Hơi đâu mà cứ miêu tả mãi cảnh sinh hoạt nghèo nàn và thấp kém của dân ta, đào bới những nhân vật này nọ ra từ những xó xỉnh hẻo lánh, từ những nơi thâm sơn, cùng cốc? Biết làm thế nào được nếu bản tính tác giả vốn dĩ như vậy, và vì tác giả có ý thức bệnh hoạn về sự kém cỏi của mình, cho nên không dám miêu tả gì hơn là những khía cạnh đáng buồn của cuộc đời và những con người sống ở tỉnh xép như một cái hang? Và đây, chúng ta lại ghé vào một xó xỉnh hẻo lánh, chúng ta lại gặp một nơi thâm sơn, cùng cốc rồi. Nhưng xó này, nơi này cũng mới đáng chú ý làm sao! Như bức trường thành đồ sộ của một đồn lũy khổng lồ có nhiều góc nhọn, có cửa để súng, một dãy đồi chạy ngoằn ngoèo kéo dài trên nghìn dặm. Nó oai nghiêm mọc lên, sừng sững trên những cánh đồng bao la, khi thì là một sườn núi thẳng đứng bằng đá vôi pha sét, chằng chịt những lỗ khoét và những hố đào; khi thì lại là một quả đồi cỏ xanh ngoạn mục, phủ những bụi cây rậm như một lớp lông cừu; lại có khi đó là những khu rừng sum suê do một sự may mắn kỳ dị nào đã thoát khỏi những nhát rìu của tiều phu. Đôi khi một dòng sông men theo chân dãy đồi, uốn khúc theo từng chặng lồi lõm, hoặc lảng xa ra phía các đồng cỏ, lượn quanh một lúc, rồi mất hút trong các khóm cây trăn, cây bạch dương, cây hoàn diệp liễu; đoạn đắc thắng thoát ra cùng với những cầu, những cối xay nước, những đập, có vẻ như cùng chạy trốn với sông qua những đoạn rẽ ngoặt. Ở một nơi nào đấy, trên sườn đồi dốc đứng, cây cối xanh tươi lại càng thêm rậm rạp. Nhờ có tay người trồng trọt thêm và do sự chênh lệch về độ cao, các loài thực vật phương Bắc và phương Nam đã tập hợp lại cùng một chỗ. Cây sồi, cây thông, cây lê dại, cây bạch dương, cây anh đào, cây mận hoang, cây kim tước, cây thanh lương trà chéo cành với cây hốt bố, khi thì nâng đỡ nhau cùng lớn, khi thì lại lấn át lẫn nhau, mọc khắp sườn đồi từ trên xuống dưới. Trên đỉnh đồi, giữa các ngọn cây xanh um, hiện ra những công trình kiến trúc phía trên của một dinh cơ: những chiếc mái đỏ của nhà gia nhân, nóc của những izba lẫn ở đằng sau, tầng gác thượng được trang hoàng một cái bao lơn chạm trổ và một khung cửa sổ lớn phía trên xây hình bán nguyệt. Nổi hẳn lên trên đám cây cối và các mái nhà ấy là một ngôi nhà thờ cũ kỹ, mộc mạc và năm cái nóc củ hành thiếp vàng đều óng ánh lên. Trên mỗi nóc đều có một chiếc thập tự bằng vàng chạm thủng, buộc bằng những sợi xích vàng, đứng xa mà nhìn có thể ngỡ là những đồng tiền vàng lấp lánh treo lơ lửng trên không. Ngọn cây, mái nhà, thánh giá đều duyên dáng hắt ngược hình bóng xuống dòng sông; mấy cây thùy dương thân rỗng và quặt quẹo; cây thì mọc trên bờ, cây thì lẩn lá cành vào những đám bọt đá nhầy nhụa nổi lên lều bều giữa mấy khóm sen vàng, như đang chiêm ngưỡng bức tranh thần diệu ấy. Đứng trên bao lơn mà ngắm, phong cảnh còn đẹp gấp bội và chẳng ai là người có thể dửng dưng được. Khách kinh ngạc đến nghẹn thở; họ chỉ có thể kêu lên: “Trời ơi, cảnh đẹp quá!” - Tầm mắt bao quát những khoảng không vô tận; bên kia các cánh đồng cỏ lác đác điểm những khóm cây và những cối xay, có mấy khu rừng phô màu xanh biếc; xa hơn nữa, qua làn không khí đã mờ hơi sương, thấp thoáng những dải cát vàng; rồi lại những khu rừng, nhưng lần này lại là màu lam mờ như màu biển hay như một làn sương mù xa xa, rồi lại đến những dải cát màu vàng nhạt. Tận cuối chân trời, dựng lên những đỉnh đồi đá vôi dù trời xấu vẫn giữ một màu trắng muốt, tưởng chừng vĩnh viễn tắm mình trong một ánh nắng không bao giờ tắt. Trên cái nền sáng loáng ấy, thấp thoáng những vết nho nhỏ màu lam tối. Đó là những khóm làng xa xa; nhưng mắt không còn trông thấy rõ được nữa. Chỉ thấy cái tháp mạ vàng của giáo đường đang lung linh trong nắng, cho hay rằng nơi ấy có một thị trấn khá lớn. Trên khắp cảnh vật ấy là một sự tĩnh mịch thâm ảo, mà ngay đến tiếng hót khe khẽ chỉ vừa đủ nghe của mấy con chim, gần như mất hút trong không gian, cũng không hề phá rối. Tóm lại là sau hai giờ ngắm cảnh trên bao lơn, khách chỉ còn biết thốt lên: “- Trời ơi, cảnh đẹp quá!” Thế thì ai là kẻ cư trú trong cái dinh cơ tựa hồ một pháo đài kiên cố, chỉ có thể đi vào bằng phía đối diện với phía chúng ta vừa tả này? Phía ấy, những cây sồi rải rác, thân mật chào đón khách đến thăm, những cành lá sum xuê vươn ra như để ôm lấy khách; chúng đưa chân khách cho đến tận tòa nhà ở mà chúng ta vừa ngắm phần trên từ phía sau. Bấy giờ tòa nhà sừng sững trước mặt ta; một bên là dãy nhà gỗ của nông dân với những đầu hồi chạm trổ, bên kia là ngôi nhà thờ với những cây thánh giá và những sợi dây chuyền bằng vàng lấp lánh. Ai là kẻ có diễm phúc có được quyền sở hữu nơi cư trú này? Đó là một trang chủ ở huyện Trêmalkhan tên là Anđrêi Ivannôvits Tentietnikôp, ba mươi ba tuổi, chưa vợ. Nhân vật này ra sao, tính khí thế nào? Thưa các nữ độc giả, xin cứ hỏi các bạn láng giềng của chàng thì rõ. Một trong những ông bạn láng giềng đó, thuộc cái hạng sĩ quan cao cấp về hưu, vui nhộn và láu lỉnh mà nay đã có chiều muốn tuyệt diệt; thường nói về chàng như sau: - Một thằng súc sinh thực sự! Một viên tướng ở cách đấy mười dặm nói: - Cái anh chàng ấy không đến nỗi ngu, nhưng hắn lắm tham vọng quá. Giá hắn cậy tôi thì hơn, tôi không thiếu gì vây cánh ở Pêterbua, và ngay ở… - viên tướng không nói hết câu. Viên đại úy quận trưởng cảnh sát thì trả lời như sau: - Cấp bậc của hắn xoàng xĩnh lắm; mai ta phải đến truy thu số thuế mới được! Thật vô tư mà nói thì chàng ta chẳng phải là người ác, chỉ có điều là một người mộng tưởng viển vông. Trên đời này không thiếu gì những kẻ sống lay lắt như thế; vậy thì tại sao mà Tentietnikôp lại không sống như thế? Vả chăng, đây cứ xin kể hú họa một ngày của chàng làm dẫn chứng; như thế bạn đọc sẽ có thể đánh giá được tình hình chàng và đoán xem sinh hoạt của chàng có xứng với những quang cảnh mỹ lệ bao quanh chàng không. Buổi sáng chàng thức giấc khá muộn. Chàng ngồi dậy và bắt đầu dụi mắt. Vì chẳng may mắt chàng nhỏ, cho nên thủ thuật này kéo dài khá lâu; trong khi đó, anh đày tớ Mikhailô đứng đợi ở ngoài cửa với một thùng nước và một chiếc khăn mặt. Cái anh Mikhailô tội nghiệp ấy đứng như thế một giờ, hai giờ, đi một vòng ra sau bếp; và khi anh trở lại, ông chủ vẫn còn ngồi dụi mắt như cũ. Mãi sau, Tentietnikôp mới đứng dậy, rửa mặt và mặc áo choàng ngủ ra phòng khách dùng trà, cà phê, ca cao và cả sữa tươi còn nóng nữa; chàng nhấm nháp mỗi thứ một tí, bẻ vụn bánh mỳ ra một cách không thương tiếc và làm tàn thuốc lá trong chiếc tẩu bắn tung tóe khắp nhà. Hai giờ trôi qua như thế. Chưa hài lòng, chàng rót cho mình một tách trà nguội nữa, đến ngồi ở khung cửa sổ trông ra sân mà uống; và ngày nào cũng chứng kiến cái cảnh sau đây. Grigôri, anh người nhà giữ nhiệm vụ trông coi đồ gia dụng, quát bà quản gia Perfiliepna, lời lẽ đại khái như sau: - Mụ có im đi không, đồ ăn cắp, đồ mặt dầy! - Gớm chửa! “Đồ mặt dầy”; tức thị Perfiliepna, bĩu môi, quát lại. Bà ta là người cung cách thô lỗ; tuy rất ham nho khô, mứt quả và các thứ của ngọt khác mà bà cất trong buồng khóa kỹ. - Mụ lại còn gây chuyện cả với bác quản lý nữa, đồ ăn hại! Grigôri hét lên. - Lão quản lý cũng một phường trộm cắp như mày. Mày tưởng ông chủ không biết tỏng bụng dạ chúng mày phỏng? Ông kia kìa, ông nghe rõ hết. - Ông ở đâu nào? - Ông ngồi bên cửa sổ kia kìa, ông trông thấy hết. Quả nhiên, ông chủ đang ngồi bên cửa sổ và trông thấy hết. Để tăng thêm cảnh huyên náo, một thằng nhóc bị mẹ đét vào mông gân cổ lên gào; một con chó borzôi ngồi xổm dưới đất tru tréo lên vì bị anh đầu bếp hắt nước sôi phải. Nói tóm lại, thật là một cảnh ầm ĩ khủng khiếp, không sao chịu nổi. Ông chủ nghe và thấy hết. Và mãi cho đến khi tiếng ồn ào quấy rầy đến mức có thể xúc phạm đến phút rỗi rãi êm đềm của chàng, chàng mới cho người ra bảo họ chịu khó làm ồn in ít một chút. Hai giờ trước bữa ăn trưa, chàng lui về phòng giấy để chăm chỉ tiếp tục một công trình nghiên cứu bao quát toàn thể nước Nga về mọi phương diện: công dân, chính trị, tôn giáo, triết học; xác định cái tương lai vĩ đại của nước Nga, giải quyết những vấn đề thời sự khó khăn; tất cả những việc ấy đều làm với cái cung cách và dưới cái hình thức mà những người sống cùng thời với chúng ta vẫn ưa chuộng. Vả chăng cái công trình vĩ đại này hãy còn ở tình trạng dự định mà thôi. Tentietnikôp gặm bút, vẽ hình này hình nọ lên giấy, rồi bút lẫn giấy đều bị gạt sang một bên, nhường chỗ cho một cuốn sách mà Tentietnikôp đọc mãi cho đến bữa ăn trưa, không rời tay. Chàng đọc trong khi người nhà dọn xúp, dọn món khai vị, món rô ti và ngay cả món tráng miệng cũng thế; thành thử có mấy món bị để nguội và có mấy món dọn ra thế nào thì khi bưng đi vẫn còn nguyên thế ấy. Rồi đến tách cà phê và chiếc tẩu, bàn cờ tướng đánh một mình. Sau đó chàng làm những gì trước khi ăn tối? Tôi cũng khó lòng mà nói được; nhưng tôi có cảm tưởng là chẳng làm gì sốt. Đó là cách tiêu dao ngày tháng của một thanh niên ba mươi ba tuổi, sống trong cảnh cô độc hoàn toàn. Không hề bước chân ra khỏi nhà, mình mặc áo choàng ngủ, không cà vạt. Chàng không đi dạo, cũng chẳng buồn lên gác hai, chẳng buồn mở cửa sổ cho thoáng; và cái phong cảnh tráng lệ vốn chẳng để ai có thể dửng dưng kia, dường như không hề tồn tại đối với chủ nhân. Như ta đều thấy, Ađrêi Ivannôvits Tentietnikôp thuộc một hạng người đang sắp tuyệt diệt ở Nga. Trước kia, người ta gọi họ là cốc đế, là cù lì; nhưng ngày nay thì tôi chẳng biết gọi là gì. Những tính cách ấy có phải thiên bẩm không, hay đã sinh ra do những hoàn cảnh đáng buồn thường đã nhào nặn con người một cách thật là phũ phàng. Thôi, hẵng khoan trả lời một cách thật là phũ phàng. Thôi, hẵng khoan trả lời câu hỏi đó đã; tốt hơn là hãy kể lại thời thơ ấu và quá trình ăn học của chàng {Gôgôn rất quan tâm đến vấn đề giáo dục và đã hai lần làm nghề dạy học: năm 1831 làm giáo sư sử học ở Học viện ái quốc cho nữ sinh, năm 1834 làm phụ giảng môn lịch sử Trung cổ thế giới ở trường Đại học Pêterbua}. Hình như mọi việc đều góp sức làm cho chàng nên người. Hồi mới mười hai tuổi, chàng là một cậu bé nhanh trí, vừa mơ mộng, vừa ốm yếu, được gửi vào một trường học do một con người xuất chúng điều khiển. Là một thần tượng của giới thanh niên, là mẫu mực của các nhà mô phạm, ông Alexanđr Pêtrôvits vô giá ấy, vốn có cái tài thấu hiểu được bản chất con người. Ông ta am hiểu tính cách Nga và tâm hồn trẻ biết chừng nào! Ông ta biết khích lệ chúng tài tình làm sao! Không có một ông tướng nghịch nào mà sau khi làm điều dại dột là không đến thú hết tội với ông. Hơn nữa, gặp ông xong, chúng ra về lòng tràn đầy phấn khởi, chỉ mong lập công chuộc tội. Ngay đến những lời quở trách của Alexanđr Pêtrôvits cũng có một cái gì khích lệ lòng người; ông ta gọi tham vọng là động cơ của các năng khiếu, cho nên ông cố gắng kích thích nó. Với ông ta thì đừng nói chuyện hạnh kiểm làm gì, ông ta thường nói: “- Tôi đòi hỏi trí thông minh, chứ không cần gì khác. Ai mơ ước làm người thông minh thì không có thì giờ làm điều ngu xuẩn; những việc ngu xuẩn phải tự mất đi”. Quả đúng như thế. Đứa trẻ nào không cố gắng tự sửa chữa thì sẽ bị bạn bè khinh rẻ. Những đứa ngu dốt và đần độn phải chịu nhận những biệt hiệu hết sức nhục nhã mà các bạn ít tuổi nhất đặt cho, không dám động đến lỗ chân lông của chúng. - Ông làm thế khí quá đấy! - Có nhiều người bắt bẻ - những đứa có thiên tư rồi trở nên láo xược mất. - Không đâu, ông đáp; tôi không giữ lâu những đứa trẻ không có thiên tư, chúng chỉ cần theo một lớp là đủ; còn đối với bọn học trò giỏi, tôi có một lớp bổ túc. Thật vậy, tất cả các trẻ có thiên tư đều theo lớp này. Mọi ý nghĩ của chúng, dù nhỏ nhặt đến đâu, ông cũng đều biết rõ; ông có vẻ như chẳng trông thấy gì hết; nhưng tựa hồ một pháp sư nấp trong một chỗ ẩn bí mật, ông quan sát những năng khiếu và thiên hướng của chúng. Có khá nhiều hành động láu táu không bị ông trấn áp, vì ông cho đó là mầm mống của những đức tính đang phát triển; nhưng ông nói rằng ông cần đến những hành động ấy cũng như người thầy thuốc cần đến một mụn lở, để biết đúng bên trong của con người. Các học sinh mới quý ông làm sao! Không, thật không bao giờ trẻ lại quyến luyến cha mẹ chúng đến thế! Không, ngay trong những năm phóng đãng điên cuồng, cũng không thể có được một tình cảm bồng bột như tình cảm ông gây nên trong lòng học sinh! Cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, cứ hàng năm, người học trò sẽ nâng cốc tưởng niệm ngày giỗ của ông thầy vô song đó, con người đã từ lâu nằm dưới đáy mộ… họ sẽ nhắm mắt lại và nhớ tiếc hương hồn thầy… Mỗi lời khích lệ nhỏ nhặt nhất của thầy cũng khiến lòng họ vui mừng xúc động, những muốn vượt hết các bạn bè. Ông ta cho rằng có rất nhiều tri thức vô ích và có thể cản trở sự phát triển nội tại của trí thông minh. Ngược lại, ông dành rất nhiều thì giờ cho những công việc tay chân ở ngoài trời, nhằm tôi luyện cho thân thể cường tráng. Những trẻ ít năng khiếu không học với ông được bao lâu; ông có một khóa học tắt cho chúng; nhưng những đứa khác thì phải theo một chương trình nặng gấp đôi. Và khóa học cuối cùng dành cho học sinh ưu tú chẳng có chút gì giống với các tổ chức tương tự. Chỉ ở lớp này ông mới đòi hỏi ở học sinh tất cả những điều mà một số người khác vẫn nhất loạt đòi hỏi ở trẻ em, không hề suy xét; cái trí tuệ siêu quần không bao giờ thèm chế nhạo, nhưng lại biết chịu đựng những lời chế nhạo, biết tỏ ra khoan dung đối với bọn ngu ngốc. Không nổi cáu, không bao giờ trả thù, mà luôn giữ thái độ điềm tĩnh đầy tự hào của một tâm hồn bình thản, ông vận dụng tất cả những gì có thể làm cho học trò ông có được tính trượng phu, và không ngớt làm những cuộc thí nghiệm với họ. Chao ôi! Ông ta am hiểu khoa học và cuộc đời biết chừng nào! Số giáo viên làm việc với ông rất ít, và phần nhiều các môn học đều do ông dạy lấy. Không dùng những từ ngữ cầu kỳ, không đưa ra những lời biện luận khoa trương; ông biết cách truyền đạt cái linh hồn của một ngành khoa học và làm cho các học viên, dù nhỏ tuổi cũng hiểu được sự bổ ích của nó. Vả chăng ông chỉ dạy những khoa học có thể đào tạo được những người công dân. Một phần lớn các buổi học của ông dành để kể cho học trò nghe những gì đang đợi họ khi họ rời ghế nhà trường; ông mô tả sự nghiệp tương lai của họ một cách hay ho đến nỗi chưa chi họ đã tưởng tượng thấy mình đang sống trong sự nghiệp đó. Ông không che giấu gì hết. Ông trình bày hết sức thẳng thắn những nỗi thất vọng, những trở ngại, những sự cám dỗ, những cạm bẫy đang mai phục họ. Ông biết rõ hết, và có thể tưởng chừng như ông đã trải qua đủ các nghề nghiệp, đủ các chức vụ. Không biết có phải vì một tham vọng sớm nẩy nở, hay vì ngay đôi mắt của nhà giáo dục vô song ấy cũng như đang nói với các thính giả: Tiến lên! Một câu nói quen thuộc đối với người Nga và có khả năng thực hiện những điều kỳ diệu trong cái tâm hồn nhạy cảm của họ? Dù thế nào chăng nữa, thì ngay từ những bước đầu trên con đường sự nghiệp, các môn đệ của ông đều chỉ xăm xăm tìm những sự khó khăn, nóng lòng muốn ra tay hành động ở nơi nào đầy những trở ngại, ở nơi nào cần tỏ rõ một chí khí phi thường. Học trò của ông đào tạo rất ít; nhưng toàn là những nhân cách có thể chịu đựng mọi thử thách. Ở những chức vụ bấp bênh nhất, họ cũng giữ vững được tiết tháo; trong khi những kẻ khác có tư chất hơn, lại nản chí, buông xuôi tất cả, vì những trở ngại vụn vặt, hoặc giả rơi vào trạng thái dửng dưng, lười biếng, trở thành mồi ngon của bọn bịp bợm và bọn ăn hối lộ. Còn như họ thì vẫn không hề nao núng; được những khó khăn tôi luyện, họ có ảnh hưởng mạnh mẽ ngay cả đối với những kẻ có tâm địa xấu xa nhất. Ông thầy lỗi lạc ấy đã khiến Anđrêi Ivannôvits phải hân hoan, sùng mộ biết nhường nào! Chỉ nghĩ rằng mình có thể được theo học lớp cao nhất thôi, quả tim đầy nhiệt huyết của cậu bé giàu tham vọng đã đập rộn ràng; cho nên năm mười sáu tuổi, khi đã vượt qua chúng bạn và được xét là xứng đáng được nhận vào lớp này, Tentietnikôp không dám tin rằng mình lại có cái diễm phúc đó. Liệu có thể tìm đâu ra một người giáo dục hơn thế cho chàng thiếu niên của chúng ta? Thế nhưng đến khi chàng được thấy ước vọng tha thiết nhất của mình sắp thành sự thực, thì nhà giáo dục vô song kia - người mà chỉ cần khen một câu chàng cũng đã bồi hồi xúc động - lại lâm bệnh và ít lâu sau thì qua đời. Anđrêi Ivannôvits chết điếng đi được. Thật là một tổn thất kinh khủng, tổn thất đầu tiên trong đời Anđrêi Ivannôvits. Trong trường mọi sự đều thay đổi. Kẻ kế tục Alexanđr Pêtrôvits là một ông Fiôđô Ivannôvits nào đấy, một người phúc hậu và nhiệt thành, nhưng đầu óc đầy những tư tưởng khác hẳn. Thoạt tiên ông ta ấn định ra những quy tắc bề ngoài, bắt các học sinh tuyệt đối im lặng và lúc nào cũng phải đi từng đôi một; ông ta thân hành đo khoảng cách giữa từng đôi. Khi ngồi ăn, ông ta xếp học sinh ngồi theo vóc người cao thấp, chứ không phải theo mức độ thông minh; thành thử những miếng ngon, miếng bổ đều được dành cho bọn dốt đặc; còn các học sinh ưu tú thì chỉ được gặm xương. Những việc đó gây nên những tiếng xì xào bất mãn, nhất là khi ông giám đốc mới, như để thách thức người cũ, tuyên bố rằng dưới ánh mắt ông ta thì trí thông minh và những bước tiến trong học tập không đáng kể, rằng ông ta chỉ coi trọng hạnh kiểm mà thôi, rằng nếu có một học sinh nào học dốt nhưng hạnh kiểm tốt, thì ông còn thích hơn là một học sinh có thiên tư xuất chúng. Nhưng Fiôđô Ivannôvits không làm cho học sinh có hạnh kiểm tốt được. Bọn trẻ bắt đầu nghịch ngầm. Ban ngày thì nề nếp đâu đấy, nhưng đêm đến là nghịch vỡ trời. Trong lớp cao nhất, mọi thứ cũng đều bị ông ta đảo lộn lên cả. Với những ý định rất tốt, ông ta đưa vào một mớ những cải cách tai hại. Ông ta mời thêm thầy giáo có những tư tưởng và quan niệm mới. Họ trút tới tấp lên đầu thính giả cả một mớ danh từ lạ tai, họ tỏ ra thông hiểu những học thuyết mới mẻ nhất, trình bày những học thuyết ấy một cách rất minh xác và nhiệt thành; nhưng hỡi ôi! Khoa học của họ thiếu hẳn sự sống và vẫn chỉ là một mớ từ ngữ chết. Nói tóm lại, mọi việc đều rối tung lên. Lòng tôn kính không còn nữa; người ta bắt đầu giễu cợt các giáo sư, gọi ông giám đốc là ma bùn. Sự lăng loàn vượt ra ngoài phạm vi trẻ con; đã xảy ra những chuyện xấu xa khiến người ta phải đuổi một số học sinh rất đông. Hai năm sau, không còn nhận ra nhà trường được nữa. Anđrêi Ivannôvits tính vốn hiền lành. Chàng không bị thu hút vào những cuộc truy hoan ban đêm của các bạn, đã từng gạ gẫm một thiếu phụ ngay dưới cửa sổ của ông giám đốc; cũng không bị lôi cuốn theo những lời báng bổ mà họ dùng để giễu cợt tôn giáo, chỉ vì ông linh mục thường đến làm lễ không được thông minh cho lắm. Không, linh hồn Anđrêi Ivannôvits, dù chưa được thức tỉnh, cũng cảm biết được cái cội nguồn thiên giới của nó. Duy có điều là chàng nản chí. Tham vọng của chàng đã được kích thích, nhưng không tìm được lối thoát trong một sự nghiệp nào; giá đừng có thức tỉnh cái tham vọng ấy còn hơn. Chàng nghe các giáo sư hăng hái thuyết lý trên bục và hồi tưởng đến ông thầy cũ vốn không hề mất sự điều độ, mà biết nói năng một cách dễ hiểu. Chàng phải hấp thụ bao nhiêu môn học! Y học, hóa học, triết học, luật học và môn sử thế giới được giảng với một quy mô rộng lớn đến nỗi trong ba năm mà giáo sư chỉ mới giảng xong phần dẫn luận, và trình bày quá trình phát triển của các công xã trong một số thành phố Đức {Gôgôn rất thiết tha với sử học; đầu những năm 30, Gôgôn dự định viết một bộ lịch sử thế giới, vì theo lời nhà văn “Không những ở Nga, mà ngay cả ở châu Âu nữa, cũng chưa có một hình thức lịch sử thế giới nào chân chính”. Dạy lịch sử thế giới ở trường Đại học Pêterbua, Gôgôn gặp ban giám đốc trường không cùng quan điểm với mình; nên mới một năm đã từ giã ngành sử học cũng như nghề dạy học}. Có trời biết được chàng đã phải ngốn những gì! Nhưng tất cả những thứ đó có còn lại trong đầu chàng cũng chỉ là những mảnh vụn chẳng thành hình dạng gì cả. Nhờ có tư chất thông minh, chàng cảm thấy rằng lẽ ra không nên giảng dạy như thế; nhưng chàng cũng không hiểu rõ cho lắm thế nào mới là phương pháp giảng dạy tốt. Chàng thường hay nhớ lại Anđrêi Ivannôvits và thấy lòng buồn rười rượi, đến nỗi không biết trốn vào đâu cho khuây khỏa. Nhưng tương lai thuộc về chàng, và chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ đem lại hạnh phúc cho tuổi thanh xuân của chàng rồi. Càng gần đến ngày mãn khóa, lòng Anđrêi Ivannôvits càng xao xuyến. Chàng tự nhủ: “- Đây chưa phải là cuộc đời, đây chỉ là bước chuẩn bị; cuộc đời thực sự sẽ bắt đầu từ khi nào ta phụng sự Quốc gia; và đến lúc ấy ta sẽ có dịp tỏ ra xuất sắc”. Anđrêi Ivannôvits không buồn đoái nhìn đến cái phong cảnh vẫn khiến cho khách đến đây đều phải bàng hoàng, ngây ngất; thậm chí chàng cũng không nghiêng mình trước mộ hai cụ thân sinh. Cũng như tất cả những kẻ giầu tham vọng khác, chàng lập tức đi Pêterbua, nơi mà, như ai nấy đều biết, giới thanh niên đầy nhiệt huyết của chúng ta, từ khắp các nơi trên nước Nga, đổ xô về để phụng sự, để tìm công danh, để xô đẩy, chen lấn nhau, hay chẳng qua chỉ để có được một lớp sơn hào nhoáng của cái vốn lịch duyệt kia, cái thứ lịch duyệt nhạt nhẽo, dối trá, lạnh lùng như băng giá. Nhưng ngay từ đầu, khát vọng nhiệt thành của Anđrêi Ivannôvits đã bị ông chú là Ônufri Ivannôvits, tư vấn quốc gia thực thụ {Chức quan văn bậc thứ tư, ngang hàng với chức thiếu tướng} dội cho một gáo nước lạnh. Ông chú nọ tuyên bố rằng cái chính là chữ phải viết cho tốt, bằng không thì đừng hòng làm bộ trưởng hay chính khách gì cả. Chật vật lắm, nhờ có sự che chở của ông chú, rốt cục chàng thanh niên mới kiếm được chỗ làm trong một bộ. Người ta đưa Anđrêi Ivannôvits vào một gian phòng lộng lẫy sàn gỗ đánh xi, bàn giấy sơn bóng lộ, chắc là nơi các vị đại thần trong triều ngồi tham nghị; nhưng liền lúc ấy Anđrêi Ivannôvits trông thấy một đoàn người ăn mặc trang nhã đang nghiêng đầu viết hí hoáy, bút lông ngỗng kêu xoèn xoẹt; và khi người ta đưa người mới nhận việc đến một cái bàn, bảo chép - cứ như là cố ý vậy - một tờ giấy chẳng có chút gì quan trọng (một tờ công văn về một khoản tiền ba rúp, trao đi gửi lại đã sáu tháng rồi), thì một cảm giác lạ lùng tràn vào lòng người công chức trẻ tuổi. Chàng ngỡ mình đang ngồi trong một nhà trường, tiếp tục học lại; vì một lỗi lầm gì đấy, người ta đã bắt chàng tụt một lớp. Những nhân vật ngồi xung quanh, Anđrêi Ivannôvits thấy giống như những cậu học trò! Để cho sự giống nhau được trọn vẹn, có một vài người đút một quyển tiểu thuyết dịch ngu xuẩn nào đó vào giữa các tờ công văn để đọc trộm, bề ngoài làm ra vẻ như đang mải mê làm việc; và hễ ông thủ trưởng xuất hiện, lại giật mình đánh thót một cái. Tất cả những cái đó gây nên trong lòng Anđrêi Ivannôvits một ấn tượng thật là kỳ quặc, chàng cảm thấy những việc làm trước kia của mình nghiêm túc hơn thế, và công việc chuẩn bị cho cuộc đời công chức còn thú vị hơn chính cuộc đời công chức {Đây có lẽ là cảm tưởng thực sự của Gôgôn, thuở đi làm công chức ở bộ Thái ấp}. Chàng đâm ra tiếc trường học. Hình ảnh Anđrêi Ivannôvits bỗng hiện lên trước mặt chàng, như lúc sinh thời; và chàng chật vật lắm mới nén nổi nước mắt. Căn phòng, lũ công chức, bàn ghế, mọi vật đều quay cuồng trước mắt chàng; chàng suýt ngất đi - “Không, - chàng nghĩ thầm khi đã trấn tĩnh lại - ta sẽ bắt tay vào làm việc, mặc dầu lúc đầu công việc có vẻ vụn vặt đến đâu cũng mặc!”. Chàng bèn thu hết nghị lực, quyết làm nhiệm vụ như mọi người. Nơi nào mà chẳng có những cái thú riêng? Ngay ở Pêterbua cũng có thể tìm thấy, mặc dầu cái vẻ khắc khổ và tù mù của thành phố này. Trời băng giá đến nứt nẻ cả mặt đường ra; bão tuyết, nàng con gái thực sự của phương Bắc, đang hoành hành dữ dội, quất vào lề đường, làm cho khách qua đường tối tăm mặt mũi, rắc bột lên cổ áo bông, lên các bộ ria của người, lên những cái mõm xù lông của vật. Nhưng qua những bông tuyết quay cuồng, vẫn có một ánh đèn niềm nở chiếu sáng trên một gác tư nào đấy, trong một căn buồng ấm cũng thắp mấy ngọn nến giản dị. Trong khi xamôva sôi khe khẽ, một câu chuyện rôm rả làm ấm lòng người; người ta đem đọc một đoạn ưu tú nào đấy của một trong những nhà thơ giàu cảm hứng mà Thượng đế ban cho nước Nga; và tâm hồn trẻ trung của người thiếu niên cũng rung lên với một niềm hân hoan chẳng khác gì dưới ánh nắng tươi vui của miền Nam ấm áp {Đây là một kỷ niệm của những ngày Gôgôn mới đến Pêterbua}. Chẳng bao lâu Tentietnikôp đã làm quen được với chức vụ; nhưng trái với những dự tính ban đầu của chàng, nhiệm vụ đó cũng không trở thành mục đích chủ yếu của đời chàng. Cái chức vụ đó giúp chàng phân phối thì giờ và làm cho chàng thưởng thức những giờ phút rỗi rãi được trọn vẹn hơn. Ông tư vấn quốc gia đã bắt đầu tự nhủ rằng thằng cháu mình có thớ làm nên đây, thì Anđrêi Ivannôvits bỗng phạm sai lầm. Trong số các bạn bè của Anđrêi Ivannôvits - số đó cũng khá đông - có hai kẻ thuộc các hạng mà người ta thường gọi là những đầu óc cay cú. Những con người bất an một cách kỳ quặc ấy không sao thản nhiên trước những cảnh bất công đã đành, mà ngay trước những gì họ thấy có vẻ bất công cũng vậy; tính vốn trung hậu, nhưng hành động thì lại lộn xộn, họ đòi hỏi người ta phải khoan dung với mình, trong khi họ xét đoán người khác thì chẳng khoan dung chút nào. Những lời lẽ kịch liệt và lòng công phẫn cao quý của họ đối với xã hội đã có ảnh hưởng rất mạnh đối với Tentietnikôp. Họ làm cho chàng đâm ra dễ xúc động, dễ cáu bẳn, họ làm cho chàng để ý đến tất cả những chi tiết mà trước kia chàng không hề chú ý đến chút nào. Fiôđô Fiôđôrôvits Lênitxưn, thủ trưởng của một bộ phận văn phòng đặt trụ sở trong những gian phòng lộng lẫy kia, bỗng dưng mất hẳn thiện cảm của chàng. Chàng bắt đầu tìm thấy ở Lênitxưn cả một mớ tính xấu. Chàng thấy rằng Lênitxưn khi tiếp chuyện cấp trên thì toàn những lời đường mật, mà khi tiếp xúc với cấp dưới thì lại chua như dấm; rằng giống như những kẻ ti tiện, hắn bắt lỗi những ai không đến thăm hắn vào những ngày lễ và để bụng thù những người không thấy ghi tên trong cuốn sổ của người gác cổng. Cuối cùng, con người ấy gây nên trong lòng chàng một cảm giác ghê tởm, bệnh hoạn. Dường như có một hung thần thôi thúc chàng gây ra một việc gì khó chịu cho Fiôđô Fiôđôrôvits. Chàng chờ cơ hội với một cảm giác gần như khoái lạc và cuối cùng cơ hội đã đến. Một hôm, chàng nói với Fiôđô Fiôđôrôvits bằng một giọng gay gắt đến nỗi người ta buộc chàng một là phải xin lỗi, hai là phải từ chức. Chàng liền từ chức. Ông chú chạy lại, hoảng hốt van lơn. - Trời ơi, Anđrêi Ivannôvits, anh làm gì thế? Từ bỏ một sự nghiệp đã bắt đầu một cách ổn thỏa như thế, chỉ vì ác cảm với người trên? Lạy Chúa! Anh nghĩ thế nào mà lại làm như vậy? Nếu cứ cố chấp như thế thì còn ai có thể giữ chức được nữa! Anh nghĩ lại đi; hãy gác sang một bên cái tính sĩ diện, tự ái; đến phân trần với ông ta đi! - Vấn đề không phải ở chỗ ấy, chú ạ; Anđrêi Ivannôvits đáp. Tôi mà đến xin lỗi ông ta thì cũng dễ thôi; tôi trái; ông ta là thủ trưởng của tôi, lẽ ra tôi không nên ăn nói với ông ta như thế. Nhưng chú ạ, một công việc khác đang chờ tôi; ba trăm nông dân, một điền trang đang sa sút, một lão quản lý đần độn. Thôi để cho một người làm thuê khác cạo giấy thay tôi. Nhà nước chẳng thiệt thòi gì; nhưng nếu ba trăm đinh mà không nộp thuế thì công quỹ sẽ hao hụt nhiều lắm. Tôi chả là trang chủ mà… nếu tôi dành đời tôi để lo cho những người được giao cho tôi coi sóc, làm cho họ sống khá hơn; nếu tôi hiến được quốc gia ba trăm thần dân gương mẫu, điều độ, cần cù; thì công lao của tôi có thấp kém hơn công thủ trưởng một bộ phận văn phòng như Lênitxưn? Ông tư vấn quốc gia chỉ còn biết há hốc mồm. Ông ta không ngờ được nghe một tràng lý lẽ thao thao bất tuyệt như thế. Nghĩ một lát, ông nói đại khái như sau: - Thế nhưng… ai lại về nằm lì ở nhà quê thế? Tìm đâu ra bạn bè giữa những kẻ…? Ở đây, ít nhất người ta cũng được gặp những vị tướng quân, những bậc vương công ở ngoài phố. Người ta cũng thường được đi qua bên cạnh một… Rồi lại có đèn hơi, có công nghệ kiểu Âu châu; chứ ở đấy thì toàn bọn quê mùa, thô lỗ. Thế thì việc gì lại chôn vùi cả đời mình trong cảnh tối tăm như vậy? Nhưng ông cháu vẫn một mực không lay chuyển trước những lời phân trần của ông chú. Chàng đã chán phòng giấy, chán chốn kinh đô lắm rồi. Chàng bắt đầu thấy thôn quê là một nơi ẩn dật chắc chắn, thuận lợi cho việc suy tưởng, và là môi trường hoạt động duy nhất hữu ích. Chàng đã tìm mua được những cuốn sách mới nhất về nông nghiệp. Nói tóm lại, mười lăm ngày sau khi diễn ra cuộc nói chuyện ấy, chàng đã về đến gần những nơi mà thời thơ ấu của chàng đã trôi qua; không còn xa mấy cái khoảng đất kỳ diệu ngắm mãi không hề biết chán ấy. Một cảm xúc mới mẻ khiến tâm hồn chàng xao xuyến. Trong lòng chàng dần dần bừng tỉnh những ấn tượng xưa kia, đã từ lâu vùi kín. Chàng đã quên hẳn nhiều nơi; và như một người khách mới đến, chàng tò mò ngắm những cảnh đẹp. Bỗng nhiên, không hiểu tại sao, tim chàng bắt đầu đập mạnh. Con đường men theo một khe đất hẹp đi sâu vào một khu rừng mênh mông; ở trên đầu và ở dưới chân, chàng thấy những cây sồi cổ thụ ba người ôm không xuể, xen với những cây tùng cây bách, cây du, cây phong. “- Khu rừng này của ai? Chàng hỏi thăm. - Của ông Tentietnikôp” người ta trả lời như vậy. Rồi con đường lại men theo những cánh đồng cỏ có những rặng cây hoàn liễu, miên liễu, thùy liễu; trông rõ những dãy đồi chạy dài ở phía xa; rồi vượt qua con sông ở hai nơi khác nhau, lần trước để nó lại ở mé bên phải, lần sau ở mé bên trái; Anđrêi Ivannôvits hỏi thăm xem ai là người may mắn được làm chủ nhân những cánh đồng cỏ này và được biết rằng người đó là ông Tentietnikôp. Đến đây con đường leo lên dốc và chạy men theo một cao nguyên, một bên là những cánh đồng tiểu mạch, lõa mạch, đại mạch; còn bên kia là tất cả những nơi đã vượt qua, giờ bỗng thu nhỏ hẳn lại; rồi tối dần đi từng chặng; con đường chạy dài dưới bóng những cây cối um tùm mọc rải rác trên những tấm thảm xanh cho đến tận đầu làng. Khi những ngôi nhà gỗ chạm trổ của mujik và những mái ngói đỏ của ấp đã hiện ra rõ nét, khi chiếc mái thiếp vàng của ngôi nhà thờ đã ánh lên lấp lánh, và khi trái tim đang đập rộn rã của Tentietnikôp đã đoán ra được đây là nơi nào, thì bao nhiêu cảm giác tích lũy bấy lâu đều phát ra thành lời nói. - Vừa qua mình có ngốc không kia chứ! Số phận đã cho mình làm chủ nhân một thiên đường trần gian, thế mà mình lại tự đày đọa tấm thân đi làm nghề cạo giấy! Sau khi được dạy dỗ chu đáo như vậy, được trang bị đủ những tri thức cần thiết để truyền bá phúc lợi cho kẻ tùy thuộc, để cải thiện cả vùng này, để làm tròn những bổn phận vốn rất nhiều của người trang chủ - vừa là quan tòa, vừa là người ra lệnh, vừa là kẻ giữ trật tự - thế mà lại giao chức vụ ấy cho một tên quản lý dốt đặc cán mai! Tự dưng lại đi chọn lấy cái nghề làm trung gian cho những kẻ mà mình chưa bao giờ gặp, chẳng biết tính tình và nhân phẩm ra sao; nói tóm lại, bỏ một công việc cai quản thực sự để chọn lấy công việc cai quản trên giấy tờ những tỉnh cách xa hàng nghìn verxta chưa bao giờ đặt chân đến, mà có đến cũng chỉ làm được những việc ngu xuẩn! Trong khi đó, một cảnh tượng khác đang chờ đợi chàng. Nghe tin trang chủ về, nông dân đã kéo đến tụ tập bên thềm. Những chiếc áo chùng, những chiếc mũ chụp, mũ trùm, những bộ áp caftan và những bộ râu xồm xoàm trông rất thú vị đã vây quanh chàng. Khi chàng nghe họ thốt lên: “- Ân nhân đã về đây rồi!...” khi các ông già bà cả vừa khóc vừa nhớ lại tổ phụ chàng, thì chính chàng cũng không sao cầm được nước mắt. Chàng nghĩ bụng: “Họ quý mình biết bao! Thế mà nào mình đã gặp họ bao giờ, mình có bao giờ quan tâm đến họ đâu!”. Chàng liền tâm tâm niệm niệm rằng từ nay sẽ chia sẻ công việc làm ăn với họ, để cho thật xứng đáng được họ yêu quý và gọi là ân nhân. Chàng bắt tay vào điều khiển công việc. Chàng giảm bớt lực dịch để cho nông dân được nhàn hơn. Viên quản lý đần độn kia bị thải hồi. Việc gì chàng cũng muốn nhúng tay vào; chàng ra đồng, ra sân đập lúa, ra sân phơi thóc, ra cối xay, trông nom những chuyến bốc hàng lên thuyền, lên xà lan. - Chà! Chà! Việc gì ngài cũng ngó đến, nông dân bảo nhau như vậy; và chính những kẻ chây lười cũng bắt đầu gãi tai, gãi gáy. Nhưng tình hình này chẳng được bao lâu. Con người mujik họ rất tinh khôn; chẳng bao lâu họ đã biết rằng tuy ông chủ nhanh nhẹn và xốc vác thật, nhưng vẫn chưa biết việc và ăn nói như trong cuốn sách. Thành thử, tuy chưa đến nỗi hoàn toàn không hiểu gì nhau, nông nô và trang chủ vẫn không sao hòa hợp được với nhau. Tentietnikôp có dịp nhận thấy rằng trên đất mình, hoa màu mọc kém nhiều so với đất của nông dân. Gieo thì gieo trước mà mọc thì lại mọc sau; ấy thế mà người ta làm lụng có vẻ chăm chỉ lắm đấy. Tuy thế, chàng vẫn thân hành coi những buổi lực dịch và phát vôtka thưởng cho những người làm hăng. Lõa mạch, kiều mạch, kê của nông dân đã trổ bông từ lâu, mà của chàng thì chỉ mới lên cây, chưa có đòng. Nói tóm lại, vị trang chủ bắt đầu thấy rằng tuy ân huệ ban xuống đã nhiều mà nông dân của chàng vẫn gian dối. Chàng thử trách họ, nhưng họ trả lời: “- Thưa chủ nhân, sao chúng tôi lại không quan tâm đến quyền lợi của chủ. Ngài đã trông thấy tận mắt chúng tôi cày, gieo hạt chăm chỉ như thế nào; ngài còn sai thưởng cho chúng tôi cả một suất vôtka.” Thế thì còn biết trả lời làm sao nữa! “- Nhưng tại sao lúa mọc xấu thế? Tentietnikôp hỏi. - Biết làm thế nào được? Chắc là sâu cắn rễ. Với lại mùa hè mà thế này thì lúa xấu có gì là lạ? Không mưa được lấy một cơn.” Nhưng Anđrêi Ivannôvits thấy rõ rằng trên những khoảng đất của nông dân, sâu chẳng dám cắn rễ; còn như mưa thì chắc chỉ đổ xuống từng nơi, làm lợi cho mujik mà để thiệt cho trang chủ. Đàn bà thì lại còn lắm chuyện rắc rối hơn nữa. Họ xin miễn làm đồng, than phiền là lực dịch quá nặng. Lạ thay! Chàng đã bãi bỏ tất cả các khoản nộp vải, trái cây, nấm, hạt dẻ và giảm các công việc khác, chỉ còn lại một nửa, nghĩ rằng đàn bà sẽ dành thì giờ làm việc nội trợ, khâu áo cho chồng, trồng thêm vườn rau. Nhưng chẳng hề có như thế. Thói lười biếng, thói đánh nhau, thói ngồi lê đôi mách, những vụ cãi cọ đủ thứ bắt đầu phát triển trong phái đẹp; đến nỗi các ông chồng cứ luôn luôn than phiền với chàng: - Thưa ông chủ, ngài làm phúc dạy bảo cho con quỷ cái nhà tôi nó biết điều một chút! Chẳng làm thế nào mà sống nổi với nó nữa? Bất đắc dĩ, chàng cũng định dùng đến cách quở mắng thật nghiêm; nhưng nghiêm làm sao được? Một nữ nông dân rên rỉ dẫn xác đến, ốm yếu đứng không vững, mình quấn những mảnh giẻ rách đến là tởm, không biết nhặt được ở đâu. - Thôi đi đi cho khuất mắt! Chúa phù hộ cho mụ! Vị trang chủ đáng thương nói. Chỉ một lát sau, vừa bước khỏi cổng đã thấy mụ túm lấy một mụ hàng xóm, làm om sòm lên vì một củ su hào, và nện vào sườn mụ kia những quả đấm nên thân, khỏe hơn tay tráng đinh lực lưỡng nhất. Chàng đã nghĩ đến việc mở một thứ trường học, nhưng việc đó gây nên một cảnh rối ren hỗn loạn đến nỗi chẳng bao lâu chàng phải từ bỏ ý định ấy. Trong những vụ xung đột và kiện cáo, tất cả những kiến thức tư pháp tinh vi mà các thầy giáo kiêm triết gia ngày trước đã dạy cho chàng, đều tỏ ra hoàn toàn vô dụng. Cả bên bị lẫn bên nguyên đều thi nhau nói dối, không sao lần ra được chút gì. Chàng nhận thấy rằng chỉ riêng việc hiểu biết con người thôi còn quan trọng hơn những lời biện luận tinh vi trong các sách luật học và triết học; chàng thấy mình thiếu một cái gì đấy, nhưng không biết là cụ thể mình thiếu cái gì. Và cái việc rất hay xảy ra đã xảy ra: nông dân và trang chủ đã hiểu lầm nhau, hai bên đều chỉ lộ mặt xấu ra cho nhau. Tất cả những cái đó làm cho nhiệt tình của nhà trang chủ nguội lạnh đi rất nhiều. Từ đấy chàng vẫn trông coi công việc, nhưng không hề quan tâm đến nữa. Dù khi đang gặt lúa, bó lúa hay chất lúa vào kho; nếu công việc làm gần ngay cạnh, mắt chàng cứ thẫn thờ nhìn mãi tận đâu đâu; nếu công việc làm ở xa, thì mắt chàng lại tìm những vật gần hơn hay ngắm một khúc sông, nơi có con bói cá mỏ đỏ, chân đỏ bước dọc bờ. Chàng tò mò nhìn con chim, mỏ cắn ngang một con cá vừa bắt được, vẻ như đang tự hỏi xem mình có nên nuốt con cá hay không, đồng thời lại nhìn một con bói cá khác đứng ở xa xa, chưa bắt được con cá nào, nhưng cũng đang nhìn kẻ đồng loại may mắn hơn. Hoặc giả hai mắt nhắm nghiền, đầu ngẩng lên phía trời xanh, chàng thở hương vị của đồng quê, lắng nghe tiếng chim hót; những khi từ khắp mọi hướng, từ không trung cũng như từ mặt đất, tiếng hót quyện lại thành một bản hợp xướng hài hòa. Con cuốc gióng giả trong đám lõa mạch; con gà nước rên rỉ trong đám cỏ; ở phía trên, một đàn chim khuyên bay qua kêu chiêm chiếp và gọi nhau ríu rít; con chim dẽ gà vừa bay lên vừa cất tiếng the thé; con chim sơn ca hót líu lo, thân hình hòa tan trong ánh sáng; trong khi tiếng gọi đàn của bầy sếu bay thành chữ nhân cao ngất trên nền trời vang dội như một tiếng kèn. Cảnh vật xung quanh chỉ còn là một cuộc hòa nhạc. Hỡi Tạo hóa! Nơi đây, giữa lòng thiên nhiên, xa các đường thiên lý và các thành thị lớn, những tạo vật của Người còn đẹp đẽ biết bao! Nhưng ngay đến quang cảnh ấy cuối cùng cũng làm cho Anđrêi Ivannôvits chán ngấy; chàng không ra đồng nữa, nằm lì ở nhà, thậm chí cũng không buồn nghe những lời bẩm báo của lão quản lý nữa. Trước kia có mấy người láng giềng thỉnh thoảng đến thăm chàng: một viên trung úy khinh kỵ về hưu, người sặc mùi thuốc lá tẩu; một anh sinh viên học hành dở dang, mang những tư tưởng tiên tiến và xem sách báo đương thời như lời thánh truyền. Nhưng cả những hạng người đó nữa cũng làm cho chàng chán ngấy. Chàng bắt đầu thấy những câu chuyện của họ nông cạn; cái lối tự nhiên theo kiểu Âu châu của họ - vỗ đùi, vỗ vế và các cử chỉ sỗ sàng khác - thì chàng cho là quá tự do. Chàng quyết định tuyệt giao với cả bọn họ và thậm chí đã tuyệt giao một cách khá thô bạo. Quả có thế, một hôm Varvar Nikôlaiêvits Visnêpôkrômôp - con người có duyên nhất trong số những kẻ nói chuyện hời hợt, một nhân vật điển hình cho loại đại tá vui nhộn ngày nay đang sắp tuyệt diệt, và đồng thời là kẻ hâm mộ các tư tưởng mới - đã đến thăm chàng để có thể tha hồ thuyết lý về chính trị, triết học, văn học, luân lý, và thậm chí cả về tài chính nước Anh nữa; nhưng Tentietnikôp cho người ra nói là mình đi vắng, đồng thời lại vô ý ló mặt ra cửa sổ. Mắt khách và mắt chủ gặp nhau. Dĩ nhiên là khách phải làu bàu: “Rõ đồ súc sinh”; còn chủ thì bực mình quá cũng tặng khách một tính từ không kém phần khiếm nhã. Quan hệ giữa đôi bên đến đấy là hết. Từ đấy chẳng ai đến thăm chàng nữa. Chàng lấy thế làm mừng và bắt đầu suy nghĩ về một trước tác lớn về nước Nga. Độc giả đã thấy chàng tiến hành như thế nào. Một tình trạng mất trật tự có hệ thống phát sinh. Nhưng cũng đôi lúc, chàng có vẻ như thoát khỏi trạng thái hôn mê. Những khi bưu vụ mang báo chí đến, những khi chàng thấy trên báo nhắc đến cái tên quen thuộc của một người bạn cũ đang tiến nhanh trên con đường phụng sự nhà nước, hoặc đã có tên tuổi trong khoa học hay trong công cuộc duy tân, chàng thấy lòng tràn ngập một nỗi buồn âm ỉ và bất giác buột ra một lời than thở chua chát và thầm lặng về cảnh vô công rồi nghề của mình. Chàng nhớ lại rõ mồn một thời gian sống ở nhà trường; hình ảnh Alêxanđr Pêtrôvits hiện lên, như bằng xương bằng thịt; và nước mắt chàng lại chảy ròng ròng… Nhưng tiếng khóc ấy có ý nghĩa gì? Phải chăng đó là tâm hồn đau khổ của chàng đang thổ lộ điều bí ẩn đáng buồn về bệnh tình của nó? Phải chăng là cái nhân cách cao cả đang nẩy mầm trong chàng chưa có đủ thì giờ thành hình và củng cố; phải chăng là vì từ thuở niên thiếu chưa học được cách vật lộn với những trắc trở, cho nên chàng không đạt đến được cái mức mà những khó khăn và trở ngại càng làm cho người ta cao cả và mạnh mẽ hơn lên; phải chăng là được đưa qua lò luyện như một chất kim loại nóng chảy, cái vốn phong phú những ấn tượng cao quý của chàng chưa được tôi lại nước cuối cùng; phải chăng là ông thầy vô giá của chàng đã mất đi quá sớm và giờ đây trên đời không có ai đủ khả năng cổ vũ những sức lực đã lung lay và cái ý chí đã suy nhược, thiếu hẳn năng động của chàng; phải chăng là không có ai để cất tiếng rắn rỏi thét lên cho tâm hồn chàng nghe hai tiếng Tiến lên đầy sức khích lệ, hai tiếng mà người Nga - dù ở đâu, thân phận ra sao, đứng ở bậc thang nào của xã hội - cũng đều đang mong chờ? Người ấy ở đâu, con người đủ sức nói với chúng ta hai tiếng Tiến lên vạn năng ấy! Ở đâu con người biết rõ tất cả những sức mạnh, những đức tính, thấu hết được chiều sâu của bản tính chúng ta và có thể ra một hiệu lệnh thần kỳ hướng ta tới một đời sống cao cả hơn? Người Nga sẽ nhỏ những giọt lệ thân yêu, nồng nàn biết chừng nào để tỏ lòng biết ơn; giá được một con người như thế! Nhưng hết thế kỷ này đến thế kỷ khác, nước Nga vẫn làm cái mồi cho thói lười biếng đáng hổ thẹn, hoặc cho hoạt động điên rồ của một lớp thanh niên không chút kinh nghiệm; thế mà Thượng đế vẫn không ban xuống cái con người có sức nói lên hai tiếng hằng chờ mong ấy. Một biến cố suýt thức tỉnh Tentietnikôp, một sự thay đổi suýt diễn ra trong tính tình chàng; chàng đã thể nghiệm một cái gì như thể tình yêu. Nhưng ngay ở đây nữa, cơ sự cũng chẳng đưa kết quả gì. Cách nhà Tentietnikôp mười verxta có một vị tướng mà, như ta đã biết, thường nói về chàng một cách thiếu thiện ý. Vị tướng ấy có lối sống theo đúng cấp bậc của mình, rất hay thết khách, rất thích láng giềng đến thăm hỏi, không bao giờ thăm lại ai, nói giọng khàn khàn, thường hay đọc sách, và có một cô con gái là Ulinka, một con người kỳ dị. Đôi khi nằm mơ người ta thấy một cái gì tương tự như vậy; thế rồi từ đấy, suốt đời người ta chỉ còn biết mơ tưởng đến hình ảnh đã hiện lên trong giấc chiêm bao; thực tế không đáng kể nữa; người ta trở thành hoàn toàn vô dụng. Mất mẹ từ hồi còn nhỏ, người thiếu nữ ấy được giáo dục một cách kỳ quặc. Bà gia sư của nàng là một người Anh, một chữ Nga cắn đôi cũng chẳng biết. Cha nàng không có thì giờ trông nom đến con; vả chăng ông ta quý con như điên như dại, thành thử có trông nom đi nữa thì cũng chỉ tổ làm nàng hư đi thôi. Như ở một đứa trẻ đã lớn lên trong cảnh tự do phóng túng, ở nàng cái gì cũng kỳ quái, ngông cuồng; có thể nói nàng là hiện thân của sự sống. Nếu có ai trông thấy những nét yêu kiều trên mặt nàng nhăn lại vì một cơn giận dữ đột ngột và vẻ hăng say của nàng khi tranh luận với bố, người đó sẽ tưởng nàng là người có tính khí bất thường nhất trên đời. Nhưng nàng chỉ nổi giận khi nghe nói đến một việc bất công hay một thủ đoạn gian trá; không bao giờ nàng tranh cãi để tự bênh vực hay thanh minh. Cơn giận đó sẽ nguôi ngay, nếu nàng thấy người bị nàng giận phải khổ tâm. Bất kỳ ai cũng vậy, chỉ cần mở miệng xin một câu là nàng sẵn sàng vứt cả túi tiền của mình cho họ; không hề nghĩ rằng đó là một cử chỉ khó coi. Trong con người nàng có một cái gì thật là cuồng nhiệt. Khi nàng nói, toàn thân nàng cái gì cũng như phản ánh ý nghĩ đang được tỏ bày; vẻ mặt, giọng nói, cử chỉ, cả đến các nếp áo cũng dường như thích nghi với ý nghĩa đó; có thể tưởng chừng như nàng sắp bay bổng lên theo những lời nói của chính mình. Nàng không hề có gì giữ kín, nàng không sợ bày tỏ ý nghĩ mình ra, dù trước mắt ai cũng vậy. Khi nàng đã muốn nói thì không có sức mạnh nào buộc nàng làm thinh được. Dáng đi đẹp đẽ và mang rõ bản sắc riêng của nàng, có một vẻ chững chạc, tự tin đến nỗi ai gặp cũng phải bất giác nhường lối cho nàng. Trước mặt nàng, người ác đâm ra bối rối và không dám hé môi; dù là người vô tư lự và bạo mồm, bạo miệng mấy cũng không biết nói gì với nàng và đâm ra luống cuống; còn người nhút nhát thì lại có thể nói chuyện với nàng tự nhiên hơn với bất cứ ai. Từ những phút đầu trò chuyện, người đó có ngay cảm giác như đã quen biết nàng từ ngày xưa, hồi còn bé tí tẹo, trong một gia đình thân thuộc, nhân một tối hoan hỉ giữa cảnh chơi đùa vui vẻ của lũ trẻ con; và sau đó rất lâu còn thấy cái tuổi lớn khôn là vô vị. Đó chính là cảm giác của Anđrêi Ivannôvits. Một cảm xúc không sao giải thích nổi, xâm chiếm lòng chàng; cuộc đời tẻ nhạt của chàng bỗng sáng rực lên. Thoạt tiên, vị tướng tiếp Tentietnikôp khá thân mật; nhưng mãi họ vẫn không sao hợp nhau được. Những buổi chuyện trò của họ đều kết thúc bằng những cuộc cãi vã; và hai bên đều thấy khó chịu, vì vị tướng vốn không thích ai nói trái ý hoặc bác lại mình. Tentietnikôp thì lại giàu lòng tự ái. Dĩ nhiên chàng đã vì người con gái mà bỏ qua rất nhiều cho người cha, và giữa hai người không khí vẫn hòa thuận, cho đến khi hai bà mệnh phụ có họ với vị tướng về đây. Bá tước phu nhân Borđưriôva và công tước phu nhân Yuziakina đều là ngự tiền phu nhân của triều vua trước, nay vẫn còn có thần thế ở Pêterbua; nên vị tướng sẵn sàng khúm núm trước mặt họ. Họ vừa đến một cái là Anđrêi Ivannôvits đã có cảm giác rằng chủ nhân có ý lạnh nhạt hơn, không quan tâm đến chàng, hoặc giả cư xử với chàng như với một kẻ đần độn; vị tướng nói với chàng, vẻ khinh khỉnh: - này, ông bạn, nghe chưa; và thậm chí còn gọi chàng bằng “anh” nữa. Điều đó rốt cục làm cho Tentietnikôp cáu tiết. Chàng nghiến răng nén giận, nhưng cũng đủ nhanh trí để nói với một giọng khá lễ độ, trong khi máu dồn lên mặt đỏ bừng và trong lòng sôi sục lên. - Thưa tướng quân, tôi xin cám ơn tướng quân đã có lòng hạ cố xưng hô như vậy; tướng quân cho phép tôi xác lập với tướng quân một tình bằng hữu thân mật, buộc tôi cũng phải xưng hô với tướng quân như thế. Nhưng sự chênh lệch về tuổi tác không cho phép chúng ta xác lập những quan hệ thân mật đến như thế. Vị tướng đâm bối rối. Chật vật lắm mới trấn tĩnh lại được, ông ta tuyên bố rằng mình gọi khách bằng “anh” không phải với nghĩa đó; mà người già cả đôi khi cũng có thể gọi một người thanh niên bằng “anh” (ông ta không hề nhắc nhở đến cấp bậc của mình). Từ đấy, quan hệ giao du của họ chấm dứt và cuộc tình duyên cũng đứt đoạn ngay từ đầu. Tia sáng vừa lóe ra trong chốc lát trước mắt Tentietnikôp vụt tắt, làm cho bóng hoàng hôn tiếp theo càng thêm ảm đạm. Thế là từ đấy Tentietnikôp bắt đầu cuộc sống đã tả ở đầu chương này: giờ này qua giờ khác nằm dài trên đi văng, không làm gì cả. Cảnh bẩn thỉu và lộn xộn đã len lỏi vào nhà này. Cái chổi nằm suốt một ngày giữa nhà với các thứ rác rưởi. Thậm chí còn có cả một cái quần dài vứt bừa bãi trong phòng khách; một đôi dải đeo quần cáu ghét vắt trên một chiếc bàn trang nhã cạnh đi văng, như một món quà bày ra biếu các tân khách. Anđrêi Ivannôvits quay ra sống cẩu thả đến nỗi không những người nhà chẳng còn kính nể chàng nữa, mà ngay đến lũ gà mái cũng gần như muốn mổ luôn cả chàng. Tay cầm bút, chàng ngồi vẽ hàng giờ như một cái máy, nào những cái cây quăn queo, những ngôi nhà nhỏ, những túp lều gỗ, những chiếc xe giàn, xe tam mã. Nhưng đôi khi cây bút cứ tự nó đưa đi và mạn phép chủ nhân vẽ lên giấy một khuôn mặt nho nhỏ có những đường nét thanh tú, đôi mắt tinh anh, cái miệng bướng bỉnh; và chủ nhân ngạc nhiên thấy hiện lên bức chân dung của người con gái mà chắc hẳn không có một họa sĩ nào vẽ nổi. Đến đây, tin chắc rằng hạnh phúc không thể có được ở thế gian này, chàng lại càng ủ ê, đờ đẫn hơn. Tâm trạng của Anđrêi Ivannôvits Tentietnikôp là như vậy. Một hôm theo thường lệ, chàng đang ngồi thờ thẫn bên cửa sổ thì rất đỗi ngạc nhiên vì chẳng nghe thấy tiếng Grigôri và Perfiliepna cãi nhau; trái lại, ngoài sân thấy có xôn xao lên ít nhiều. Anh đầu bếp và chị lau sàn nhà chạy ra mở cổng. Cánh cổng mở ra, nhường lối cho một cỗ ngựa giống hệt như những cỗ chạm trên các khải hoàn môn; ba cái đầu ngựa trông thẳng: một cái bên phải, một cái bên trái, một ở giữa. Trên ghế xà ích có một người đánh xe và một người tùy bộc mặc áo ngoài rộng, lưng thắt chiếc khăn vuông. Ngồi ở phía sau là một ông đội mũ lưỡi trai, mình khoác áo măng tô, cổ quấn một chiếc khăn quàng sặc sỡ. Khi chiếc xe quay ngang trước thềm thì có thể nhận ra đó là một chiếc briska nhẹ có ổ díp. Người khách ngồi trên xe, vẻ rất chững chạc, nhảy xuống đất một cách nhanh nhẹn và ung dung; dáng dấp gần như của một quân nhân. Anđrêi Ivannôvits đâm lo, tưởng khách là một viên chức nào. Cần phải nói rằng hồi còn trẻ, chàng đã dính líu vào một việc dại dột. Hai anh khinh binh triết gia, đầu óc đầy sách vở, một nhà mỹ học nửa mùa và một tay cờ bạc phá sản, đã lập ra một hội từ thiện dưới sự chỉ đạo tối cao của một lão bợm già, hội viên thợ nề tự do, cũng là một con bạc nhưng nói năng khá hùng biện. Hội tự đề ra một mục đích to tát: bảo đảm hạnh phúc cho loài người từ sông Thêmx đến bán đảo Kamtsatka {Nghĩa là từ nước Anh đến nước Nga, từ Tây Âu sang Đông Á}. Hội cần những số tiền khá lớn; các hội viên giàu lòng từ thiện đã cúng những món rất to. Những món tiền ấy đi đâu? Chỉ có vị chỉ đạo tối cao của hội biết. Tentietnikôp đã bị hai người bạn thuộc hạng người có đầu óc cay cú, lôi cuốn vào hội. Đó là những anh chàng tốt bụng; nhưng vì có cái thói quen nâng cốc chúc khoa học, chúc học vấn, chúc tiến bộ quá nhiều; nên đã trở thành những con ma men thực thụ. Chẳng bao lâu Tentietnikôp đã trấn tĩnh lại và đoạn tuyệt với môi trường ấy. Nhưng hội nọ đã có tai tiếng vì một số hành vi ít có phần xứng đáng với những người thượng lưu; cho nên về sau cảnh sát đã phải can thiệp… Vì vậy, dù đã đoạn hẳn với bọn họ. Tentietnikôp cũng vẫn chưa lấy làm yên tâm; điều đó cũng không có gì là lạ. Cho nên khi thấy cổng mở, chàng không khỏi có ý lo sợ. Tuy vậy, nỗi lo sợ của chàng tiêu tan, khi người khách khẽ nghiêng đầu chào một cách ung dung rất mực, và vẫn giữ một thái độ kính cẩn, dùng những lời lẽ vắn tắt nhưng chính xác, phân trần rằng mình lâu nay đi khắp nước Nga, vừa để giải quyết công việc tư vừa để mở mang kiến thức. Nước ta vốn nhan nhản những vật lạ, lại có rất nhiều ngành công nghệ và đất đai mỗi nơi một khác; cảnh trí ngoạn mục của dinh cơ này đã làm cho khách mê mẩn tâm thần; tuy vậy lẽ ra khách cũng không dám đến quấy quá vị chủ nhân diễm phúc, nếu xe không bị hỏng vì những cơn nước lũ mùa xuân và đường sá gập ghềnh, cần phải nhờ đến tay thợ rèn và các thứ thợ khác chạy chữa cho; vả chăng dù chiếc briska không hỏng chút nào đi nữa, khách cũng không thể bỏ qua cái thú được đến bày tỏ niềm tôn kính với chủ nhân. Nói xong, người khách, chân đi một đôi giày cổ đánh bóng cài cúc xà cừ, cúi mình một cách duyên dáng; và tuy người to béo đẫy đà, vẫn ngẩng lên một cách nhẹ nhàng như một quả bóng cao su. Anđrêi Ivannôvits yên tâm. Chàng nghĩ bụng người này là một giáo sư uyên bác nào đây, hẳn là đi khắp nước Nga để thu thập hoa cỏ hay hóa thạch. Chàng bèn lập tức tỏ ý sẵn lòng giúp đỡ khách về mọi mặt, gọi thợ rèn, thợ đóng xe đến cho khách sai bảo; xin khách cứ xem đây như là nhà mình; mời khách ngồi một chiếc ghế bành kiểu Vonte và sẵn sàng nghe khách thuyết lý về vạn vật học. Nhưng khách lại nói những chuyện có tính chất riêng tây nhiều hơn. Khách ví cuộc đời mình như một con thuyền mong manh, bềnh bồng trôi dạt dưới những ngọn gió bất trắc; khách cho biết mình đã nhiều lần thay đổi chức nghiệp, đã chịu nhiều nỗi bất công, đã bị những kẻ thù uy hiếp đến tính mệnh nhiều lần; khách còn kể nhiều chuyện nữa, tỏ ra rằng khách là một người rất thạo công việc. Để kết luận, khách xì mũi trong một chiếc khăn vải mịn, nghe như tiếng kèn đồng: Anđrêi Ivannôvits chưa bao giờ nghe thấy tiếng kèn nào to như thế. Đôi khi những nhạc cụ mất dạy hễ cử lên là người ta tưởng chừng như nó không phải nằm trong dàn nhạc mà nằm đâu trong lỗ tai mình. Giờ đây, trong những căn nhà đang yên giấc, cũng vang lên một âm thanh như thế, tiếp liền theo sau âm thanh đó là một mùi ô đơ Côlôn từ chiếc khăn mùi soa vải mịn bốc lên, trong khi chiếc khăn được khách mở ra một cách khéo léo. Chắc độc giả đã đoán ra rằng khách chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Paven Ivannôvits Tsitsikôp đáng kính, mà chúng ta đã bỏ rơi dọc đường. Y đã già đi một ít; có thể thấy trong thời gian qua, không khỏi có những cơn dông tố, những nỗi hiểm nghèo đe dọa y. Ngay chiếc frac của y cũng có vẻ hơi nhàu, và cỗ xe, anh xà ích, anh tùy bộc, mấy con ngựa, bộ đồ thắng đều có vẻ xộc xệch, sờn cũ. Đến như tài chính của y, hẳn cũng không lấy gì làm dồi dào nữa. Nhưng mà vẻ mặt, phong độ, dáng dấp thì không hề thay đổi. Thậm chí cách đi đứng, cử chỉ còn có vẻ phóng túng hơn nữa, và khi ngồi xuống, y bắt chéo chân lên một cách ung dung, đĩnh đạc hơn. Giọng nói của y ngọt ngào hơn, lời lẽ thận trọng hơn; trong mọi trường hợp, y tỏ ra nhã nhặn và lịch thiệp hơn. Cổ và vạt trước áo sơ mi của y đều trắng tinh; và tuy vừa đi một đoạn đường dài, trên y phục của y không dây lấy một hạt bụi; giá có ai mời y đi dự yến hội ngay lúc bấy giờ y cũng có thể đi tức khắc. Hai má và cằm y cạo nhẵn đến nỗi phải là người mù mới không biết thưởng thức những đường nét tròn trĩnh, phốp pháp, dễ chịu trên khuôn mặt y. Trong nhà lập tức có sự thay đổi. Một nửa tòa nhà, lâu nay vẫn cửa đóng, then cài tối om, được trả lại với ánh sáng. Trong các phòng đã sáng sủa trở lại, mọi vật bắt đầu được xếp đặt đâu vào đấy và hiện ra với quang cảnh sau đây. Cái buồng để ngủ chứa những đồ dùng cần thiết cho việc rửa ráy ban đêm; cái buồng để làm văn phòng… Nhưng trước hết phải biết rằng phòng này có ba cái bàn: một bàn giấy đặt trước chiếc ghế dài; một bàn đánh bài giữa hai khung cửa sổ, trước một tấm gương; một chiếc bàn tròn một chân đặt trong góc, giữa cái cửa vào phòng ngủ và cái cửa vào một căn buồng chứa đồ cũ mà đã một năm nay chẳng có ai vào và nay được dùng làm tiền sảnh. Người ta đặt lên chiếc bàn con những quần áo vừa lấy ở hòm áo ra, gồm có: cái quần dài đi đôi với chiếc áo lễ; một cái quần mới; một cái quần màu ghi, hai chiếc gi lê nhung; hai chiếc gi lê xa tanh, và chiếc áo đuôi én. Tất cả những thứ đó được xếp lên nhau thành một chồng, trên nhỏ dưới to, và phủ một tấm khăn bằng lụa. Trong góc kia, giữa cửa lớn và cửa sổ, người ta xếp các thứ giày; đôi thì đã hơi cũ, đôi thì hãy còn mới nguyên, gồm có giày véc ni và giày vải đi trong nhà. Chúng cũng e lệ phủ kín dưới một tấm khăn lụa. Trên bàn giấy bày rất thứ tự một cái giá bút, một bình ô đơ Côlôn, một quyển niên lịch và hai cuốn sách, đều là tập thứ hai của những bộ tiểu thuyết. Áo quần lót được cất trong tủ ngăn; áo quần lót dành để giao cho chị thợ giặt thì được buộc thành gói nhét xuống gầm giường cùng với chiếc hòm áo đã lấy hết đồ đạc ra. Thanh kiếm dùng để nhát bọn cướp đường được móc lên một cái đinh, cạnh giường ngủ. Mọi vật đều có một vẻ sạch sẽ, tinh tươm khác thường; không một mảnh giấy, một chiếc lông, một sợi rác nào vương vãi. Đến không khí cũng như trong hẳn đi: nó phảng phất cái mùi dễ chịu của một người khỏe mạnh sảng khoái, thường thay áo quần lót luôn, hay tắm bồn và ngày chủ nhật thường xát mình bằng một tấm bọt biển tẩm nước. Mới đầu trong tiền sảnh còn có mùi anh tùy bộc Pêtruska; nhưng chẳng bao lâu anh được di chuyển xuống nhà bếp một cách hợp tình, hợp lý. Những ngày đầu, Anđrêi Ivannôvits, vốn rất quý nếp sống độc lập của mình, cứ lo sẽ bị khách quấy rầy; e hắn ta sẽ phá ngang những thói quen, làm đảo lộn cách dùng thời gian đã được phân phối rất hợp lý của chàng chăng. Những mối lo sợ đó đều là hão huyền. Paven Ivannôvits chiều theo tất cả một cách mềm dẻo lạ lùng. Y tán thưởng cái nếp sống yên tĩnh, hiền triết của chủ nhân; nói rằng đó là cách tốt nhất để sống lâu trăm tuổi. Y dùng những lời lẽ rất thích hợp để khen ngợi cảnh cô liêu, môi trường nảy nở ra những tư tưởng lớn. Y liếc mắt qua tủ sách và ngỏ lời ca ngợi sách vở cái cứu người ta thoát khỏi cảnh ngồi không. Y nói ít, nhưng rất chững chạc. Trong cách sử xự y lại còn tỏ ra tế nhị hơn nữa. Y vào phòng khách rất đúng lúc, về phòng riêng cũng vậy, không làm cho chủ nhân mệt vì những câu trò chuyện của mình; khi chủ nhân không có hứng nói chuyện, y sẵn lòng làm thinh. Trong khi chủ rít tẩu thuốc, nhả ra những cuộn khói xanh lam; thì khách, vốn không hút thuốc, nghĩ ra một cách tiêu khiển thích hợp; chẳng hạn y rút trong túi ra một cái hộp đựng thuốc lá bằng bạc khảm men đen, giữ hai góc hộp bằng hai ngón tay trái, lấy một ngón tay phải búng cho quay tít như quả địa cầu quay quanh trục của nó; hoặc giả vừa gõ gõ mấy ngón tay lên hộp vừa huýt sáo mồm khe khẽ. Nói tóm lại, y không làm phiền chủ nhân. “Lần đầu tiên mình gặp được một người mà có thể sống bên cạnh được, Tentietnikôp tự nhủ; đó là một nghệ thuật mà ở nước ta ít người có. Ta không thiếu những người phúc hậu, thông minh, có học; nhưng những người lúc nào cũng đằm tính, có thể sống với họ một thời gian dài mà không có chuyện gì xích mích; thì hẳn giữa chúng ta không được mấy. Đây là người đầu tiên mà mình được gặp”. Đó là ý kiến của Tentietnikôp về ông khách của mình; về phần Tsitsikôp thì y lấy làm mừng cho mình đã đến trú ngụ ở nhà một con người hiền lành và điềm đạm như vậy. Y đã chán cuộc đời nay đây, mai đó. Được nghỉ ngơi, dù chỉ là một tháng thôi, giữa một chốn thôn dã tươi đẹp vào đầu mùa xuân; thật là một việc rất hay, ngay cả về phương diện vệ sinh cũng vậy. Quả nhiên, khó lòng mà tìm được một chốn nghỉ ngơi nào tốt hơn nơi này. Mùa xuân, bị những cơn giá rét làm cho đến muộn, nay bắt đầu phô hết hương sắc; và khắp nơi sự sống lại nẩy mầm. Mới đó mà những khoảng rừng thưa đã phơn phớt màu lục; trên thảm cỏ non màu ngọc bích mát rượi, hoa bồ công anh đã nở và hoa bạch đầu ông nghiêng nghiêng mái đầu mỏng manh màu hồng phơn phớt tím. Từng đàn côn trùng bay tràn khắp các đầm lầy; những con nhện nước đuổi theo, và cùng với chúng là đủ các thứ chim từ khắp nơi bay về tụ tập trong đám lau khô. Những sông hồ ngập nước lũ, đông nghịt những bầy vịt nước và các loài thủy điểu khác. Bỗng nhiên, mặt đất sinh động hẳn lên, các khu rừng bừng tỉnh, các đồng cỏ vang lên lanh lảnh. Trong làng, những đám khiêu vũ bắt đầu. Không thiếu gì chỗ để nô đùa! Trong đám lá xanh có bao nhiêu màu sắc rực rỡ! Không khí mới mát mẻ làm sao! Trong các mảnh vườn, tiếng chim ríu rít mới rộn ràng làm sao! Thật là một cõi thiên đường tràn ngập hân hoan: đồng quê rung lên và cất tiếng hát như mừng một cuộc hợp cẩn. Tsitsikôp đi chơi rất nhiều. Ở đây có vô khối những nơi có thể đi chơi được. Khi thì y thăm khoảng cao nguyên ở trên đỉnh mấy quả đồi và ngắm cảnh các thung lũng ngập nước. Ở nhiều nơi, lác đác có những khu rừng còn trụi lá nổi lên như những hòn đảo sẫm mầu; hoặc giả y đi sâu vào những đám bụi rậm, vào những khe đất trong rừng, nơi có những đám cây mọc chi chít nặng trĩu những tổ chim, sào huyệt của lũ quạ đang lượn vòng từng đàn dầy đặc rợp cả một góc trời. Y có thể đi bộ ra bến, nơi những chuyến xà lan đầu tiên xuất phát, chở đầy đậu, đại mạch; trong khi nước đổ ầm ầm vào chiếc bánh xe của chiếc cối xay đã bắt đầu hoạt động. Y đi thăm các công việc đồng áng đầu mùa xuân, y ngắm dải đất đen đen mà những chuyến cày vừa qua mới vạch ra giữa đám lá xanh; trong khi người thợ gieo khéo léo vục tay vào túi thóc treo trên ngực, ném vung ra từng nắm rơi rất đều, bên phải cũng như bên trái. Nơi nào Tsitsikôp cũng đến thăm. Y nói chuyện với lão quản lý, với người giữ cối xay, với nông dân. Cái gì y cũng muốn hỏi; tình hình tiến hành công việc, số thóc đã bán, số thóc thu vào mùa thu và mùa xuân để đem xay bột, tên từng nông dân, quan hệ họ hàng, việc tậu con bò cái, thức ăn của một con lợn. Y cũng hỏi dò cả số nông dân đã chết, số đó không được bao lăm. Là người có kinh nghiệm, chẳng mấy chốc y đã nhận thấy rằng điền trang của Anđrêi Ivannôvits được khai thác một cách thật kém cỏi: nơi nào cũng thấy rõ sự cẩu thả, bê trễ, nạn trộm cắp, rượu chè. Và y nghĩ thầm: “Cái thằng cha Tentietnikôp tồi thật! Một dinh cơ có thể thu hoạch đến năm vạn rúp hàng năm mà lại bỏ bê như thế này!”. Đã nhiều lần, trong những chuyến đi dạo như vậy, y đã nẩy ra ý nghĩ là chính y, - không phải ngay bây giờ, cố nhiên, mà sau này kia, khi nào cuộc kinh doanh chính của y đã xong xuôi và y có được một số vốn - chính y sẽ trở thành vị chủ nhân yên ổn của một trại ấp như thế này. Lẽ dĩ nhiên y hình dung mình sẽ làm chồng một thiếu phụ có đôi má tươi hồng, con một thương gia hay một hạng nhà giàu nào khác, và biết cả nhạc nữa. Y còn tưởng tượng một lũ hậu sinh nối dõi họ Tsitsikôp, một đứa con trai nghịch ngợm và một đứa con gái xinh xắn, hoặc hai đứa con trai, hai hay ba đứa con gái; để cho mọi người có thể biết rằng y đã từng sống ở trên đời này thực sự, chứ không phải chỉ đi qua thế gian như một cái bóng. Đến đây y lại tự nhủ rằng giá được thăng quan tiến chức cũng hay; chẳng hạn lên chức tư vấn quốc gia, một chức đáng trọng và được mọi người kính nể… Ai biết được những ý nghĩ có thể nẩy ra trong óc một người đang đi dạo; những ước mơ đang làm cho người đó quên đi trong chốc lát cái thực tế buồn tẻ; đang chào mời trêu ghẹo y, kích thích trí tưởng tượng của y và được y nâng niu; dù y có biết chắc rằng những ước mơ đó sẽ chẳng bao giờ trở thành sự thật? Chốn thôn quê đã chiếm được thiện cảm của các gia nhân của Paven Ivannôvits. Cũng như chủ họ, ở đây họ thấy khoan khoái lắm. Chẳng bao lâu Pêtruska đã kết bạn với anh coi kho Grigôri, tuy buổi đầu cả hai đều lên mặt bề trên với nhau. Pêtruska những muốn lòe Grigôri bằng cách kể ra những nơi mình đã đi qua; nhưng Grigôri liền đưa Pêterbua ra, khiến hắn phải cụt vòi, vì hắn chưa từng biết Pêterbua. Để vớt vát, Pêtruska khoe rằng những nơi mình đã đi cách xa như thế nào; nhưng Grigôri lại kể ra những nơi chẳng hề thấy có trên một bản đồ nào, cách đấy những hơn ba vạn verxta; thành thử anh đày tớ của Paven Ivannôvits chỉ còn biết há hốc mồm ra và lập tức bị đám gia nhân chế giễu. Tuy vậy, rốt cuộc hai bên kết bạn rất thân. Ở đầu làng có lão Pimen hói đầu, có họ hàng với khắp dân làng, mở một quán rượu lấy tên là Akumka; hai ông bạn nhà ta trở thành hai cột trụ của cái quán này; suốt ngày lúc nào cũng thấy họ ngồi đấy. Xêlifan thì bị một sức cám dỗ khác. Trong làng, tối nào cũng có những đám tụ tập vừa hát, vừa nhảy những điệu vũ quay tròn mùa xuân. Những cô gái rất xinh, người cao dong dỏng; ngày nay trong các thị trấn lớn cũng khó tìm được những cô như thế; khiến cho hắn phải giương mắt tròn xoe ra hàng giờ. Thật khó mà nói rõ cô nào là cô đẹp nhất. Cô nào ngực và cổ cũng trắng nõn, đôi mắt cũng say đắm, dáng đi cũng kiêu hãnh, cô nào cũng có một bím tóc dài chấm thắt lưng. Khi cầm những bàn tay trắng nõn của họ, quay vòng chầm chậm; khi cùng với mấy gã trai khác hắn tiến lên trước mặt những cô gái, giọng lanh lảnh đang mỉm cười hát: Các boi-a ơi, hãy chỉ chàng tân lang… {Dân ca hát trong lễ cưới} Trong khi chiều xuống nhè nhẹ ở xung quanh; và từ bên kia sông dội lại tiếng vọng của điệu hát lan đi buồn buồn; những khi ấy, hắn không biết mình ra làm sao nữa. Khi mơ cũng như khi tỉnh, buổi sáng sớm cũng như buổi chiều hôm, về sau hắn cứ ngỡ như vẫn còn nhảy múa vòng tròn và tay hắn vẫn đang cầm những bàn tay trắng nõn. Mấy con ngựa của Tsitsikôp cũng thích chỗ ở mới. Con ngựa đầu càng, con Trợ tá và con Vằn thấy sống ở đây khá dễ chịu; thóc kiều mạch rất ngon và cách bố trí tàu ngựa lại rất tiện: mỗi con đều có ô riêng, nói cho đúng thì có vách chắn; nhưng qua vách có thể trông thấy những con khác, thành thử nếu một con nào nổi hứng lên hí dù đó là con đứng xa nhất, thì có thể trả lời ngay được. Nói tóm lại, ai nấy đều cảm thấy như đang ở nhà mình. Còn về cái công việc mà Paven Ivannôvits Tsitsikôp đi khắp nước Nga để lo toan, tức là việc các nông phu chết; thì nay y đã trở nên rất dè dặt, ngay những khi tiếp xúc với những thằng ngốc thực thụ cũng vậy. Vả lại Tentietnikôp là người thường đọc sách, thường triết lý, cố tìm hiểu nguyên nhân và bản chất của sự vật thì “âu là thử tìm cách khác”; Tsitsikôp tự nhủ như vậy. Vì hay nói chuyện phiếm với tôi tớ trong nhà; y được biết rằng trước kia ông chủ hay lui tới nhà vị tướng ở điền trang bên cạnh, rằng vị tướng nọ có một cô con gái; ông chủ và cô tiểu thư ấy cũng có cảm tình với nhau; nhưng sau một chuyện bất hòa, họ không gặp nhau nữa. Bản thân y cũng có nhận thấy Anđrêi Ivannôvits thường vẽ, bằng bút chì và bằng bút lông ngỗng, những khuôn mặt bao giờ cũng giống nhau như đúc. Một hôm, ăn sáng xong, tay vẫn búng hộp thuốc lá quay tít như thường lệ, y nói: - Cái gì ông cũng đủ cả Anđrêi Ivannôvits ạ; ông chỉ thiếu có một thứ… - Cái gì thế? - Chủ nhân vừa hỏi, vừa rít một hơi thuốc lá. - Một người bạn đời, Tsitsikôp nói. Anđrêi Ivannôvits lặng thinh. Câu chuyện đến đấy là hết. Tsitsikôp không nao núng, y chọn một lúc khác, lần này vào lúc trước bữa ăn tối; đang nói chuyện này, chuyện nọ, y bỗng thốt lên: - Thật đấy, Anđrêi Ivannôvits ạ, ông cưới vợ đi thì hơn. Tentietnikôp không đáp lấy một câu; hẳn là vấn đề này làm chàng khó chịu. Tsitsikôp vẫn không chịu thua. Lần thứ ba y lại tấn công, lần này thì sau bữa ăn tối. - Ấy thế nhưng cứ suy xét tình cảnh của ông cho đủ mọi mặt, tôi vẫn thấy rằng ông cần cưới vợ; nếu không, chứng ưu uất đang rình ông đấy. Không biết vì lần này lời lẽ của Tsitsikôp có sức thuyết phục hơn, hay vì Tentietnikôp đang lúc sẵn sàng cởi mở tâm tình hơn thường lệ mà chỉ thấy chàng thở dài và nói sau khi rít một hơi thuốc lá: - Muốn gì cũng phải tốt số mới được, Paven Ivannôvits ạ. Rồi chàng kể cho Tsitsikôp nghe cặn kẽ câu chuyện chàng đoạn tuyệt với vị tướng. Sau khi nghe kể từ đầu chí cuối và nhận định rằng chung quy chỉ vì tiếng “anh” mà xảy ra xích mích, Tsitsikôp ngẩn người ra. Trong khoảng một phút, y nhìn chằm chằm vào tận mặt Tentietnikôp, không biết nên nghĩ thế nào về chàng cả: đó có phải là một thằng ngốc thực thụ không hay chỉ là một gã dở hơi? - Anđrêi Ivannôvits! Y cầm lấy hai tay Tentietnikôp nói: - Ông thử nghĩ xem, như thế mà gọi là một sự lăng mạ à? Trong tiếng “anh” phỏng có gì là láo xược? - Nguyên tiếng ấy thì không có gì láo xược, Tentietnikôp nói; nhưng cái ý nghĩa mà người ta gán cho nó, cái giọng của người ta khi nói nó lên là một lối lăng mạ. “Anh” ở đây có nghĩa là “Anh hãy nhớ rằng anh chẳng đáng giá bao nhiêu; ta sở dĩ tiếp anh chỉ vì không có ai hơn; nhưng khi có một công tước phu nhân Yuziakina đến, anh hãy biết thân, biết phận; đừng có bước qua ngưỡng cửa”. Đấy, ý nghĩa của nó là như thế đấy! Trong khi nói mấy câu ấy, mắt của chàng Anđrêi Ivannôvits hiền lành ấy sáng quắc lên; giọng nói chứa chất nỗi uất ức của lòng tự ái bị tổn thương. - Nhưng dù có ngụ ấy thì đã sao! Tsitsikôp nói. - Sao! Ông muốn nói rằng sau một hành vi như thế mà tôi vẫn cứ lui tới nhà ông ta à? - Nhưng nào có phải hành vi gì đâu, Tsitsikôp điềm nhiên đáp. - Sao lại thế? Tentietnikôp ngạc nhiên hỏi. - Đó không phải là một hành vi mà chỉ là một thói quen của con nhà tướng; các vị tướng ấy thì ai họ cũng gọi bằng anh. Vả lại tại sao lại không cho phép một người đáng kính, có công với Tổ quốc, được có một thói quen như vậy? - Cái đó có khác, Tentietnikôp nói. Nếu đó không phải là một ông tướng hống hách, mà là một ông già tội nghiệp thì tôi đã để cho ông ta gọi tôi bằng anh một cách dễ dàng; tôi còn nhận lối xưng hô đó một cách kính cẩn nữa là khác. “Cái thằng cha ngốc thật! Tsitsikôp nghĩ bụng. Một lão khố rách gọi bằng anh thì được, còn một vị tướng thì lại không!” - Được! Y lại nói to lên. Thì cứ cho rằng ông ta đã lăng mạ ông; nhưng ông đã ăn miếng trả miếng rồi còn gì; thế là xong cả, xúy xóa rồi. Đằng này lại chỉ vì một chuyện vặt ấy mà xích mích với nhau, tuyệt giao với nhau, quên cả mối lợi của mình; ấy xin lỗi, thế thì thật là… Đã vạch ra cho mình một mục đích thì phải trèo đèo, lội suối mà đạt cho kỳ được chứ. Tại sao lại cứ đinh ninh là người ta trịch thượng với mình. Bao giờ mà chả thế: con người bản tính vốn như vậy. Bây giờ ở trên đời ông không thể tìm đâu một con người không trịch thượng. “Cái lão Tsitsikôp này khác đời thật!” Tentietnikôp nghĩ thầm; trong lòng thấy băn khoăn, khó nghĩ trước những lời lẽ đó. “Cái lão Tentietnikôp này khác đời thật!” Ivannôvits tự nhủ. - Anđrêi Ivannôvits ạ, tôi xin lấy tình anh em nói với ông. Ông thiếu kinh nghiệm lắm, xin ông để cho tôi dàn xếp việc này. Mai tôi sẽ đến gặp Tướng công; tôi sẽ giãi bày cho ngài rõ rằng thái độ của ông là do một sự hiểu lầm mà ra, là do ông còn thiếu lịch duyệt và không hiểu biết gì mấy về con người và việc đời. - Tôi không có ý định lê gối trước mặt ông ta, Tentietnikôp chạnh lòng nói, và tôi không thể để ông làm như vậy được. - Tôi không có thể lê gối trước mặt ai cả, Tsitsikôp cũng phật lòng đáp lại. Tôi có thể phạm một lỗi lầm, bản tính con người vốn dĩ như thế; nhưng làm một việc hèn hạ thì không đời nào… Ông thứ lỗi cho cái thiện ý của tôi, Anđrêi Ivannôvits ạ; tôi không ngờ những lời tôi nói lại bị hiểu theo một nghĩa nhục nhã như vậy. Những câu vừa rồi được nói lên với một giọng khá chững chạc. - Ông thứ lỗi cho tôi! Tentietnikôp vội cầm lấy tay Tsitsikôp nói. Tôi không ngờ lại làm ông phật ý; thiện ý của ông làm tôi rất cảm động, tôi xin thề với ông như thế. Nhưng ta hãy gác chuyện này lại. Ta sẽ không bao giờ nhắc đến chuyện này nữa. - Nếu thế, tôi vẫn cứ đến nhà tướng quân. - Để làm gì? Tentietnikôp hỏi, băn khoăn nhìn vào mặt khách. - Để chào ngài. - “Cái lão Tsitsikôp này khác đời thật!” Tentietnikôp nghĩ thầm. - “Cái lão Tentietnikôp này khác đời thật!” Tsitsikôp cũng nghĩ thầm. - Ngày mai, mười giờ tôi sẽ sang bên tướng quân, Anđrêi Ivannôvits ạ. Theo tôi thì đến hỏi thăm càng sớm càng hay. Vì chiếc briska của tôi chữa chưa xong, xin ông vui lòng cho phép tôi được dùng chiếc xe tứ mã của ông. - Tại sao ông lại phải hỏi mượn? Ông là chủ nhân ở đây; cái gì ở đây cũng thuộc quyền ông sử dụng, cả cỗ xe cũng vậy. Sau buổi nói chuyện, họ chúc nhau ngủ ngon giấc và trở về buồng riêng; người này không khỏi ngẫm nghĩ về những cái kỳ quặc của người kia. Song kể cũng lạ thật! Sáng hôm sau, khi người nhà đã thắng ngựa và Tsitsikôp mình mặc áo đuôi én, cổ thắt cà vạt trắng, đã leo lên xe một cách nhanh nhẹn, gần như dáng quân nhân, để sang thăm vị tướng; thì Tentietnikôp thấy lòng xao xuyến khác thường, vì một cảm giác mà đã từ lâu chàng không hề có. Dòng tư tưởng thường ngày trôi uể oải, nay đã nhường chỗ cho một sức hoạt động bồng bột. Những cảm xúc rối loạn như trong cơn sốt bỗng tràn vào tâm hồn con người trước đây vẫn lười biếng, dửng dưng ấy. Chàng ngồi lên một chiếc ghế dài, bước ra cửa sổ, với lấy một quyển sách, rồi bỏ xuống để thử suy nghĩ. Vô ích; những ý nghĩ không chịu đến cho. Hoặc giả chàng cố gắng đừng nghĩ gì hết. Cũng không ăn thua: những mảng ý nghĩa, những hồi ức mơ hồ không biết từ đâu cứ hiện ra, len lỏi vào óc chàng! - Thật là những cảm giác lạ lùng! Chàng vừa nói vừa đi ra cửa sổ để nhìn con đường chạy qua khóm rừng sồi; một đám bụi chưa kịp tan hết còn lơ lửng ở ven rừng. Nhưng ta hãy từ giã Tentietnikôp để đi theo Tsitsikôp.