ưu Bị nhìn chăm chăm vào Gia Cát Lượng, dặn dò than thở rằng: “Ông mới gấp mười Tào Phi, ắt sẽ giữ yên được nước, định được đại sự, nếu có thể giúp được ấu chúa thì giúp, nếu thấy nó bất tài, ông hãy tự mình thay thế”. l. Lục Tốn phản công, Lưu Bị đại bại Một người là lão tướng xa trường từng trải trăm trận, kinh nghiệm phong phú, song rất ít thành công; Một người là thống soái thư sinh bước ra từ lều cỏ, sở trường lập kế hoạch, song trưởng thành từ tuổi trẻ, chưa trải qua thất bại; Một người lòng đầy phẫn nộ, tình cảm xao động quyết tâm trả thù; Một người mưu lược đầu óc bình tĩnh, có suy nghĩ lý tính. Hai lực lượng này từ tháng 7 năm Hoàng Sơ thứ hai đến tháng 6 năm Hoàng Sơ thứ ba, từ chuẩn bị điều động đến đối trận kéo dài suốt một năm, riêng thời gian giáp trận, cũng kéo dài đến 6, 7 tháng. Tháng 6 nhuận, Lục Tốn rất kiên trì giữ thành, đợi thời cơ chín muồi mới quyết định chủ động phản kích. Từ Thịnh là tướng lĩnh mà lại khờ khạo, cho rằng “Muốn đánh Lưu Bị thì khi ông ta mới đến Hồ Đình, trận địa chưa ổn định mới là đúng, nay ông ta đã lập trại vững chắc suốt sáu, bảy trăm dặm, đã được 7, 8 tháng, và bố trí binh lực hoàn thiện ở các nơi xung yếu, có đánh ắt sẽ bất lợi vậy”. Lục Tốn cười mà rằng: “Lưu Bị có kinh nghiệm tác chiến phong phú, hơn nữa lần này lại có chuẩn bị mà đến. Khi họ mới tập kết, suy nghĩ ắt khá chu đáo, có đánh họ cũng rất bất lợi, nay họ đóng đồn đã lâu, lại không có được thuận lợi gì, tướng không lập công, quân thì mỏi mệt, lại không vạch được kế hoạch gì, nghĩ rằng thời cơ đánh được họ chính là lúc này”. Thế rồi phái đạo quân Chu Nhiên đến tấn công mặt trước doanh trại Lưu Bị, song phải lập tức rút quân ngay về vì bất lợi. Từ Thịnh nói mát rằng: “Đấy chẳng phải là hiển nhiên tổn thất không ít binh sĩ?”. Lục Tốn lại rất tự tin mà rằng: “Ta đã biết phải làm gì để đánh bại đại quân của Lưu Bị rồi”. Tháng 6 nhuận, vùng Hoa Trung gió mùa đông nam rất mạnh, Lục Tốn hạ lệnh cho đại quân Chu Nhiên theo đường thủy ngược dòng mà lên, trực tiếp đánh vào đại bản doanh của Lưu Bị ở Hồ Đình, trên thuyền chứa nhiều cỏ khô và đồ dẫn lửa, dự định sẽ đánh hoả công. Hàn Đương và Phan Chương đi vòng đưòng bên phải tiến sâu vào Trác Hương hai trăm dặm dự định chặt đứt đường rút của đội tiên phong Lưu Bị. Từ Thịnh và Tống Khiêm sẽ đánh vào Di Đạo, giải vây cho Tôn Hoàn, sau sẽ hợp với quân Tôn Hoàn từ Nam Ngạn đánh thẳng vào doanh trại Di Lăng. Nếu tất cả thuận lợi, sẽ vượt sông ở Trác Hương hợp quân với Hàn Đương theo hướng tây đuổi đánh Lưu Bị đên tận Tỉ Qui. Các đội quân mang theo cỏ khô và đồ dẫn lửa, khi đánh vào trại Thục thuận theo chiều gió mà nổi lửa, quân Thục từ Hồ Đình đến Tỉ Qui có 40 trại, chỉ thiêu 20 trại giãn cách mà đốt để tiết kiệm nhân lực và vật lực, chỉ cần tạo ra sự hỗn loạn trong quân Thục là được. Các đạo quân mang theo lương khô, không được nghỉ ngơi và tạm rút, sớm tối truy kích, quân Thục ắt sẽ chạy đến cửa Tam Hiệp, đương nhiên nếu bắt sống được Lưu Bị, được xem là công lớn nhất. Đối với việc động binh nhanh chóng của quân Đông Ngô, quân sĩ tiền tiêu của Lưu Bị tự nhiên đã phát giác ra. Song do mấy ngày trước đó, từng xảy ra mấy trận đánh ở trước doanh trại, quân Thục cho rằng quân Đông Ngô binh lực không mạnh, bởi thế ngoài việc mau chóng báo cáo với Lưu Bị, đợi chỉ thị, đều chưa có sự ứng biến khẩn cấp nào. Quả nhiên đúng như Lục Tốn dự liệu, Lưu Bị ở Trại Hồ Đình tiếp tục được báo cáo, lập tức hạ lệnh cho Phùng Tập, Trương Nam vội nghênh chiến, lại thông báo cho Ngô Ban vượt sông lên phía bắc, tự phía nam đánh vào quân chủ lực của Lục Tốn. Lưu Bị lúc đó chẳng ngờ Lục Tốn không kéo quân đến trước Phùng Tập và Trương Nam, mà từ đường thủy đi vòng đánh vào đại bản doanh ở Hồ Đình. Bởi thế sau khi đã sắp đặt đâu đấy, Lưu Bị vẫn ở tại sở chỉ huy chờ đợi tập hợp tin tình báo để bố trí hành động tiếp theo. Khoảng nửa đêm gần sáng, quân tiêu binh trên bờ phát hiện rất nhiều thuyền Đông Ngô ngược dòng mà lên đánh vào đại bản doanh Hồ Đình. Lưu Bị cả sợ lập tức hạ lệnh toàn doanh trại chuẩn bị chiến đấu. Lúc đó gió đông nam thổi mạnh, Chu Nhiên ở trên thuyền phát động hoả công, doanh trại Lưu Bị lập tức bốc lửa. Lúc ấy đang là mùa hạ, doanh trại Lưu Bị phần nhiều ở bên rừng cây để tránh nóng. Lửa làm cháy cây, doanh trại Hồ Đình lập tức rơi vào biển lửa. Quân Thục trong lúc hoảng loạn, tự giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết không biết bao nhiêu mà kể. Quan tế tửu Trình Kỳ thấy đại thế đã mất, lập tức hộ tống Lưu Bị chạy về phía tây, lại thông báo cho các trại đến để hộ giá. Phùng Tập và Trương Nam đang ở tiền tiêu, nghe nói đại bản doanh có biến, lập tức mặc kệ quân chủ lực của Lục Tốn, rút về phía tây, đến cứu viện cho Lưu Bị. Ngô Ban mới vừa vượt qua sông Trường Giang, chuẩn bị tập kích Lục Tốn ở bờ bắc; lại chỉ thấy trống rỗng, biết có chuyện không hay, lập tức hạ lệnh rút về phía tây. Không lâu lại thấy các trại Thục bên bờ sông bốc lửa; Ngô Ban không nghĩ đến việc ở Di Đạo, chỉ biết khẩn cấp đến Hồ Đình chi viện. Quân Thục đang bao vây Di Đạo, chẳng hề có chuẩn bị, lại bị Từ Thịnh, Tống Khiêm từ phía sau tập kích, Tôn Hoàn nhân cơ hội giáp công, cơ hồ toàn quân tan tác, số đầu hàng không biết bao nhiêu mà kể. Quân Chu Nhiên chưa lên bờ, trực tiếp theo đường thủy tiến đánh Trác Hương, chuẩn bị phối hợp với Hàn Đương, Phan Chương cắt đứt đường rút của Lưu Bị. Từ lúc trời sắp sáng, sức gió rất lớn càng giúp lửa bốc cao, khắp Hồ Đình đến Di Lăng, các trại đều bốc lửa, Lưu Bị chỉ biết vượt qua Di Lăng, chuẩn bị rút về thành Tỉ Qui để phòng ngự. Song lúc đó Hàn Đương, Phan Chương đã đi vòng phía bắc chiếm được Trác Hương, hoàn toàn cắt đứt đường rút của quân Thục. Quân Từ Thịnh, Tống Khiêm, Tôn Hoàn từ Di Đạo kéo về phối hợp với quân chủ lực của Lục Tốn từ phía đông tiến công lên. Quân Chu Nhiên theo đường thủy giáp công, trước mặt quân Hàn Đương lại bày ra tường đóng vách sắt để ngăn cản. Phùng Tập, Trương Nam, Ngô Ban đều đã hợp quân lại trong lúc hoảng loạn đại bộ phận binh lực đều tan tác. Ngô Ban tự nguyện dẫn đội cảm tử đánh thẳng vào quân Hàn Đương, toan mở một con đường máu. Phùng Tập chặn hậu, Trương Nam thì hộ tống Lưu Bị, rút chạy về Mã Yên Sơn ở phía đông bắc Trác Hương. Ngô Ban liều chết một mình một ngựa, đột phá tuyến phòng ngự của Hàn Đương, song quân Phan Chương lập tức lấp lỗ trống khiến quân Thục của ông ta chẳng thể vượt qua. Ngô Ban muốn quay đầu lại để hộ tống Lưu Bị song quân lực ít, căn bản không đủ sức giao chiến chỉ dẫn theo tàn quân, vượt qua thành Tỉ Qui, đến thẳng Giang Châu để báo với Triệu Vân đến chi viện. Quân chặn hậu của Phùng Tập quay lại đánh dữ, để Lưu Bị tranh thủ có thời gian rút chạy. Chẳng bao lâu, bên mình chỉ còn lại vài chục kỵ binh, lại gặp quân Từ Thịnh, Phùng Tập thét to một tiếng, một ngựa xung sát, lập tức bị chém nhừ như tương. Trương Nam cùng phó tướng là Phó Đồng, hộ tống Lưu Bị và Trình Kỳ cùng tùy tùng chạy về Mã Yên Sơn, Từ Thịnh, Tống Khiêm, Chu Nhiên đuổi gấp phía sau, Phó Đồng, Trình Kỳ đều bị lạc cả. Trương Nam thấy đại thế đã mất, dặn dò ngự lâm quân hộ tống Lưu Bị rút trước, tự mình dẫn tàn dư đội quân thứ ba quay lại đánh quân Ngô. Từ Thịnh tuy dốc toàn lực tấn công, song Trương Nam cương quyết không lùi, vẫn cố gắng cầm giữ để Lưu Bị an toàn rút về trong núi, tàn quân của Trương Nam cũng tan tác cả, bản thân Trương Nam cũng chết trong đám loạn quân. Phó Đồng bảo vệ Trình Kỳ rút đến bờ sông, nghe nói Lưu Bị rút về Mã Yên Sơn, Trình Kỳ bèn đốc thúc Phó Đồng lập tức phá vây, đến đó chi viện. Tự mình với các viên tham mưu dẫn tàn quân ở bên sông, đợi quân Đông Ngô đến, chẳng bao lâu đều bị giết cả, Trình Kỳ không muốn bị bắt, tự sát mà chết. Hồ Vương Sa Ma Kha dẫn quân dự bị đến đóng ở Tỉ Qui trước đó, nghe tin tiền tuyến thua trận, lập tức dẫn quân chi viện gặp ngay Hàn Đương, Phan Chương đánh đến, Sa Ma Kha không địch nổi chết trong đám loạn quân. Giang Bắc đốc quân Hoàng Quyền nghe có biến cũng dẫn quân xuống phía nam, hăng hái phản kích quân chủ lực của Lục Tốn, song quân lực rất ít bị đánh tả tơi, Hoàng Quyền chỉ biết quay đầu rút chạy, nhìn thấy phía nam đã bị quân Ngô hoàn toàn cắt đứt, chẳng có cách nào rút về Thục Trung, Hoàng Quyền chỉ biết vọng về phía trại của Lưu Bị mà quỳ lạy, dẫn quân ngược phía bắc theo về với Tào Ngụy. Tàn quân của Lưu Bị sau khi rút về Mã Yên Sơn lập tức phòng bị quanh núi, không lâu lại thấy Phó Đồng đến phối hợp mới thấy yên tâm. Lục Tốn dẫn quân đến bao vây Mã Yên Sơn, quân Thục liều chết kháng cự, chiến đấu ác liệt hơn một ngày, quân Thục bị chết rất nhiều, Phó Đồng khuyên Lưu Bị đột phá vòng vây. Lưu Bị cũng lo lắng quân Thục tan tác cả, bèn nhân đêm tối mà thoát khỏi vòng vây, bởi thành Tỉ Qui đã mất, Lưu Bị chỉ biết tiếp tục chạy về phía tây vượt qua Vu Huyện, chạy thẳng đến thành Bạch Đế. Phó Đồng chận hậu, thiêu hủy các xe quân nhu trên đường để làm vật cản, ngăn chặn truy binh vừa đánh vừa chạy, ở vùng gần Tỉ Qui, bị Từ Thịnh, Chu Nhiên đuổi kịp, Phó Đồng bị bao vây trùng trùng không thoát nổi. Từ Thịnh tiếc là người trung dũng, đã gọi hàng, song Phó Đồng cắn chặt hàm răng thúc ngựa tiếp tục chiến đấu, cuối cùng kiệt sức chết trong đám loạn quân. 2. Lấy đại cục làm trọng Lục Tốn rút đại quân. Lưu Bị sau khi rút về thành Bạch Đế, không khỏi than thở rằng: “Chẳng ngờ ta đại bại gã Lục Tốn trẻ tuổi, há chẳng phải là mệnh trời ư!” Hình như những con sóng Trường Giang cũng truyền lan lời than này. Lần này số quân của Lưu Bị tổn thất hơn một vạn người, còn những chiến thuyền, khí giới, xe cộ, quân nhu mang theo, cơ hồ đều bị mất cả. Chỉ có quân sĩ của nha môn tướng Hướng Sủng, vẫn duy trì được kỷ luật trong lúc hoảng loạn, chẳng mất một người, đều rút về thành Bạch Đế, trở thành quân cận vệ lâm thời của Lưu Bị, tăng cường việc phòng ngự, khiến Lưu Bị cũng được nghỉ ngơi một chút. Đây là câu chuyện mà sau này Gia Cát Lượng trong Xuất Sư Biểu có nhắc đến: “Tướng quân Hướng Sủng, tính hạnh thuần thục, hiểu rõ việc quân, đã thấy ở việc cũ, từng được tiên đế khen ngợi”. Triệu Vân đang ở Giang Châu được Ngô Ban báo tin khẩn cấp, lập tức hạ lệnh cho toàn quân sẵn sàng chiến đấu, lại cho sứ giả vội báo tin cho Gia Cát Lượng ở Thành Đô. Tự mình dẫn một số quân, đến thẳng tiền tuyến xem xét quân tình. Nghe nói Lưu Bị đã rút về thành Bạch Đế, Triệu Vân lập tức hạ lệnh cho quân sĩ đóng ở Vu Huyện, dựa vào hiểm trở mà cố thủ để ngăn cản quân Đông Ngô truy đuổi. Được quân Triệu Vân bảo vệ, Lưu Bị đã có thể hoàn toàn yên tâm, thế rồi ông ta đổi Ngư Phúc thành đất Vĩnh An, tĩnh dưỡng ở đấy, tạm thời không về Thành Đô, việc phòng vệ chiến tuyến phía đông giao cho Triệu Vân phụ trách. Trong suốt chiến dịch, quân Triệu Vân chưa vượt quá Vu Huyện, quân Lục Tốn cũng chưa vượt qua phòng tuyến này. Tam quốc diễn nghĩa đã miêu tả Triệu Vân đến hộ giá ở Mã Yên Sơn, một ngựa đẩy lùi quân Lục Tốn, cùng câu chuyện Lục Tốn dẫn quân truy đuổi bị mắc vào “Bát trận đồ”, hiển nhiên đểu là những tình tiết hư cấu khoa trương của nhà viết tiểu thuyết mà thôi. Khi Lưu Bị đã rút về thành Bạch Đế, thì các tướng lĩnh Từ Thịnh, Phan Chương đều rối rít dâng biểu lên Tôn Quyền, chủ trương nhân cơ hội này tấn công thành Bạch Đế, ắt sẽ bắt sống được Lưu Bị, đánh bại quân Triệu Vân. Tôn Quyền hỏi ý kiến Lục Tốn, Lục Tốn cùng với Chu Nhiên đều nói rằng: “Theo tin do thám phương bắc cho thấy, Tào Phi đang có sắp xếp lớn về quân đội, ngoài mặt nói là giúp chúng ta đánh Lưu Bị, thực ra là muốn tìm cơ hội đánh vào chiến tuyến phía đông của chúng ta, bởi thế cần lấy đại cục làm trọng, nên kết thúc chiến tuyến phía tây, để tăng cưòng việc bố trí quốc phòng”. Tôn Quyền thấy thái độ cương quyết của Lục Tốn, hơn nữa lại tập hợp đầy đủ tin tình báo, suy xét mọi mặt, bèn hạ lệnh toàn diện rút quân... 3. Gia Cát Lượng và trách nhiệm trước cuộc chiến vừa qua. Tam quốc diễn nghĩa có dẫn câu thơ của Đỗ Phủ cảm khái về Bát trận đồ của Gia Cát Lượng: “Công trùm cả ba nước, danh thơm Bát trận đồ, sông trôi đá chẳng chuyển, hận chẳng nuốt xong Ngô”. La Quán Trung đã miêu tả Lục Tốn đuổi đánh Lưu Bị đến Vu Huyện, lại bị Gia Cát Lượng mai phục sẵn, nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn cứu giúp mới có thể thoát được nguy hiểm. Hoàng Thừa Ngạn lại hình dung Bát trận đồ “Biến hoá vô cùng chẳng thể học được”, tô vẽ như chuyện thần tiên khiến người đời sau kinh ngạc không thôi. Thực ra Bát trận đồ chỉ là sa bàn đóng quân mà Gia Cát Lượng bày ra mà thôi, chẳng phải đặc biệt thần bí, hồi sau xin bàn thêm. Song thánh thơ Đỗ Phủ sinh ở đời Đường làm sao lại có câu thơ cảm thán như thế? Có thể ở đời Đường, dân gian đã có câu chuyện lưu truyền như thế. La Quán Trung sau này viết tiểu thuyết, cụng là căn cứ vào câu chuyện mà Đỗ Phủ đã kể mà thôi. Song, Tô Đông Pha đời Tống, khi nói về bài thơ ấy, lại chỉ ra rằng, bài thơ ấy của Đỗ Phủ cảm thán Gia Cát Lượng chưa có thể ngăn cản cuộc chiến tranh của Lưu Bị muốn thôn tính nước Ngô, tạo thành sự đại bại sau này, để hận suốt đời (theo Đông Pha chí lâm). Tuy Đông Pha lấy quan điểm sử học để giải thích thơ Đỗ Phủ, song từ việc này có thể thấy, ở đời Đường đối với di tích Bát trận đồ đã có những truyền thuyết thần bí. Thực ra Lục Tốn chưa từng đuổi đánh Lưu Bị đến Vu Huyện, càng không thể bị nguy khốn ở Bát trận đồ. Lục Tốn sau khi về nước, được phong làm Phụ quốc tướng quân, chức Kinh Châu mục, sau lại phong làm Giang Lăng hầu. Cuốn “Thư trị thông giám” có chép việc tự kiểm điểm của Gia Cát Lượng với vấn đề này: Đầu tiên, Gia Cát Lượng và Thượng thư Pháp Chính, ý kiến về chính trị thường có chỗ bất đồng, song kỳ mưu trí thuật của Pháp Chính, lại rất làm cho Gia Cát Lượng ngưỡng mộ. Pháp Chính mất vào năm thứ hai, Lưu Bị xưng là Hán Trung Vương, song sau khi tin Lưu Bị thua trận truyền về Thành Đô, Gia Cát Lượng vẫn than rằng: “Pháp Chính nếu còn, ắt có thể ngăn cản chúa thượng đông chinh, kể như chúa thượng vẫn kiên trì đông chinh, có ông ta giúp đỡ kế sách, cũng không thể dẫn đến thất bại hôm nay”. Pháp Chính từng nêu kế sách đưa Lưu Bị vào Thục, tự mình làm nội ứng, Lưu Bị có được Tứ Xuyên, ông ta với Trương Tùng đã mất có công rất lớn. Sau này Pháp Chính làm Tổng tham mưu trưởng, giúp đỡ Lưu Bị lấy được Hán Trung, trong doanh trại của Lưu Bị, ông ta vẫn được gọi là chủ mưu, các kế hoạch kỳ lạ của ông, rất được Lưu Bị tín nhiệm. Bởi thế nếu như ông vẫn còn khoẻ, có thế nghĩ ra biện pháp tốt để ngăn cản Lưu Bị xuất binh. Nói một cách nghiêm chỉnh về việc Lưu Bị đông chinh, Gia Cát Lượng đang làm thừa tướng, tuy không tán thành song chưa cực lực phản đối. Triệu Vân và Tần Mật đều đã phản đối mạnh mẽ, Gia Cát Lượng là người bầy tôi đứng đầu lại chưa từng có lời nào. Ngoại trừ việc ông ta rất hiểu rõ Lưu Bị, biết có khuyên nhủ cũng chẳng có tác dụng, từ lời cảm than với Pháp Chính thì thấy ở sự kiện này, cũng có sai lầm về phán đoán. Trong Long Trung Sách, Gia Cát Lượng sớm đã xác định quốc sách cơ bản là “Liên Ngô kháng Tào”, song kế sách trọng yếu lại là nắm hai châu lớn Kinh, Ích, để làm cơ sở bắc phạt Trung Nguyên sau này. Trận Xích Bích, Gia Cát Lượng lấy sách lược khôn khéo đoạt được ba quận Kinh Nam, lại lấy thủ đoạn ngoại giao kiệt xuất mượn được đại bộ phận Kinh Châu, để làm tiền vốn cho Lưu Bị tranh bá với thiên hạ. Tiếp đó ông ta với cương vị tổng quản lý kế hoạch trong trướng Lưu Bị, ở vị trí phó thổng soái phụ trách công tác điều hành dưới trướng của Lưu Bị. Như trên đã nói, trong việc thúc đẩy “nghiệp vụ” Gia Cát Lượng lại không làm vai diễn chính, mà để Bàng Thống và Pháp Chính nắm công tác vạch kế hoạch. Ít thể hiện trên sàn diễn, song trên thực tế nhiệm vụ của Gia Cát Lượng rất trọng yếu. Đã thành lệ, Lưu Bị thường bị kiêm nhiệm việc lập kế hoạch khi xuất trận, bởi thế Gia Cát Lượng cũng thường ở bên ông, để thúc đẩy việc ổn định và chi viện đại bản doanh, rất cần có một người tin cậy được tín nhiệm hoàn toàn, hơn nữa có thể một mình đảm đương đại cục. Gia Cát Lượng sau khi điều hành ở Kinh Châu, lại điều hành ỏ Ích Châu, trách nhiệm của ông ta so với quân sư trận mạc thì quan trọng hơn nhiều, cũng thấy rõ Lưu Bị đã tín nhiệm và trọng dụng ông ta vượt cả Bàng Thống và Pháp Chính. Đương nhiên biểu hiện của Bàng Thống và Pháp Chính cũng khá kiệt xuất, Ích Châu và Hán Trung nhờ sự hoạch định của họ, đã hoàn toàn giành được thuận lợi. Đáng tiếc hai người không được thọ, trong thời khắc rất trọng yếu đều theo nhau từ trần, điều này đối với sự phát triển nghiệp của Lưu Bị là một đòn đánh rất lớn. Nhiệm vụ quản lý của Gia Cát Lượng rất trọng yếu, bởi thế chẳng thể kiêm nhiệm lập kế hoạch cụ thể, mà Lưu Bị vẫn thiếu bộ phận này. Hoàng Quyền, Mã Lương kế tục tuy đều là những nhân tài, song so với Bàng Thống, Pháp Chính và Gia Cát Lượng đều thấp hẳn một đầu. Thiếu mất người lập kế hoạch ưu tú, Lưu Bị cuối cùng trong chiến dịch đông chinh quan trọng, gặp phải thất bại nặng nề. Gia Cát Lượng đối với nhược điểm của Lưu Bị, đã khá hiểu rõ, song ông ta vì sao chưa tận lực ngăn cản Lưu Bị phát động cuộc chiến tranh mù quáng này? Từ việc làm của ông ta sau này thì thấy, chẳng phải như ông ta than thở thiếu Pháp Chính ở bên hoặc Lưu Bị chưa hẳn đã tín nhiệm ông, mà chính là ông ta rất bận rộn. Sau khi chiếm được Ích Châu và Quan Trung, nhất định có không ít vấn đề nội chính, kinh tế và tài chính, cần được lập tức xử lý, quy hoạch, và thúc đẩy. Sau khi mất Kinh Châu, tình hình chung nhiều biến động, càng tăng thêm không ít khó khăn về ngoại giao và quốc phòng. Lưu Bị sau khi Quan Vũ và Trương Phi nối nhau từ trần, rối loạn đầu óc, gánh nặng quốc gia đè lên vai Gia Cát Lượng, có thể tin rằng ông ta đã bận đến mức chẳng có thời gian để hỏi han việc Lưu Bị đông chinh. Bởi thế ở giai đoạn này, ông ta thực tế không đưa ra được ý kiến hoàn chỉnh hoặc có tính xây dựng, lòng luôn vội vàng, đến một chút biện pháp cũng chẳng có, đối với Gia Cát Lượng mà nói, đó là nỗi khổ tâm không nén nổi. Song, Gia Cát Lượng chẳng có sự ngăn cản lớn với cuộc đông chinh của Lưu Bị, tin rằng ông ta cũng khá tin tưởng. Ông ta cho rằng nước Thục lực lượng đã thành, Lưu Bị có kinh nghiệm mấy lần đại thắng, hơn nữa với Tào Tháo giao chiến ở Hán Trung, lại bức Tào Tháo phải rút chạy, thấy rõ ông ta trong việc chỉ huy trận đánh lớn đã hoàn toàn thành thục. Lại thêm phía Đông Ngô các đại tướng tài giỏi như Chu Du, Lỗ Túc, Trình Phổ, Lã Mông đều nối nhau từ trần, đối với Lưu Bị mà nói, là không có nguy cơ lớn. Chẳng ngờ Đông Ngô lại xuất hiện Lục Tốn có thiên tài quân sự, là người mà lúc đầu Gia Cát Lượng chưa dự liệu đến. Bộ Tổng tham mưu đông chinh lần này, cơ hồ đều bị xoá sổ, lão thần Mã Lương chủ nhiệm ban tham mưu bị chết ở trận Ngũ Khê. Trình Kỳ ở bên sông cũng tự sát mà chết, đến như Hoàng Quyền vẫn được Gia Cát Lượng xem trọng, bởi bất đồng với Lưu Bị mà được điều làm Giang Bắc đốc quân, sau chiến bại, mất đường về bất đắc dĩ cũng phải đầu hàng quân Tào. 4. Chân thành cùng trao đổi, vua tôi chẳng hồ nghi. Trong thời kỳ Lưu Bị dưỡng bệnh ở Vĩnh An, Gia Cát Lượng đã mấy lần phái Thượng thư Lưu Ba và Trung lang tướng Tạ Viện đến thăm, song Lưu Bị tựa hồ đã uỷ thác mọi việc quốc gia đại sự cho Gia Cát Lượng, chưa có chỉ thị gì. Có mấy lần Gia Cát Lượng muốn đến Vĩnh An để cùng Lưu Bị bàn về việc nước, song bởi việc ở Thành Đô quá bận rộn chẳng thể đi được, mà Lưu Bị cũng có thư chỉ thị, phải lấy việc quốc gia làm trọng, chớ lo lắng đến ông ta mà khéo léo từ chối việc Gia Cát Lượng đến thăm. Không lâu, có tin Hoàng Quyền đã đầu hàng quân Ngụy. Các đại thần ở Vĩnh An đều chủ trương bắt gia quyến Hoàng Quyền trị tội. Lưu Bị lại thở dài mà rằng: “Chính ta phụ lại Hoàng Quyền, mà chẳng phải Hoàng Quyền phụ ta vậy!”. Lại hạ lệnh đặc biệt chiếu cố đến gia quyến của Hoàng Quyền ở Thành Đô. Mặt khác, Tào Phi ở Lạc Dương cũng cho vời Hoàng Quyền đến. Tào Phi nói với Hoàng Quyền: “Tướng quân đã bỏ Lưu Bị, về đầu hàng trẫm, là bỏ trái về với phải, là muốn theo gót Trần Bình, Hàn Tín bỏ Sở về với Hán ngày xưa vậy!”. Hoàng Quyền lại thản nhiên nói: “Thần từng được sự hậu đãi của Lưu chủ, bởi thế dứt khoát chẳng thể hàng Ngô, lại chẳng có đường về với Thục, bởi không muốn thuộc hạ phải hy sinh không ít mới phải đến đây đầu hàng. Hơn nữa phải làm một viên bại tướng, khỏi chết đã là may mắn lắm, đâu còn dám mô phỏng với việc làm của cổ nhân!’’. Tào Phi rất cảm mến nhân cách và tài hoa của Hoàng Quyền, cho ông ta làm Trấn nam tướng quân, phong Dục dương hầu, lại cho làm Thị trung ở bên mình, làm tấm gương chiêu hồi. Lúc đó lại có tin gia quyến Hoàng Quyền bị sát hại, Tào Phi muốn phát tang cho. Song Hoàng Quyền lại phản đối, ông ta cho rằng: “Thần với Lưu Bị vẫn chân thành cùng trao đổi, họ nhất định hiểu được nỗi khổ của thần, dứt khoát không thể sát hại gia quyến của thần, thần tin rằng những tin tức này không đúng, xin để điều tra rõ!”. Sau này thấy đó chỉ là những lời đồn tầm bậy mà thôi! Tào Phi thấy Lưu Bị và Gia Cát Lượng có thể thu phục thuộc hạ như thế, cảm thán mãi không thôi. Không chỉ với Lưu Bị, Hoàng Quyền mà Gia Cát Lượng cũng vẫn duy trì được sự cảm thông cao độ. Tam quốc chí có chép, sau này Tư Mã Ý có viết thư cho Gia Cát Lượng bày tỏ sự ngợi khen: “Hoàng Quyền là người chính trực, thường không ngại ngần biểu lộ sự ngưỡng mộ của ông ta đối với ngài”. Con trai của Hoàng Quyền là Hoàng Sùng, sau này trước ngày nước Thục diệt vong, theo con trai Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm chiến đấu ở Miên Trúc đã hy sinh tại trận. Lưu Bị trong lúc tĩnh dưỡng, ở tiền tuyến đã có Triệu Vân canh giữ, hậu phương lại có Gia Cát Lượng điều hành tự nhiên cũng thấy yên tâm nhiều. Song mất hai người bạn thủa sáng nghiệp là Quan Vũ và Trương Phi, bị Lục Tốn đánh bại trong cuộc đông chinh, đối với ông là những đòn đánh rất lớn, tâm can suy kiệt, sức khoẻ ngày mỗi giảm sút. Vừa may Thái thú Ba Tây là Diêm Chi phái Mã Trung người Hán Xương dẫn 5000 binh mã đến hộ giá, Lưu Bị sau khi đàm đạo với Mã Trung rất đỗi vui mừng, nói với Thượng thư Lưu Ba rằng: “Tuy mất Hoàng Quyền lại được Mã Trung, khá thấy ở đời vẫn không thiếu nhân tài giỏi giang vậy!” Mã Trung sau này cũng rất được Gia Cát Lượng trọng dụng. 5. Nguỵ Ngô lại náo động, ba chân đỉnh vững vàng. Đương khi Lưu Bị dẫn quân đông chinh, với Lục Tốn đối trận ở Di Đạo, Hồ Đình, Tào Phi muốn chính thức thu phục Tôn Quyền, đã yêu cầu đưa con cả Tôn Quyền là Tôn Đăng đến Lạc Dương làm con tin. Bởi tình hình tiền tuyến căng thẳng, Tôn Quyền không dám cự tuyệt thẳng thắn, chỉ biết lấy cớ Tôn Đăng đang còn nhỏ để trì hoãn. Đợi đến khi Lục Tốn đánh bại được Lưu Bị, Tào Phi sợ Tôn Quyền thừa thắng khuếch trương thế lực, không phục tùng nữa, bèn tăng cường yêu cầu đưa con tin. Song Tôn Quyền cố ý bỏ qua, cự tuyệt việc đưa con tin đến Lạc Dương. Tuy Tào Phi đã phái Thị trung Tân Tỷ và Thượng thư Hoàn Gia đến trao đổi, song Tôn Quyền không nghe. Tào Phi cả giận lại muốn dùng vũ lực để bức bách Tôn Quyền, đại thần Lưu Diệp không tán thành, ông ta cho rằng Tôn Quyền mới giành được thắng lợi lớn, vua tôi đều rất tự tin, lại có sông Trường Giang hiểm trở rất dễ phòng thủ, nếu vội vàng dứt khoát chẳng thể đánh bại được họ. Tào Phi không nghe, lại phát động một đạo quân rất lớn, chuẩn bị theo ba đường mà thảo phạt Tôn Quyền: Tuyến phía đông: Chinh đông đại tướng quân Tào Hưu, Tiền tướng quân Trương Liêu, Trấn đông tướng quân Tang Bá từ Động Khẩu đánh Tôn Quyền ở cánh phải. Tuyến giữa: Đại tướng quân Tào Nhân, tự dẫn đại quân trực thuộc, đánh vào cửa Nhu Tu. Tuyến phía tây: Thượng tướng quân Tào Chân, Chinh nam đại tướng quân Hạ Hầu Thượng, Tả tướng quân Trương Cáp, Hữu tướng quân Từ Hoảng, từ Nam Quận đánh vào cứ điểm quan trọng Giang Lăng. Tạm thời, Đông Ngô phải chịu áp lực chẳng thua kém trước trận Xích Bích. May mà Lục Tốn có kiến giải sáng suốt, chủ động kết thúc xung đột ở phía tây, Tôn Quyền có binh lực đầy đủ, chi viện cho việc phòng thủ phía bắc. Lục Tốn nói với Tôn Quyền, quân tinh nhuệ của Tào Phi tuy dốc cả ra, song thiếu hợp nhất, cũng như sấm to mà mưa nhỏ, khoa trương thanh thế để nạt nộ mà thôi. Bởi thế cần chia quân để chống đỡ, chỉ cần hình thành cục điện đối đầu, chẳng bao lâu, Tào Phi sẽ nhất định hạ lệnh rút quân. Thế rồi phái Kiến uy tướng quân Lã Phạm, dẫn năm đội thuyền chiến, đóng ở Lục Khẩu dựa vào Trường Giang hiểm trở mà chống quân của Tào Hưu. Tả tướng quân Gia Cát Cẩn, Bình bắc tướng quân Phan Chương, Tướng quân Dương Sáu, dẫn quân phòng thủ Nam Quận. Ở cửa Nhu Tu thuộc tuyến giữa, là vị trí quân sự quan trọng, được xây dựng từ thời Lã Mông, lại thêm thanh thế Tào Nhân rất lớn, Tôn Quyền phải tự mình đôn đốc, để tỳ tướng Chu Hoàn chống đỡ lại Tào Nhân. Tào Hưu đến Động Khẩu, vội vàng vượt sông, các lão tướng Trương Liôu, Tang Bá, bởi đã mấy lần thủy chiến bị dính đòn, đều không tán thành. Tào Hưu quyết định vượt sông một mình, lại gặp phải đội thuyền Lã Phạm tấn công mạnh mẽ, tổn thất không ít quân lính, quân Đông Ngô cũng rơi vào tình thế nguy cấp. Tang Bá vượt sông đuổi quân Ngô lại bị viện binh đánh bại, tướng tiên phong là Duẩn Lô bị chết tại trận. Chu Hoàn trấn giữ cửa Nhu Tu, bởi dũng mãnh trung thành mà nổi tiếng. Tào Nhân mang mấy vạn bộ binh tấn công, Chu Hoàn cậy hiểm quyết liệt kháng cự. Tào Nhân đã già, thực sự chỉ huy do con trai là Tào Thái phụ trách, Tào Thái kinh nghiệm không đủ, trong khi đánh tập kích bị Chu Hoàn áp đảo nên mất cả đại tướng Vương Song và Thường Liêu, rơi vào thế đông cứng. Không lâu, Tào Nhân ngã bệnh từ trần, sự uy hiếp ở tuyến giữa không đánh mà tan. Trái lại cuộc giao tranh ở tuyến tây rất ác liệt. Khi Lã Mông năm xưa bị bệnh nặng, Tôn Quyền đích thân đến thăm hỏi, có hỏi ai sẽ trấn thủ được Giang Lăng. Lã Mông nói “Chu Nhiên là người can đảm, hiểm nguy chẳng sợ, có thể đảm nhiệm được”. Sau khi Lã Mông mất, Tôn Quyền phong Chu Nhiên làm Trấn thủ Giang Lăng. Chu Nhiên là con nuôi Thái thú Chu Trị ở Cửu Châu, lúc đó làm Chiêu vũ tướng quân. Ở chiến tuyến phía tây, mãnh tướng Đông Ngô là Tôn Tịnh coi giữ Tào Chân phái Trương Cáp làm tiên phong, Tôn Thịnh khinh Trương Cáp còn trẻ tuổi, cuối cùng trong trận đánh ở ngoài thành, lại bị Trương Cáp kinh nghiệm phong phú đánh bại, tiền tuyến thất thủ, quân Tào bao vây Giang Lăng, Gia Cát Cẩn từ Nam Quận đến chi viện, lại bị Hạ Hầu Thượng ngăn lại, thành Giang Lăng bị cô lập, nguy cơ rất lớn. Viên quan Diêu Thái ở đấy muốn dẫn quân đầu hàng, bị Chu Nhiên phát giác, giận mà giết đi. Chu Nhiên hạ lệnh cho quân dân toàn thành tử thủ, Tào Chân bao vây sáu tháng ròng, nghĩ hết mọi cách phá thành, đều bị Chu Nhiên liều mình chống trả, lại phải lúc đang có đại dịch bệnh, quân Ngụy đành phải rút lui. Đúng như phỏng đoán của Lục Tốn, Tào Phi chẳng có quyết tâm thôn tính, chỉ là hư trương thanh thế mà thôi. Chỉ cần ngăn cản được đòn đánh ban đầu, lại cậy hiểm mà giữ, quân Tào Ngụy thiếu tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sức tác chiến ắt sẽ suy giảm. Lưu Bị ở Vĩnh An nghe nói đại quân Tào Phi nam chinh, liền viết thư cho Lục Tốn nói rằng: ‘‘Nay giặc Tào lại tiến công Giang Hán, nếu tôi dẫn quân đến, thì tướng quân xem tôi có thể làm được gì”. Lục Tốn xem xét kỹ hàm ý trong thư của Lưu Bị, viết thư trả lời rằng: “Quân đội của ngài vừa mới bị trọng thương, rất nên tĩnh dưỡng, không nên khởi binh. Nếu như chúng ta tiến hành hoà đàm, có thể lấp kín sai lầm vừa qua, cắt bỏ việc dùng binh, để tránh những thương tổn nghiêm trọng, chỉ sợ lúc ấy không đến mà thôi”. Thái độ của Lục Tốn tuy cứng rắn, song ông ta cũng lập tức báo cáo với Tôn Quyền, bởi Lưu Bị cứ trường kỳ ở lại Vĩnh An, chẳng về Thành Đô, hiển nhiên chưa chịu cam tâm, nếu lại nhân cơ hội mà liên hợp hành động với Tào Ngụy, có thể sẽ uy hiếp nghiêm trọng với Đông Ngô. Ông ta đề nghị với Tôn Quyền chủ động cầu hoà với Lưu Bị, Tôn Quyền cũng cho rằng có lý, bèn phái Thái trung đại phu Trịnh Tuyền đến xin hoà với Lưu Bị. Trải qua lần vấp ngã này, số mệnh lại mỉm cười với Lưu Bị. Ông ta bình tĩnh suy nghĩ thêm, nếu Đông Ngô bị diệt vong, thì Thục Hán cũng có nguy cơ nghiêm trọng, bởi thế mà tiếp thu yêu cầu của Trịnh Tuyền, phái Thái tôn đại phu Tôn Vỹ sang Đông Ngô đáp lễ Tôn Quyền. Sau chiến dịch Hồ Đình, đây là lần đầu tiên bên Tôn - Lưu tìm được cơ hội hoà hiếu. Đáng tiếc không lâu sau đó, bệnh tình Lưu Bị nguy kịch, nỗ lực ngoại giao này lại bị đứt đoạn. 6. Gửi con ở thành Bạch Đế, vua tôi bàn việc quốc gia. Chiến dịch Hồ Đình, đối với Lưu Bị có tiếng là anh hùng, cơ hồ là một đòn chí mạng, làm tổn thất lớn đến uy tín của Thục Hán mới kiến lập, chí lớn bắc phạt Tào Ngụy, khôi phục nhà Hán cơ hồ đã tuột khỏi tầm tay, bi thống có thừa, tình hình sức khoẻ xấu đi nghiêm trọng. Thành Đô lại truyền đến những tin xấu, đầu tiên là Tư đồ Hứa Tĩnh tuổi già đã mất. Tiếp đến là Kiêu kỵ tướng quân Mã Siêu nổi tiếng ở xứ Tây Lương cũng bệnh mà mất lúc 47 tuổi, bốn tướng lĩnh quân đoàn của Hán Trung Vương nối nhau từ trần, kể về hàng đại tướng có danh tiếng đảm đương được một vùng chỉ còn Triệu Vân và Ngụy Diên. Đến như Thượng thư Lưu Ba mới đến Vĩnh An thăm hỏi, trở về Thành Đô không bao lâu cũng bị bệnh mà mất, Lưu Bị vạn phần thương tâm, bèn bổ nhiệm Kiện Vy Thái thú Lý Nghiêm thay thế chức vụ của Lưu Ba. Có thể ông ta cũng cảm thấy mệnh vận sắp hết, chẳng thể đoạt lại Kinh Châu, liền hạ lệnh chuyển phần mộ Cam phu nhân về đất Thục. Đến mùa xuân năm thứ hai (tức là năm Hoàng Sơ thứ tư), bệnh tình nhanh chóng xấu đi, bèn phái người đến Thành Đô mời Gia Cát Lượng mau chóng đến Vĩnh An. Lại nói từ lúc tin chiến bại ở Hồ Đình truyền đi, Thục Trung đã có không ít chấn động. Cao Định, một thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở quận Việt Huề đã xâm phạm huyện Tân Đạo, bị Lý Nghiêm đánh bại. Hán Gia Thái thú Hoàng Nguyên vốn bất hoà với Gia Cát Lượng, có ý đồ chờ thời làm loạn, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến Gia Cát Lượng vẫn không dám rời Thành Đô, song Lưu Bị đã cho mời gấp, không thể không đi, ông ta để tòng sự Dương Hồng vẫn có hiểu biết rộng phụ tá Thái tử Lưu Thiện giữ Thành Đô, tự mình dẫn hai hoàng tử Lưu Vĩnh, Lưu Lý đến Vĩnh An. Từ tháng 2 đến tháng 4 năm Hoàng Sơ thứ tư, Gia Cát Lượng đợi ở Vĩnh An, cùng với Lưu Bị lập quy hoạch tương lai ở Thục Hán, Thượng thư Lý Nghiêm mới được bổ nhiệm, bởi Lưu Bị bệnh nặng cũng vẫn chầu trực ở Vĩnh An, do ông ta là lão thần Thục Trung, bởi thế là đối tượng hỏi han rất tốt của Lưu Bị và Gia Cát Lượng. Sau chiến dịch Hồ Đình, tình thế chung có biến hoá rất lớn, Ngụy Ngô liên hợp mà lại phân chia, quan hệ Tôn -Lưu lại có dấu hiệu hoà hiệu, thế ba chân đỉnh trong thiên hạ tựa hồ đã thành hình hoàn toàn. Song tình hình Thục Hán lại rất không ổn. Về quốc phòng, bốn đại tướng có uy tín với Hoa Hạ là Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung nối nhau từ trần, lại thêm đạo quân Hồ Đình mất đi, sức tác chiến của vương triều Thục Hán gần như tan rã, sau này việc đối kháng với Tào Ngụy và Tôn Ngô, sẽ ngày mỗi khó khăn. Việc điều hành ở Ích Châu và Hán Trung chưa hoàn toàn ổn định lại nối tiếp phát sinh hai nguy kịch mất Kinh Châu và đại bại trong cuộc đông chinh, đối với tài chính và kinh tế nước Thục ắt tạo thành một gánh nặng nghiêm trọng, như thời khắc then chốt này với Lưu Bị, nếu tình hình lộn xộn, sự ổn định nội chính có thể sẽ lập tức nẩy sinh nguy cơ. Đúng như Gia Cát Lượng sau này trong Xuất Sư Biểu có viết: “Tiên đế sáng nghiệp chưa lâu, giữa đường đứt gánh, đang lúc thiên hạ chia ba, Ích Châu mỏi mệt, đúng là nguy cơ còn mất đã ở trước mắt...”. Lưu Bị đương nhiên cũng biết rất rõ nguy cơ rất lớn, ông ta khẩn cấp cho vời Gia Cát Lượng, chính là nghĩ lợi dụng những ngày giờ cuối cùng của đời mình cùng với người thực chất kế nhiệm, triệt để trao đổi ý kiến, cùng đề ra kế hoạch ứng phó của mình sau này. Quả nhiên, Gia Cát Lượng vừa rời Thành Đô, Hoàng Nguyên đã phát động chính biến quân sự ở Hán Gia, ông ta thiêu hủy lâm cung, cướp lấy bản doanh chẳng chút sợ hãi. Dương Hồng lập tức phái tướng quân Trần Vẫn, Trịnh Sước đến trừng phạt. Tại hội nghị quân sự, không ít tướng lĩnh cho rằng Hoàng Nguyên nếu lực lượng không đủ tấn công Thành Đô sẽ từ Việt Huê rút về Nam Trung, chiến đấu lâu dài. Song Dương Hồng lại có cách nhìn khác, ông ta cho rằng: “Hoàng Nguyên vốn là người hung bạo, đối với nhân dân không có ơn huệ, không thế có lực lựơng như thế. Ông ta nhất định sẽ cưỡi thuyền xuôi dòng, đến Vĩnh An gặp Hoàng Thượng xưng tội, hoặc tự trói chịu bắt. Nếu làm không được sẽ đầu hàng Đông Ngô, để giữ mạng sống”. Bởi thế ông lệnh cho Trần Vẫn và Trịnh Sước, mai phục ở Nam An, đợi Hoàng Nguyên tự mình chui đầu vào lưới. Quả nhiên Hoàng Nguyên không dám ở lại Việt Huề muốn cưỡi thuyền xuôi dòng, cuối cùng bị Trần Vẫn bắt sống đưa về Thành Đô chém đầu. Dương Hồng mau chóng phái người báo cáo về Thành Đô về chuyện Hoàng Nguyên, đối với Gia Cát Lượng mà nói, nhìn chung bớt được một mối lo. Do nhân tài ở Thục Hán mau chóng tàn lụi, Gia Cát Lượng cũng đã chú ý đề bạt những thanh niên tài giỏi. Ông ta đối với người em trai của Mã Lương là Mã Tắc rất đỗi cảm mến, lấy làm tham mưu, thường cho theo bên mình, lần này đến Vĩnh An, do có thể cần thảo luận nhiều việc, bởi thế đặc biệt mang theo Mã Tắc từ Thành Đô đến, giúp đỡ việc chỉnh lý và thảo luận ý kiến. Mã Tắc tên chữ là Ấu Thường, là em trai của Đại lão Kinh Châu Mã Lương, đầu óc rất sáng suốt, ăn nói giỏi giang hơn hẳn người anh, vốn lại đa tài rộng học, hay nghị luận binh thư và mưu lược, quan sát kỹ lưỡng, phân tích tinh tế, nói đâu ra đấy, rất được Gia Cát Lượng tán thưởng. Lưu Bị khi ở Kinh Châu, đã có quan hệ thân thiết với Mã Lương, tự nhiên biết rất rõ về Mã Tắc, song ông lại không thích Mã Tắc chỉ giỏi ăn nói, tuy bàn đến những việc cao xa song nhìn chung không có thực tế. Đối với Lưu Bị là người dầu dãi phong sương, thì những mưu sĩ như Mã Lương, Hoàng Quyền, Mã Trung nhiều kinh nghiệm tuyệt đối hơn hẳn Mã Tắc giỏi nói lý luận mà thiếu kinh nghiệm thực tế. Bởi thế, đối với ý kiến của Gia Cát Lượng đề bạt Mã Tắc thì không vừa ý, ông ta nhắc nhở rằng với Gia Cát Lượng: “Mã Tắc nói quá sự thực, chẳng thể dùng vào việc lớn, thừa tướng nên từ nhiều phương diện quan sát tinh tế ông ta mới phải vậy!”. Song Gia Cát Lượng nhìn chung lại cho rằng về quan hệ tuổi tác, có thể có chỗ câu nệ, cho nên Lưu Bị đã không vừa ý. Trung tuần tháng 4, Lưu Bị bệnh tình nguy kịch, lập tức viết di chiếu cho Thái tử Lưu Thiện ở Thành Đô, cùng đưa trước cho Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm xem. Toàn văn như sau: “Trẫm lúc đầu mắc bệnh lị, sau chuyển bệnh khác, xem tình hình bệnh không khỏi. Người ta 50 tuổi đã không gọi là chết yểu, nay ta đã hơn 60, chẳng có gì ân hận, bởi thế chẳng lo lắng cho mình chỉ nghĩ đến tương lai của anh em các ngươi (chỉ Lưu Thiện). Nghe thừa tướng Gia Cát Lượng nói, ngươi có khí chất lớn, tiến bộ rất nhanh, vượt quá mong mỏi của ông ta, nếu như thực sự như thế ta còn phải lo gì, hy vọng ngươi cũng phải nỗ lực, chớ làm một điều ác nhỏ, cũng chớ không làm một điều thiện nhỏ. Tất cả phải lấy cầu hiền, cầu đức làm mục tiêu, khiến cho thần dân có thể đối với ngươi tâm phục hoàn toàn. Phụ thân, của ngươi vẫn bạc đức, không nên phỏng theo. Hy vọng rằng ngươi chăm đọc nhiều sách, đặc biệt là “Hán Thư” và “Lễ Ký” nhất định phải đọc kỹ, khi thong thả cũng cần nghiên cứu thêm “Lục Thao” và “Thương Quân Thứ” (Thương Ưởng), có thể tăng cường được trí tuệ và ý chí. Nghe nói thừa tướng Gia Cát Lượng có chỉnh lý những sách “Thân Bại Hại”, “Hàn Phi Tử”, “Quản Tử”, “Lục Thao”, rất nên thỉnh giáo ông ta nhiều”. Gia Cát Lượng xem rồi đỏ mặt nói rằng: “Xin bệ hạ yên tâm, phụ tá Thái tử vốn là trách nhiệm của thần, xin cứ yên lòng dưỡng bệnh, sớm phục hồi sức khoẻ để đáp lại trông mong của thiên hạ”. Lưu Bị nhìn chăm chăm vào Gia Cát Lượng, hồi lâu buông một tiếng thở dài, đinh ninh dặn dò rằng: “Ông mới gấp 10 Tào Phi, ắt có thể yên được việc nước, định được đại sự. Nếu ấu chúa có thể giúp được thì giúp; nếu có bất tài, ông có thể đảm nhiệm”. Gia Cát Lượng nghe nói thế, biến cả sắc mặt, kinh hoàng và cảm động cùng lúc, nước mắt lại lã chã rơi, lập tức quỳ ở bên giường nói rằng: “Thần đâu dám không tận tâm tận lực, giữ mực trung chính, dẫu đến chết mới thôi!”. Lưu Bị lệnh cho quan hầu nâng Gia Cát Lượng dậy, gọi Lý Nghiêm đến trước mặt, dặn dò ông ta giúp đỡ thừa tướng cùng phò tá Thái tử. Lại gọi hai hoàng tử Lưu Vĩnh, Lưu Lý, dặn họ nói lại với Thái tử Lưu Thiện: “Anh em các ngươi sau này phải xem thừa tướng giống như phụ thân, đồng tâm cộng sự, không được sai trái”. Nói xong, lệ tuôn như mưa. Cùng ngày, Lưu Bị nói với các quan cận thần ở Vĩnh An, tuyên bố việc gửi ấu chúa cho Gia Cát Lượng, lấy Thượng thư Lý Nghiêm làm phó, cùng phụ chính. Năm Ngụy Văn đế Hoàng Sơ thứ 4, tức là năm Thục Hán Chương Vũ thứ 3, vào ngày 24 tháng 4, Lưu Bị ngã bệnh từ trần ở cung Vĩnh An, thọ 63 tuổi, đặt tên thụy là Chiêu Liệt Hoàng đế. Tuy là việc đã có dự liệu, song sự ra đi của Lưu Bị vẫn dẫn đến chấn động lớn với vương triều Thục Hán, Gia Cát Lượng không dám vội về Thành Đô, tạm thời ở lại Vĩnh An, để sắp đặt công việc phía đông và việc quốc phòng phía bắc. Bởi Triệu Vân đang trấn thủ thành Bạch Đế, trong thời gian ngắn tạm thời không có vấn đề. Việc phòng thủ phía bắc bởi Trương Phi và Mã Siêu nối nhau từ trần, tướng lĩnh mới bổ nhiệm uy tín quốc tế không đủ, những tham vọng lớn lao của quân Tào ở Quan Trung chẳng thể xem thường, chỉ dựa vào Ngụy Diên giữ bồn địa Hán Trung đích xác là chịu không ít áp lực. Lưu Bị vừa mới mất, các quận ở nước Thục khó tránh khỏi hiện tượng bất ổn. Tào Ngụy và Đông Ngô đều có thế nhân cơ hội quấy nhiễu, bởi thế việc ổn định biên cương là rất cấp bách. Đến tháng thứ 2, Gia Cát Lượng mới cho phát tang, trở về Thành Đô, lại lệnh cho Lý Nghiêm làm Trung đô hộ ở lại giữ Vĩnh An. Tháng 5, Thái tử Lưu Thiện lên ngôi, tôn hoàng hậu Ngô Thị làm Hoàng thái hậu, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Kiến Hưng. Lịch sử gọi Lưu Bị là tiên chủ của Thục Hán, còn gọi Lưu Thiện là hậu chủ. Linh cữu mẫu thân Lưu Thiện là Cam Phu nhân cũng từ Nam Quận chuyển về Thành Đô, tháng 8 hợp táng với Lưu Bị ở Huệ Lăng phía nam Thành Đô. Lúc đó, Lưu Thiện mới 17 tuổi, cá tính ôn hoà, lại có chút nhút nhát, thực tại chẳng phải là một lãnh tụ chính trị thích hợp, sở trường duy nhất là giống phụ thân của ông ta, rất có nhân duyên, quần thần nói chung đều thích ông ta. Bởi thiếu kinh nghiệm, chỉ biết làm theo di chiếu của phụ thân, phong Gia Cát Lượng làm Vũ hương hầu, giữ chức Ích Châu mục, còn mọi việc quốc gia đại sự chẳng kể lớn bé đều uỷ thác cả cho Gia Cát Lượng. Đã nhận sự ủy thác của Lưu Bị, Gia Cát Lượng cũng chẳng hề do dự với trách nhiệm gánh vác hoàn toàn. Thục Hán kể từ lúc kiến quốc đến nay chiến tranh liên miên, cho nên chưa chỉnh đốn được chế độ, tuy Lưu Bị mất đi, song nói chung vào giai đoạn này, vẫn có thể duy trì được hoà bình. Gia Cát Lượng bèn ra sức chỉnh đốn tham nhũng, tu bổ pháp chế, sửa sang lại biên chế hành chính và quy tắc chính trị. Gia Cát Lượng đầu tiên họp các đại thần Thục Hán, công bố quan niệm chính trị điều hành quốc gia từ nay về sau: “Khi vạch kế sách chính trị, nên cố gắng tập hợp trí tuệ nhiều người, cùng những đề nghị thẳng thắn. Nếu xử lý sợ đắc tội người ta hoặc bởi ý riêng mà xa lánh người khác, thì chẳng thể giành được các ý kiến bất đồng, kéo dài như thế, sẽ có tổn thất rất nhiều. Có quan điểm từ những bất đồng mà xem xét sự việc, thì quyết sách như vậy mới là thích hợp nhất. Phải nỗi người ta rất khó tận tâm đưa ra cách nhìn bất đồng, chỉ có Từ Thứ ngày xưa, từ nhiều vấn đề ông ta đều nghiên cứu tường tận mọi mặt. Đổng Hoà, làm công tác tham mưu bảy năm, khi rút ra kết luận từ sự việc, có mười cách nhìn khác nhau, cũng không ngại phiền mà đề xuất, nếu mọi người đều có tinh thần của hai người ấy, trung với quốc gia, không ngừng đề xuất ý kiến bất đồng, như vậy sẽ giúp đỡ ta trong lúc quyết định giảm bớt được những sai lầm. Tiếp đó lại nói đến thời ở Long Trung, những chuyện về quan hệ bạn bè: “Thời trẻ đã có qua lại với Thôi Châu Bình, bởi ông ta nhiều tuổi hơn, kiến thức sâu rộng nên học được ở ông rất nhiều. Sau này biết Từ Nguyên Trực lại mở mang thêm được trí tuệ. Tham mưu Đổng Ấu Tể mỗi lần đề nghị đều nói đâu ra đấy, lời lẽ không dài dòng, sau nàv lại được Hồ Vĩ Độ (phó tướng của Gia Cát Lượng) giúp đỡ, thường cho ta, không ít những lời can ngăn trực tiếp. Tuy ta thiên bẩm tối tăm chẳng thể hoàn toàn hiểu được ý tứ của bốn tiên sinh kia, có lúc cũng không thu nạp hết, song ta với bốn vị ấy mãi mãi là bạn tốt, tuyệt đối chẳng bởi họ đã phê bình ta mà không vừa lòng, đối với sự chân thành của họ cũng chẳng bao giờ nghi kỵ. Xin các vị sau này chớ khách khí, hết sức bày tỏ cách nhìn của riêng mình!”. “Tư trị thông giám” có chép: “Gia Cát Lượng lúc mới làm thừa tướng, thường tự mình hiệu đính các công văn giấy tờ. Phó tướng Dương Ngung thấy thế trực tiếp can rằng: “Thúc đẩy việc chính sự, điều rất quan trọng là phải dựa vào chế độ, trên dưới có phân quyền, không nên giẫm chân lên nhau. Tôi nay lấy công việc về nghề nông để đưa một ví dụ thử ngẫm xem. Nay có một hộ nông nghiệp, người chủ phái nông nô cày bừa, tỳ nữ xử lý việc bếp núc, gà trông trông coi việc báo sáng, chó thì trông coi việc canh trộm, bò thì trông coi việc kéo cày, ngựa thì trông coi việc kéo xe. Như vậy công việc của họ nhất định điều hành rất tốt, đều có người phụ trách, chủ nhân của họ nói chung rất thoải mái, kê cao gối mà ngủ chẳng lo nghĩ mọi việc. Nếu như, có một ngày đột nhiên ông ta nghĩ khác, việc gì cũng đều muốn tự mình làm không chịu giao phó cho người khác, như vậy nhất định sẽ vất vả muốn chết, bởi những việc này phức tạp, mỏi mệt về thể xác lẫn tinh thần, cuối cùng vẫn không xong được một việc. Ở đây không phải muôn nói trí tuệ của sáu người không bằng nô tì gà chó, mà muốn nói ông đánh mất chức trách người chủ cần có là chỉ huy đại cục! Câu châm ngôn xưa có nói, ngồi mà luận đạo, đã rằng chúa công, thi hành công việc đã rằng sĩ đại phu. Thời Hán Tuyên đế, tể tướng Bích Cát chẳng qua nhầm lẫn mà chết người, trái lại lo việc cày bừa lúc đầu xuân chưa bận rộn, thì không gấp gáp. Tể tướng Trần Bình thời Hán Văn đế, chẳng phải xem xét tiền tài trong kho tàng, mà nói “đã có người chủ sự”, đạo lý ấy là chia thang bậc mà phụ trách. Nay minh công tự mình rà soát giấy má văn thư, lo từ việc nhỏ hành chính, mồ hôi mồ kê suốt ngày, phải chăng phải quá vất vả như thế!”. Gia Cát Lượng lập tức đứng lên cảm tạ, tiếp thu kiến nghị của ông ta. Sau này Dương Ngung từ trần, Gia Cát Lượng còn nghĩ đến ông ta khóc lóc bi thương suốt ba ngày ròng rã. Qua đoạn văn trên có thể thấy thái độ chân thành và sự cố gắng trong công việc của Gia Cát Lượng. Hơn nữa cũng cho thấy một nhà chính trị tiếp thu được những ý kiến bất đồng, lời nói và việc làm đều nhất quán. Ví như thái độ của Lưu Bị khi nói rằng: “Ông có thể tự đảm nhiệm” đích xác là một việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử. Đại đa số những tiên chủ gửi con côi đều nghĩ mọi cách sau này gìn giữ cho hậu duệ của mình, đặt ra những phương pháp ràng buộc, để đề phòng khả năng người phụ chính đoạt mất vương triều. Ví như những phụ chính Chu Công Đán, Hoắc Quang rất có khí tiết cuối cùng chỉ sai một chút là xảy ra bi kịch. Ví như sự tín nhiệm của Lưu Bị với Gia Cát Lượng ở đây, cơ hồ không gì so sánh nổi. Không ít người đọc sử sách cho rằng, Lưu Bị ở cung Vĩnh An khi gửi con có nói như vậy, ít nhiều là cách khích tướng theo kiểu chính trị. Thời Tam quốc, đạo đức chính trị suy vong, phần nhiều là sự dối trá, bởi thế Lưu Bị muốn nói trắng ra như thế, để Gia Cát Lượng không dám công nhiên đoạt quyền, chỉ lo một lòng phò tá Lưu Thiện. Nhìn trên bề mặt, cách nói này tựa hồ rất hợp lý, song chỉ cần hiểu sâu tình thế nước Thục lúc ấy, phân tích tinh tế cá tính của Lưu Bị và Gia Cát Lượng, sẽ thấy được phỏng đoán sai lạc trên bề mặt, ít nhiều là thiên kiến, lấy lòng của kẻ tiểu nhân để đo lòng quân tử vậy. Lưu Bị trước lúc lâm chung, đã có với Gia Cát Lượng 16 năm gắn bó, Gia Cát Lượng là người như thế nào, trong lòng Lưu Bị cũng đã rõ ràng. Huống chi, trong tập đoàn của Lưu Bị, Gia Cát Lượng tuy là người phụ tá thứ nhất song người được tín phục nhất vẫn là Lưu Bị, nếu chưa được Lưu Bị trao quyền rõ ràng, Gia Cát Lượng muốn nhân cơ hội đoạt lấy vương quyền, không thể giành được sự ủng hộ đầy đủ, Lưu Bị đối với việc ấy chẳng cần lo lắng quá. Trái lại câu nói “ông có thể đảm nhiệm”, càng dễ giúp cho Gia Cát Lượng cơ sở hợp pháp để đoạt lấy vương quyền. Lưu Bị về việc này đã nói rõ ràng vậy. Cũng giống như Lưu Bị đối với ấu chúa Lưu Thiện đã hiểu rất rõ, Lưu Thiện là người như thế nào, Lưu Bị đã thấy trước. Ông ta cho phép Gia Cát Lượng đoạt lấy vương quyền, ít nhiều là nghĩ đến cơ nghiệp mà mình đã sáng tạo, để Gia Cát Lượng có đủ căn cứ pháp lý, vào lúc cần thiết, sẽ có thủ đoạn phi thường để ứng biến. Trong Tam quốc chí, Trần Thọ có nhận định: “Tiên chủ là người cương nghị mà khoan hậu, chiêu hiền đãi sĩ lại có phong độ của Hán Cao tổ, khí chất của bậc anh hùng, đến khi gửi ấu chúa, trao việc nước cho Gia Cát Lượng mà lòng không hồ nghi, đúng là vua tôi đều chí công vô tư, là gương sáng xưa nay chưa từng có”. Trần Thọ là người sống gần thời bấy giờ, phán đoán theo những điều nghe được, vấn đề mà Lưu Bị thực sự lo lắng lại chẳng phải là Gia Cát Lượng sẽ đoạt lấy vương quyền mà là vấn đề Lưu Thiện điều hành quốc gia trong lúc rất nhiều nguy cơ như vậy, phải chăng có thể đảm nhiệm được. Sau này trong Xuất Sư Biểu, Gia Cát Lượng có viết: “Tiên đế biết thần là người cẩn thận, nên trước lúc lâm chung có ủy thác cho thần việc đại sự, từ lúc nhận lệnh đên nay, sớm tối lo lắng, sợ không đáp ứng được lòng mong mỏi, phụ lại tiên đế cao minh”, đúng là những lời nói từ tâm can. Vua tôi cách nhau 20 tuổi như vậy, đích xác trong lịch sử Trung Quốc khó thấy được một quan hệ tốt đẹp hơn. Lưu Bị năm xưa gặp được Gia Cát Lượng “như cá gặp nước”, tin rằng đấy chẳng phải là lời nói khách sáo, câu nói của Trần Thọ: “vua tôi thực chí công vô tư” cũng chẳng phải không có căn cứ. Ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai cùng chân thành với nhau như thể lịch sử cổ kim kể ra chỉ có một. Song, Gia Cát Lượng đảm đang một mình điểu hành các viên quan chính, có được thực quyền tổng chỉ huy, là việc mà Lưu Bị từng quan tâm trước lúc lâm chung. Lời bình của Trần Văn Cuối Binh thư “Lục Thao” được công nhận rất giàu chất trí tuệ Trung Quốc, ở phần mở đầu, có chép hỏi đáp giữa Chu Văn Vương và Khương Thái Công về cai trị thiên hạ, như sau: Chu Văn Vương hỏi: “Phải làm thế nào mới có thể khiến trăm họ thiên hạ theo về?”. Khương Thái Công đáp: “Thiên hạ chẳng phải một người mà có vạn người mới thành thiên hạ. Cùng mối lợi với người thiên hạ thì được thiên hạ. Nếu độc chiếm mối lợi thiên hạ vào riêng một người, ắt sẽ mất thiên hạ. Nắm được biến hoá bốn mùa của trời đất không làm trái nông nghiệp, với những của cải tàng chứa trong lòng đất cùng hưởng với mọi người, là hiểu được đạo nhân ái của bậc quân vương, thì thiên hạ sẽ theo về. Khiến mọi nqười sống vui vẻ, có khó khăn thì kịp thời ra tay chi viện, lúc cấp bách cũng lập tức giúp đỡ họ, chính là hiểu được lẽ đức chính của bậc quân vương. Có thể với mọi người cùng lo, cùng vui, cùng hay, cùng dở là hiểu được nghĩa lý của bậc quân vương. Mọi người không thể không chán ghét chết chóc, thích được sông hạnh phúc, song cũng đều muốn theo đuổi tìm kiếm một không gian sinh tồn công bằng và no đủ, khiến mọi người đạt đến mục đích ấy, là hiểu được suy nghĩ lý tính của bậc quân vương, thiên hạ ắt sẽ theo về”. Lấy một công ty mà nói, người sáng nghiệp trải qua nhiều vất vả, trong đó chua ngọt, chỉ có một mình hay biết. Bởi thế người sáng nghiệp khi thành công, mới có xu hướng độc tài. Đối với một thống soái sáng nghiệp thuộc hạ nói chung đối với sự “hoành hành bá đạo” của ông ta, thường có khuynh hướng nhường nhịn. Ví như thế, viên thống soái này vẫn không thể cho rằng công ty này là “công ty của riêng tôi”. Đối với bản thân ông ta mà nói, điều ấy có thể xem là phải, song lại cũng là khá nguy hiểm. Như vậy cán bộ có suy nghĩ độc lập, có thể một mình đảm đương một mặt, sẽ không chịu nổi cách nghĩ này của vị thống soái, thường bởi thế quay lưng lại với ông ta, khiến công ty mất đi không ít nhân tài. Mỗi người mỗi ngày chỉ có 24 giờ, có cố gắng cũng không làm nổi được nhiều việc, hơn nữa đương lúc phát sinh sự cố khẩn cấp, nếu dựa vào sức một người thì chẳng được việc. Khi công ty có nguy cơ, ắt sẽ ảnh hưởng rất nhiều người: Viên chức, thân quyến, khách vãng lai, cơ sở liên quan, có thể khiến họ phát huy tâm lý cùng hội cùng thuyền, giúp đỡ công ty cùng vượt qua khó khăn, đấy mới là ông chủ có trí tuệ. Nếu không một mai có thất bại, chẳng những hại cho mình cũng hại cho người từ trước đến nay vẫn giúp đỡ. Vị thống soái hiểu được điều này, không thể nói “công ty là của tôi, tôi muốn làm gì cũng được”. Đã là một công ty, là tổ chức của nhiều người, về tư cách pháp nhân là có sinh mạng độc lập, người điều hành chỉ là được ủy thác để xử lý công việc của mọi người mà thôi. Khương Thái Công cũng đã chỉ rõ: “Thiên hạ đã thấy rõ, thì không thể không thấy, thiên hạ đã nghe thấy, thì không thể không biết”'. Trí tuệ có thể quy tụ mọi nhân tài vốn có năng lực, tập trung có chế độ, mới là bảo đảm tốt cho sự nghiệp thành công. Lưu Bị có thể coi thiên hạ là của công, gửi con côi cho Gia Cát Lượng, Gia Cát Lượng cũng lập tức công bố thái độ tự tiếp thu phê bình, rộng chứa đề nghị của mọi người, đúng là đều có trí tuệ và tấm lòng quy tụ được người trong thiên hạ. Vua tôi như vậy, có thể trong tình thế ác liệt vẫn mau chóng đoạt được thành công, đích xác là hợp đạo lý vậy.