vừa nối gót theo chân ông, bụng vừa suy nghĩ: “Có đời nào tôi được như hôm nay, đi đứng gần ông chỉ cách không hơn một thước! Mẽ! Lạ nầy? Cớ sao tóc ông để quá dài, không hớt? Ô, tội nghiệp quá, vì ông làm việc quá nhiều, đến không có thì giờ ngồi cho thợ con nó tỉa bớt để tóc tai bùm sùm như đám hippy già. Ủa? Mà ông tuy ăn sung mặc sướng, mà đã có vài sợi tóc bạc mọc dưới gáy đâm lún phún như râu chú giám? Ông đáng thương thật! Thân không vợ không con, sống không đủ thì giờ hớt tóc. Làm Tổng thống coi vậy mà cực quá, có sướng ích gì? Uý nè? Trời hỡi trời? Ông bôn ba hải ngoại mấy năm trời, mà làm sao ai giữ được cho ông, bộ tussor ông mặc, may ki!!!8305_29.htm!!! Đã xem 115313 lần.

Đánh máy: MHN
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội)
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 27 tháng 8 năm 2007