Sau hội nghị An Phú Xã, Nguyễn Bình quyết định lập các chi đội Giải phóng quân, đưa tất cả các bộ đội đã có trước đó vô nền nếp. Đây là một việc khó thực hiện vì tâm lý các chỉ huy bộ đội địa phương đều ít nhiều muốn làm “đầu gà hơn đuôi phụng”. Mỗi “tướng vùng” là một Từ Hải “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Trong hội nghị An Phú Xã, Nguyễn Bình đã nhấn mạnh: Muốn đánh thắng thằng Tây chúng ta phải tập hợp thành một khối. Đừng bao giờ để chúng xé lẻ chúng ta mà diệt gọn. Bài học bẻ đũa từng chiếc lẽ nào chúng ta không biết? Tôi đề nghị từ nay bộ đội các đồng chí chọn một cái tên chung để gọi. Chẳng hạn như Giải phóng quân hay Vệ quốc quân. Nghe hay hơn là bộ đội của ông A, bộ đội của ông B... Để không lẫn lộn, ta cho mỗi đơn vị một con số như chi đội 1, chi đội 2, vân vân. Các chỉ huy gật gù tán đồng ý kiến Nguyễn Bình. Vấn đề đổi tên chẳng làm thiệt gì cho họ, bởi họ vẫn nắm quyền chỉ huy. Tuy mang tên chung là Giải phóng quân, nhưng “hồn ai nấy giữ” Lúc đó ngồi kế Nguyễn Bình có Huỳnh Kim Trương, Lương Văn Trọng. Nguyễn Bình cười bảo: - Tôi đề nghị đặt phiên hiệu theo thứ tự như sau: Bộ đội tỉnh Thủ Đầu Một của anh Huỳnh Kim Trọng là Chi đội 1, bộ đội Bình Xuyên do anh Lương Văn Trọng đại diện là Chi đội 2 và 3 vì lực lượng Bình Xuyên khá đông. Bộ đội anh Huỳnh Văn Trí là Chi đội 4, bộ đội anh Phạm Hữu Đức là chi đội 5... Tuy Nguyễn Bình chỉ đề nghị nhưng các chỉ huy đều coi đó là quyết định và họ chấp nhận vì thấy hợp lý. Sau Hội nghị An Phú Xã không bao lâu thì Nguyễn Bình được mời dự hội nghị Xứ uỷ mở rộng tại Bình Hoà ngày 15-12-1945. Hội nghị quyết định chỉ định ba khu trưởng cho ba khu 7, 8, 9. Đó là Nguyễn Bình, khu 7, Đào Văn Trường, khu 8 và Vũ Đức, khu 9. Hội nghị cũng quyết định đổi tên Giải phóng quân thành Vệ Quốc đoàn. Trở về miền Đông, Nguyễn Bình ra thông tri huỷ bỏ các nghị quyết của Hội nghị An Phú Xã để thi hành nghị quyết của Hội Nghị Bình Hoà. Các chi đội được mang tên chung là Vệ quốc Đoàn. Danh sách các chi đội ở miền Đông như sau: - Chi đội 1 của Huỳnh Kim Trương, tỉnh Thủ Đầu Một - Chi đội 2 của Huỳnh Văn Nhị, quận Nhà Bè - Chi đội 3 của Từ Văn Ri, quận Nhà Bè - Chi đội 4 của Huỳnh Văn Trì, Bà Quẹo - Chi đội 5 của Phạm Hữu Đức, tỉnh Tân An - Chi đội 6 của Nguyễn Văn Dung, tỉnh Giả Định - Chi đội 7 của Nguyễn Thanh Bạch, tỉnh Tây Ninh (Cao đài) - Chi đội 8 của Nguyễn Hoài Thanh, tỉnh Tây Ninh (Cao đài) - Chi đội 9 của Lê Văn Viễn, Phú Thọ. - Chi đội 10 của Huỳnh Văn Nghệ, tỉnh Biên Hoà - Chi đội 11 của Trịnh Khánh Vàng, tỉnh Tây Ninh - Chi đội 12 của Tô Ký, Hốc Môn - Bà Điểm - Đức Hoà Chi đội 13 của Mười Thìn, Tổng Công Đoàn - Chi đội 14 của Trần Văn Trà, tỉnh Tân An - Chi đội 15 Huỳnh Văn Một, Đức Hoà... Vài tháng sau có vài thay đổi: - Hai Nhi (Đinh Văn Nhị) bi địch bắt, Nguyễn Văn Chẳng (Năm Chẳng) lên thay ở chi đội 2. - Từ Văn Ri tử trận tại Long Thành, Mười Lực nắm chi đội 3. - Hai chi đội 2 và 3 gọi là Liên Chi Bình Xuyên. - Hai Chi đội Cao đài 7 và 8 của Nguyễn Thanh Bạch và Nguyễn Hoài Thanh chạy ra toà thánh Tây Ninh, Nguyễn Thanh Bạch đổi tên là Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Hoài Thanh đổi tên Nguyễn Văn Thành. Chi đội 7 sau đó là tên của bộ đội Nguyễn Văn Mạnh và Mai Văn Vĩnh (Tám Mạnh - Hai Vĩnh) gốc Chánh Hưng. Ba Chi đội 12, 14, 15 gốc là giải phóng quân Liên quận Hốc Môn - Bà Điểm - Đức Hoà. - Chi đội 16 là bộ đội Bà Rịa với các chỉ huy, Hứa Văn Yến, Phan Đình Công. - Chi đội 21 của Tư Hoạch ở cầu ông Thìn (Cần Giuộc). - Chi đội 25 vốn là bộ đội An Điền (Thủ Đức) của Bảy Quai bị Lâm Văn Đức (Tư Tị) ở Cầu Bót (Chợ Lớn) chiếm đoạt. Điểm qua thực lực các lực lượng võ trang miền Đông Nam Bộ, Nguyễn Bình thấy rõ nhóm Bình Xuyên trội hơn hết. Giữa các chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 21 và 25 có một liên hệ chặt chẽ: các chỉ huy bảy chi đội này đều xuất thân giang hồ vùng Nhà Bè, Cần Giuộc gọi chung là Bình Xuyên. Còn hai chi đội 7 và 8 trước đó là gốc Cao Đài Tây Ninh. Với các lực lượng này phải hết sức khéo trong việc lãnh đạo... Trong dịp này Nguyễn Bình cũng tìm hiểu về các sư đoàn 1, 2, 3, 4 đã có trước khi ông tới miền Đông Nam Bộ. Ông Huỳnh Văn Một và các chi đội trưởng cho anh Ba biết một số chi tiết về các sư đoàn “hữu danh vô thực” trên như sau: Sư đoàn 1 được gọi là Đệ nhất sư đoàn hay là Cộng hoà vệ binh phần lớn gồm Garde Civile Locale (GCL) (cảnh sát mã tà) của Tây trước đây và một số lính Heiho (Hải Hồ) của Nhật. Đây là lực lượng chủ lực của Lâm uỷ hành chánh Nam Bộ. Chỉ huy trưởng là Kiều Công Cung. Trong hàng ngũ chỉ huy có quan hai Đang, quan một Lê Văn Tỵ. Ở cấp adjudant (ách hay là vệ) có các anh Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quận, Nguyễn Văn Hoặc... Sư đoàn 2 gọi là Đệ nhị sư đoàn do Nguyễn Ngọc Nhẫn tức Vũ Tam Anh (Ba chữ N là Tam Anh) cầm đầu. Vũ Tam Anh là con địa chủ, bất mãn vì cách mạng chia ruộng cho nông dân nên dựa vào Bình Xuyên của Bẩy Viễn để chống Việt Minh. Sư đoàn 3 gọi là Đệ tam sư đoàn do Nguyễn Hoà Hiệp là cường hào quê ở Lái Thiêu chỉ huy. Hiệp thi rớt đíp-lôm (thi tốt nghiệp cấp hai) làm thư ký Bưu điện Lái Thiêu, sau bỏ sở làm mật thám cho Pháp rồi cho Nhật. Trong những ngày đầu kháng chiến, Đệ tam sư đoàn trở thành thổ phỉ cướp của giết người gây điêu linh thống khổ cho dân các vùng chúng đi qua, nhất là trị trấn Cao Lãnh. Lính đa số là công nhân cao su. Sư đoàn 4 gọi là đệ tứ sư đoàn của Lý Huê Vinh. Vinh là người Tàu lai, lưu lạc giang hồ sang Thái Lan và đã theo quân Nhật trở về Sài Gòn, lính là công nhân Cao Đài và tự vệ của Nhật. Bốn sư đoàn trên tan rã nhanh chóng khi Tây trở qua. Chỉ có Cộng hoà vệ binh dưới sự chỉ huy của hai anh Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quan là theo kháng chiến tới cùng... Ngoài bốn sư đoàn chánh quy nói trên còn có lực lượng Quốc gia tự vệ Cuộc. Đầu kháng chiến, Nam Bộ có ba bộ chỉ huy ba khu 7, 8, 9. Khu 7 Kiều Đắc Thắng tự xưng tư lệnh. Khu 8 có Đào Văn Trường và khu 9 có Vũ Đức. Kiều Đắc Thắng là công nhân miền Trung vô Sài Gòn trước cách mạng tháng Tám. ĐàoVăn Trường là công nhân mỏ than Hòn Gai ở Quảng Ninh còn Vũ Đức là người Tày, từ miền Bắc. Khi Nguyễn Bình vào Nam với danh nghĩa đặc phái viên Trung ương, Kiều Đắc Thắng rút đi ra Bắc theo ngã Ba Biên Giới theo quốc lộ 13 lên Ban Mê Thuộc. Nguyễn Hoà Hiệp kéo Đệ Tam sư đoàn xuống Đồng Tháp Mười, còn Lý Huê Vinh kéo Đệ tứ sư đoàn tên Dầu Tiếng chiếm núi Cậu làm căn cứ.