V/- THAM VỌNG BÀNH TRƯỚNG CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA CỦA NGƯỜI PHÁP Sau khi Pháp và Trung Quốc ký kết và phê chuẩn thỏa ước hòa bình ngày 25 tháng 10 dl năm 1860 tại Bắc Kinh (để bổ túc thêm cho hoà ước Thiên Tân ký kết giữa Pháp và Trung Quốc vào ngày 27 tháng 6 dl năm 1858), Charner liền đưa hết đoàn quân viễn chinh Pháp từ chiến trường Trung Quốc trở qua Sài Gòn. Đoàn tàu chiến chuyển quân của Charner đế Sài Gòn ngày 7 tháng 2 dl năm 1861. Ngày 24 và 25 tháng 2 dl tấn công đại đồn Kỳ Hòa, đẩy lui quân triều đình ra khỏi vòng đai Sài Gòn, Gia Định, chiếm luôn Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Quân triều đình rút lui về cố thủ Biên Hòa. Kế tiếp quân của Charner tiến chiếm Mỹ Tho. Sau chiến thắng Mỹ Tho, Charner phải tạm ngưng việc chiến tranh để lo tổ chức cai quản cả một vùng lãnh thổ rộng lớn nằm giữa sông Mê-kong và sông Soài Rạp. Ngay cả việc người Cao Miên sẵn sàng chịu đặt lãnh thổ của họ dưới quyền kiểm soát của đoàn quân viễn chinh Pháp mà Charner cũng phải làm ngơ. Với súng óng kỹ thuật tốt và vượt trội so với vũ khí của quan binh triều đình Đại Nam cùng với tinh thần đánh trận yếu kém chưa đánh đã bỏ chạy của quân binh nhà Nguyễn thì đoàn quân chiến thắng của Charner có thể tiếp tục cuộc hành quân xâm lược để đánh chiếm luôn tỉnh Biên Hòa và 3 tỉnh miền Tây không mấy khó khăn nhưng Charner phải ngừng lại. Tại sao? Bởi vì theo Charner chiếm đất thì không khó lắm nhưng giữ đất đã chiếm được thì không phải dễ: "Nếu tôi có thêm một ngàn quân thì tôi sẽ đánh chiếm luôn ba tỉnh phía Tây nhưng liệu rằng tôi có đủ nhân sự để giữ 3 tỉnh đó hay không? Tôi phải tự hạn chế để không phải thối lui lấy một bước. Danh dự của người Pháp tùy thuộc vào điều đó". Đây là lời của Charner viết ra gởi cho Chasseloup-Laubat bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc Địa của chính phủ Pháp ở Paris ("Si j'avais mille hommes de plus, écrivait-il au ministre de la marine, je prendrai ces trois provinces; mais aurais je assez le monde pour les garder? Je dois m' attacher à ne pas faire un pas en arrière. Notre prestige en dépend." (A. Schreiner; sách đã dẫn; trang 195). Như vậy, người Pháp dừng lại không phải vì họ nghĩ rằng như thế đã đủ để bó buộc triều đình nước Đại Nam thay đổi chính sách ngược đãi đạo gia tô, một tôn giáo xa lạ do những người Âu Châu-trong đó người Pháp chiếm một tỷ số lớn- nhập cảng vào nước Đại Nam. Vấn đề ngược đãi đạo Gia tô chỉ là một cái cớ nhỏ khởi đầu để cho người Pháp có thể thi hành chính sách xâm lăng thuộc địa của họ. Tham vọng thuộc địa của người Pháp không dừng lại nơi tỉnh Mỹ Tho. Tham vọng của người Pháp không những được phát hiện từ những thái độ hiếu thắng quân phiệt của những kẻ cầm đầu Bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính phủ Pháp ở Paris mà còn có thể phát hiện từ những cấp thừa hành trong đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp mà điển hình là Francis Garnier. Fracis Garnier (1839-1873): Trong một quyển sách có tựa đề Nos Premières Années Au Tonkin tác giả Paulin Vial (1831-1907) có đoạn viết về Francis Garnier như sau: "A cette époque, Garnier avait 34 ans. Intelligent, instruit, courageux, doué une ambition ardente, partout où il avait servi il avait attiré l' attention de ses chefs et de ses camarades. Il avait pris part à l' expédition de Chine et de Cochinchine sous les ordres de l' amiral Charner (1860-1861). Revenu à Saigon à la fin d' Avril 1863, il fut admis, sur sa demande, dans l' administration des affaires indigène par décision de l' amiral de la Grandière. Il servit à Cholon en qualité d'inspecteur stagière sous les ordre de M.Gaudot, auquel il succéda en 1865. En 1866, il avait été designé, sur sa demande, pour faire partie de la Commission d' exploration du Mékong, commandée par M. de la Grée, capitaine de frigate. Parti de Saigon le 5 juin 1866, il y rentra en octobre 1868, ramenant le cercueil de son chef qui repose dans le cimetière de Saigon. Il était allé ensuite à Paris où il dirigea la redaction de cet important voyage qui fait tant d' honneur à notre pays. En 1870 et 1871, Garnier prit une part glorieuse à la défense de la capitale." (Paulin Vial, Nos Premières Années au Tonkin, trang 50, nhà xuất bản Baratier-Molaret, France 1889) Tạm dịch: "Vào thời đó, Garnier 34 tuổi, thông minh, có giáo dục, can trường, đầy tham vọng, ở bất cứ nơi nào ông ấy phục vụ đều gây sự chú ý của thượng cấp và bè bạn. Ông đã góp phần tham dự vào công tác thám sát ở Trung Quốc và ở Nam Kỳ hạ theo lệnh của đề đốc Charner (vào những năm 1860-1861). Trở lại Sài Gòn vào tháng 4 năm 1863, ông làm đơn xin và được la Grandière chấp nhận vào làm việc trong ngành quản trị hành chánh bản xứ sự vụ. Ông được cho giữ chứ thanh tra bản xứ ngạch tập sự ở Chợ Lớn (ngang với phó thị trưởng) dưới quyền chánh thanh tra bản xứ Gaudot. Ông thay thế Gaudot vào năm 1865. Năm 1866, Ông yêu cầu và được chấp thuận cho tham dự vào đoàn thám hiểm sông Mékong do đại úy hải quân de Lagrée làm trưởng đoàn. Đoàn thám hiểm rời Sài Gòn vào ngày 5 tháng 6 năm 1866 và quay trở về vào tháng 10 năm 1868 kéo theo quan tài đựng xác người trưởng đoàn đễ chôn cất nơi nghĩa trang thành phố Sài Gòn. Tiếp theo đó, ông đi Paris và ở đó ông đã tự mình ghi lại chuyên đi thám sát tạo niềm hãnh diện lớn lao cho đất nước chúng ta. Năm 1870 và 1871, Garnier chia xẻ một phần vinh quang trong việc bảo vệ thủ đô." ° Có thể nói rằng Francis Garnier là một thanh niên trẻ tuổi đã đóng góp lớn lao cho sự hình thành chính sách thuộc địa của nước Pháp ở Đông Dương. Không phải ngẫu nhiên mà La Grandière đưa Francis Garnier vào đoàn công tác thám hiểm sông Mê-kong. Garnier được trọng dụng bởi vì trước đó F.Garnier đã thi hành thành công các nhiệm vụ thám sát ở Trung Quốc và ở Nam Kỳ hạ. Cũng có thể nói rằng F.Garnier là một người lín tiếp tế mà không ai có thể phủ nhận phẩm chất và giá trị của nó đối với nền công nghiệp đế quốc của chúng ta. Diện tích trồng bông vải trong 3 tỉnh của chúng ta chỉ có 2,500 héc-ta mà lại trồng tỉa một cách phân tán cho nên rất khó định giá chính xác. Nếu lấy chỉ tiêu là 3,500 tôn-nô sản lượng với trị giá thu gặt là 3 triệu đồng quan thì con số nầy còn quá thắp so với thực tế. Bông vải là mối hàng cung cấp cho các tỉnh ven biển nằm giữa Bắc Kỳ và Nam Kỳ và một số bông vải tốt đã được bán sang tỉnh Quảng Châu bên Trung Quốc với giá bán 20% rẻ hơn so với bông vải sản xuất từ xứ Bengale bên Ấn Độ. Triển vọng phát khai thác công nghiệp sản xuất bông vải rất là to lớn và nhất là có thể cải thiện một cách đáng kể. Diện tích trồng mía cũng tương đương với diện tích trồng bông vải. Sản lượng đường mía lên đế 7,500 tôn-nô và một phần trong số nầy cung cấp cho miền Bắc bằng ghe thuyền đường biển. Trị giá sản lượng nầy là 4 triệu đồng quan Pháp. Ở Pháp quốc hiện nay người ta nhắm vào vào các nguồn tài nguyên từ việc nuôi tằm trên lãnh thổ thuộc địa của chúng tạ Có thể nói rằng nghề nuôi tằm ở đây chỉ mới được gieo mầm trong tình trạng phôi thai. Kỹ nghệ nuôi tằm lấy tơ dù rất phổ biến ở Nam Kỳ nhưng phải nói rằng rất hiếm thấy. Không có một nơi nào hội đủ các yếu tố cần thiết để có thể sản xuất một cách quy mô. Người trồng dâu thì không trực tiếp nuôi tằm còn người nuôi tằm thì phải tìm lá dâu ở nơi khác. Căn nhà lụp xụp của người An Nam thường cũng là một căn trại nhỏ nuôi tằm và sản xuất nhiều lắm vài cân tơ sợi. Kỹ thuật kéo tơ còn thô sơ, màu sợi tơ thì vàng, sợi tơ thô và chỉ kéo được chưa tới 1/2 kí lô sợi.Chu kỳ nuôi tằm lấy tơ kéo dài trong khoảng từ 45 đến 50 ngày. Trứng tằm chỉ có thể sống và nở trong vòng 10 ngày. Sâu tằm có thể sinh sản quanh năm. Diện tích trồng dâu nuôi tằm khoảng 2,050 héc-ta để sản xuất khoảng 6,000 kí lô sợi tơ thô trị giá 240,000 đồng quan Pháp. Miền Bắc nhập cảng một số mặt hàng tơ lụa sản xuất từ Sài Gòn. Ngoài những nguồn khai thác vừa kể trên còn có thêm những nguồn khai thác khác ít quan trọng hơn như cây chàm (tràm) được trồng ở Biên Hòa trên một diện tích 400 héc-ta; sản xuất muối ăn ở Bà Rịa với một diện tích là 500 héc-ta với sản lượng 70,000 tôn-nô muối trị giá 1,200,000 đồng quan Pháp. Đây là một loại nhu yếu phẩm vật cần yếu để giao thương với các bộ tộc trong nội địa và ở vùng đồng bằng sông Mé-Kong, một loại nhu yếu mà họ không thể nào sản xuất được. Rau cải phơi khô, trầu, cau, cây thuốc nhuộm cung ứng cho các tỉnh nội địa ở miền Tây hay ở các tỉnh ở Cao Miên. Cá khô mặn, gạo, bắp, là nguồn thức ăn cho toàn thể dân chúng, cây gỗ xây cất, phân bón động vật, dây thừng bằng nứa hay bằng sơ dừa, bao đựng thóc, các loại hương liệu, trà kém phẩm chất so với trà Trung Quốc, vân.,vân., tất cả các thứ nầy đều nằm trên bản danh sách các sản vật trao đổi giữa dân chúng bản xứ trên vùng đất Trung Ấn nầỵ Để tránh sự trình bày chi tiết trở thành các khô khan, tôi sẽ tóm lược những sản lượng chính yếu trong 3 tỉnh của chúng ta trong một bản liệt kê như sau: Diện tích Sản lượng Trị giá Ghi chú Sản vật canh tác kg francs héc-ta Lúa gạo 105,000 210,000,000 35,000,000 Số lượng trọng tãi Thuốc lá 4,000 5,000,000 1,200,000 Lá thuốc phơi khô Bông vải 2,500 3,500,000 3,000,000 Đã tuốt hột Đường mía 2,500 7,500,000 4,000,000 Đường thô Tằm tơ 2,000 6,000 240,000 Tơ sợi thô Muối ăn 500 70,000,000 1,200,000 Chưa tinh chế Cây trà 400 500,000 200,000 `Trầu 200 3,000,000 1,200,000 Lá trầu tươi Rau, trà, Trồng trọt trên các đậu phọng? 1,000,000 4,800,000 hửa đất nhỏ khó có liệt kê chính xác Cau 3,000,000 cây? 3,000,000 Bán từng quày cau. Dây thừng? 1,500,000 300,000 Ngư nghiệp 1,000,000 Màu nhuộm 200,000 160,000 Cây nhuộm, dây móc câu, rệp son Hạt ép dầu 800,000 200,000 Thú sản 1,000,000 500,000 Da, sừng, ngà voi 117,000 304,000,000 56,000,000 Trong bảng liệt kê nầy, tôi chỉ mới đưa ra những sản vật xuất cảng. Các loại cây gỗ xây cất chưa có thể liệt kê ra được và mặc dù có một trị giá đáng kể việc khai thác loại sản vật nầy vẫn chưa được đặt trên một căn bản thường xuyên. Tôi chỉ cần nêu ra rằng riêng năm 1863, đã có 6 tàu chở sang Thượng Hải nhiều loại gỗ quý hiếm, điều nầy cho thấy nền khai thác gỗ sẽ trở thành một nguồn lợi tức phong phú của dân chúng. Người ta thấy rằng nếu cộng thêm vào các phần đất đang canh tác một diện tích 80,000 héc-ta sau một thời hạn gieo trồng lúa thóc thì sẽ có một vùng đất trồng trọt là 2,000 cây số vuông. Thêm vào đó, 500 cây số vuông đất vườn trồng hoa màu chia cắt vụng vặt đến mức không thể đưa vào bàn liệt kê vừa mới trình bày ở phần trên; 2,000 cây số vuông sông rạch, đồng lầy, đường xá, nhà cửa vân...vân..., nâng con số nầy lên thành 4,000 cây số vuông. Như vậy, diện tích 3 tỉnh của chúng ta là 8,000 cây số vuông. Trong diện tích nầy thì 3,500 cây số vuông là đất hoang hay rừng đang chờ đợi chúng ta khai thác trong tương lai. Các phần đất nầy phần chính nằm ở phía Bắc tỉnh Gia Định và tỉnh Biên Hòa, tức là những vùng trù phú hơn hết của lãnh thổ Nam Kỳ thuộc Pháp. Vì là vùng đất cao và khó tưới nước hơn là ở các vùng đất ven biển cho nên không thể cấy trồng lúa thóc theo tập tục của người dân An Nam và như chúng ta đã thấy, ngoài ngành nông nghiệp trồng lúa thì tất cả những vùng đất màu mỡ khác vẫn còn nằm trong tình trạng phôi thai mặc dù chúng có tất cả những khả năng sản xuất tuyệt hảo. Các vùng đất phía Bắc phì nhiêu không bị ô nhiễm nầy nếu được khai khẩn trồng cây thuốc lá, bông vải, đường mía, dâu tằm thì đây là một sự phát triển lớn lao hiện nay đang chờh tiền sát có nhiệm vụ hướng đạo, vẽ đường dẫn lối cho đoàn quân viễn chinh xâm lược của Pháp đi chiếm đất dành thị trường các nước Á Châu đặc biệt là nước Đại Nam. Qua 2 bài tham luận, một bài viết vào tháng 4 năm 1864 dưới chủ đề La Cochinchine Française en 1864 và một bài viết vào tháng 3 năm 1865 với chủ đề De la Colonisation de la Cochinchine, Francis Garnier đã cho người ta thấy tham vọng của Pháp muốn chiếm đoạt hết đất đai của nước Đại Nam, trước hết là vùng Nam Kỳ hạ, kế đến là Bắc kỳ và cuối cùng là Trung Kỳ. Sau khi hoà ước Nhâm Tuất (1862) được hoàng đế Napoléon III và hoàng đế Tự Đức phê chuẩn, triều đình Huế đã đã áp dụng chính sách ngoại giao đi cửa sau để qua mặt nhóm quân phiệt của Bộ Hải quân và Thuộc Địa chủ trương chiếm đất bám trụ trên đất nước Đại Nam. Chính sách ngoại giao qua mặt của triều đình Huế đã thành công: chính phủ Pháp ở Paris và hoàng đế Napoléon III đã đồng ý thay thế hòa ước Nhâm Tuất (1862) và cử ngay đặc sứ Aubaret sang Sài Gòn để ra Huế bàn nghị một hòa ước mới mà không cần tham khảo ý kiến của Bộ Hải Quân và Thuộc Địa cùng với những tướng tá của đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp hiện đang có mặt trên vùng đất Nam Kỳ hạ. Đây là một cuộc đảo chánh ngầm trong nội bộ của chính phủ Pháp khiến cho nhóm quân phiệt Pháp ở Sài Gòn bất mãn giận dữ và họ đã phản đối ngầm bằng cách vẫn tiếp tục thi hành những điều khoản đã thoả thuận trong hòa ước Nhâm Tuất (1862) mà không cần xin chỉ thị của chính phủ Pháp ở Paris và xem như không có mặt của đặc sứ Aubaret. Câu hỏi đặt ra là chuyện gì đã xảy ra trong khi Aubaret đang dự cuộc thương thảo ở Huế? Aubaret đến Sài Gòn vào ngày 21 tháng 5 dl năm 1864 nhưng chỉ được tiếp đón một cách lạnh nhạt do đó ông ta đã vội vàng lên tàu D' Entrecasteaux để đi và tới cảng Thuận An vào ngày 14 tháng 6 dl năm 1864, được Phan Thanh Giản đón tiếp long trọng theo nghi lễ ngoại giao và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến vào ngày 16 tháng 1 dl năm 1864 (theo BAVH đã dẫn). Tuy nhiên theo tác giả A. Schreiner ghi trong sách Abrégé de l' Histoire d' Annam thì Aubaret tới Huế ngày 16 tháng 1 dl năm 1864 và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến ngày 22 tháng 1 dl năm 1864). Aubaret được Tự Đức đối đãi rất trân trọng và thân thiện. Sau đó là cuộc bàn thảo và thương lượng giữa Aubaret và Phan Thanh Giản. Hoà ước mới được Aubaret cùng với phái đoàn Phan Thanh Giản ký kết và trao đổi vào ngày 15 tháng 7 dl 1864. Sau khi phái đoàn sứ Phan Thanh Giản đã trở về nước và trước khi Aubaret sang Sài Gòn thì bài tham luận LA COCHINCHINE FRANÇAISE en 1864 của Francis Garnier viết xong vào ngày 19 tháng 4 dl năm 1864 được nhà xuất bản E. Dentu & Challamel Ainé cho phát hành ở Paris. Khởi đầu bài tham luận, F.Garnier đã không ngại ngùng chê trách chính phủ Pháp ở Paris, báo chí, và dân chúng Pháp hiểu biết rất mù mờ về vùng đất Nam Kỳ hạ của nước Đại Nam: "L' étude de la Cochinchine française, au trible point de vue des habitants, de ses ressources, de son avenir, n' a jamais été faite d' une manière complète. En France, on ne possède sur ce sujet que queques articles de la presse périodique, plus anecdotiques que sérieux, plus intéressants qu'instructifs; quelques ouvrages faits à la hâte pour les besoins d'une passsagère actualité, remplis d'assertions inexactes et de lacune regrettables; quelques rapports ou quelques travaux faits à des points de vue trop locaux, trop restreints, souvent trop intéressés. Nulle part ne se trouvent des vues d'ensemble, un corps de données concordantes, une appréciation générale et élevée. Les premières impressions sur la Cochinchine, un peu enthousiastes, ont exagéré les facilités et les richesses qu'elle présentait à notre colonisation. On a dépeint sa population comme dénuée de tout patriotisme, on a exalté outre mesure sa faculté d'assimiliation. Aussi, une reaction très vive n'a-t-elle pas tardé à se produire aux premiers obstacles rencontrés, et une sorte de découragement a-t-il succédé aux premières espérances. En essayant d'esquisser l'état actuel de la question, je voudrait éviter l'un et l'autre de ces extrêmes, et réduire à des proportion plus exactes les facilités comme les obstacles que la Cochinchine offre à notre colonisation. Exagérer les difficultés induit souvent en des résolutions fâcheuses; les nier, c'est s'exposer à les rendre insurmontables; vanter outre mesure certaines facultés d'assimiliations, c'est, au lieu d'en profiter, risquer de les rendre inutiles. Si j'abdique d'avance toute prétention de combler la lacune que j'ai signalée en commençant, j'espère au moins, en indiquant où gît le problème, en provoquer de plus heureuses solutions". Tạm dịch: "Việc nghiên cứu về vùng Nam Kỳ hạ của Pháp trên ba lãnh vực dân cư, tài nguyên và triển vọng của vùng nầy từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện một cách đúng mức. Ở Pháp quốc, một vài tiết mục được viết trên các tập chí định kỳ có tính cách giai thoại lặt vặt không nghiêm chỉnh, tạo thú vị hơn là truyền đạt kiến thức; một vài tác phẩm viết lách vội vã vì nhu cầu thông tin thời sự đầy dẫy những điều khẳng định không đúng và đáng trách cứ; có vài bản phúc trình hay việc làm đưa ra nhiều quan điểm có tính cách cục bộ, giới hạn, thường chú trọng nhiều quá. Không tìm thấy đâu được những cái nhìn tổng thể, một khối dữ kiện hòa hợp với nhau, một sự đánh giá có tính cách tổng quát và có giá trị cao. Những ấn tượng đầu tiên hơi nhiệt tình về miền Nam Kỳ hạ đã phóng đại những tiện ích và sự giàu có ở miền đó. Người ta đã mô tả dân tình ở đó như là đã lột bỏ lòng yêu nước, người ta đã phóng đại một cách quá lố phương cách đồng hóa của nó. Thêm nữa, một sự phản ứng thật mạnh đã có ngay khi gặp những trở ngại đầu tiên và một niềm thất vọng đã nối tiếp theo sau ngay những niềm hy vọng ban đầu. Trong khi phát họa tình trạng hiện thời của vấn đề, tôi muốn tránh tình trạng đi từ cực đoan nầy đến cực đoan kia, và giảm xuống đến mức tỷ lệ đúng hơn về những lợi ích cũng như những trở ngại trong chính sách thuộc địa của chúng ta trên đất Nam Kỳ hạ. Thổi phòng những khó khăn thường dẫn đến những giải pháp phiền phức. Phủ nhận các khó khăn đó tức là tự mình làm cho sự khó khăn đó không thể vượt qua được; tán tụng quá đáng một số phương cách đồng hóa tức là có nguy cơ biến các phương cách đó trở thành vô dụng. Nếu tôi tự mình từ bỏ trước tham vọng lấp đi điều thiếu sót mà tôi đã đề cập từ lúc khởi đầu thì mong rằng việc tôi khơi dậy ẩn lấp của vấn đề sẽ khích động tìm ra những cách giải quyết tốt đẹp hơn". ° Sau đây là phần tạm dịch toàn bài tham luận LA COCHINCHINE FRANÇAISE en 1864 của Francis Garnier viết xong vào ngày 19 tháng 4 dl năm 1864 được nhà xuất bản E. Dentu & Challamel Ainé cho phát hành ở Paris. Hình Mẫu Trên đây là bản copy của trang khởi đầu bài tham luận của F.Garnier. I Tôi không bỏ qua vấn đề chủng tộc. Trong một vài bài viết gần đây, tôi đã trình bày một cách ngụ ý rằng các dân cư của đế quốc An Nam là kết quả của sự hợp chủng với tất cả các dân cư từ các vùng lãnh thổ chung quanh. Sự quyết đoán nầy tự nó sẽ không có nền tảng và muốn cho có ý nghĩa thì người ta sẽ phải nói cho biết sự hợp chủng là gì? Ở vào thời nào? Theo những tỷ lệ nào? Sự pha trộn đã tiến hành dưới nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau như thế nào? Muốn biết được những điều đó thì phải sinh sống lâu dài trên đất nước nầy và nhất là cần có sự nghiên cứu về ngôn ngữ, lịch sử và về các sắc tộc trên bán đảo Ấn-Hoa (thường được gọi là bán đảo Đông Dương, gồm có Việt Nam, Cao Miên và Lào), phải như vậy thì mới có thể hiểu được những câu hỏi nêu ra bằng không thì chỉ là lý thuyết. Một sự nghiên cứu lâu dài như thế cho đến nay chỉ mới có tính cách sơ thảo. Như vậy, tôi sẽ phải lướt qua các vấn đề vừa nêu ra ở trên để khảo sát sự khác biệt nòng cốt về chủng tộc giữa những cư dân đang sinh sống trên vùng Nam Kỳ hạ đối với những kẻ chinh phục mới đến. Phải thừa nhận rằng sự khác biệt nầy tạo thành một lý lẽ đối kháng, một nguyên nhân gây ác cảm. Tuy nhiên những điều nầy cần phải được công nhận vì giá trị chính đáng của nó. Giống như những nước chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Quốc, ở Nam Kỳ hạ có hai hạng người khác biệt nhau: một hạng là các sĩ phu (tức là những thành phần trí thức) và một hạng là thành phần các thứ dân (còn gọi là tục dân). Các uy quyền, cai trị đều do tầng lớp sĩ phu nắm giữ. Bắt chước một cách dốt nát những cung cách xử thế của các sĩ phu Trung Quốc, tầng lớp sĩ phu An Nam cuồng nhiệt áp dụng sự hiểu biết của họ và bất chấp bất cứ điều gì không phù hợp với văn minh kiến thức của họ. Trên thực tế, chúng ta đến đây chiếm đoạt quyền sở hữu lãnh thổ Nam Kỳ hạ từ tay của họ và cũng chỉ có họ mới là những kẻ không bao giờ chịu tha thứ cho chúng ta vì chúng ta đã chấm dứt sự tham lam bốc lột của họ trên tài sản dân chúng, để tiêu hủy ảnh hưởng và san bằng uy thế của họ, làm tiêu ma mất đi vai trò (lãnh đạo) của họ. Vì chỉ biết chú trọng trên những kiến thức ấu trĩ để hiểu biết về ưu thế của chúng ta cho nên họ chỉ có thể cảm nhận được ưu thế đó theo ý nghĩ của họ để rồi câm giận chúng ta nhiều hơn. Cuộc chiến giữa họ với chúng ta là cuộc chiến bất tận mà cũng chính là vì niềm cao ngạo của họ bị va chạm và sự thù ghét vì lợi lộc đôi khi đặt ngang với lòng ái quốc đã khiến cho họ can trường chấp nhận một cuộc chiến tranh không ngơi nghỉ và vô vọng, bất chấp sự chết chóc ô nhục, để được vẽ cho vài lời ca tụng anh hùng khiến chúng ta tuy phải khâm phục nhưng lại hối tiếc giùm cho. May thay, niềm cao ngạo đó lại tan biến đi trong khối dân chúng. Nhưng nếu chúng ta chỉ gặp một sự cam chịu tiêu cực trong khối quần chúng nầy nhưng với hậu quả của sự chịu đựng đau khổ triền miên đã trở thành thói quen của họ, thì chúng ta lại phải va chạm với những khó khăn nghiêm trọng về mặt tinh thần. Với một nền văn minh lâu đời không di dịch, với những truyền thống cội rễ và một tình trạng xã hội bám chặt vào phong tục tập quán thì người ta không thể nào làm biến đổi trong một sớm một chiều. Cách cư xử đơn giản và dễ giải của chúng ta từ trước đến giờ đã không thể nào xóa bỏ được sự tưởng tượng của người An Nam về mức độ kính sợ phục tùng do những quan chức cai trị thuở xưa đã tạo ra cho họ. Chúng ta chưa hiểu biết một cách sâu sắc về phong tục tập quán của họ, những phong tục đã tác động mạnh mẽ tinh thần của họ, đó là những khó khăn đầu tiên mà bất kỳ cuộc xâm lược nào cũng gặp phải trong lúc chuyển tiếp từ giai đoạn quân sự qua giai đoạn hành chánh dân sự; ngờ vực của họ đã được lèo lái và khai thác một cách khôn khéo để đạt tới một mục đích là biến ngờ vực đó thành một niềm tin tuyệt đối rằng chúng ta không có đủ khả năng để cai trị họ. Thêm nữa, về mặt vật chất, trong thâm tâm của những người chủ trương khi đưa ra những dự án cải cách thì những dự án nầy phải kích thích được sự ngưỡng mộ và sự biết ơn của dân chúng thay vì khiến cho họ bị bỡ ngỡ. Việc tạo dựng an sinh gây xúc động rất ít tại những miền nhiệt đới dễ dãi. Vì không có khả năng suy luận và đánh giá tầm quan trọng thực tế của những công trình được thực hiện trên đất nước của họ, người An Nam lại cho rằng các công trình đó chỉ nhằm để bốc lột, vơ vét, thâu thuế nhiều hơn. Nếu nghĩ rằng có thể thuyết phục được họ bằng cách đưa ra những con số để cho họ thấy là chúng ta đã chôn vùi tiền bạc của chúng ta vô số kể vào đất nước của họ, rằng còn lâu mới lấy được một ít tiền tài trong nước của họ; chúng ta nghĩ như vậy là mất thì giờ và nghịch lý. Mặt khác, người An Nam có thể chỉ biết mập mờ về bản chất của những xu hướng và phương cách áp dụng nền công lý của chúng ta. Ý thức đạo đức của họ quá mờ mịt và thấp kém khiến cho họ khó có thể nhận ra được cái nào là cái nhìn cao hơn, lớn hơn phát hiện từ cung cách hành động của chúng ta. Điều nầy chỉ thấy xảy ra ở những dân tộc mà những ý niệm về công lý và luật pháp trong mọi tình huống bị trộn lẫn vào các ý niệm về những hành vi đã rồi và bạo lực, mà đó lại là những tình huống cần sự che chở của luật pháp, một sự cầu viện n của 75 tàu xuất bến cảng Sài Gòn là do những tàu mang cờ hiệu của các nước Âu Châu đảm trách cho nên số thủy thủ đoàn khuân vác trên các tàu thuyền nầy ít hơn. Trong số 5 tàu chạy bằng máy hơi nước nhập bến cảng Sài Gòn trong 3 tháng đầu năm 1864 được nêu ra ở trên thì 4 chiếc là tàu chuyển vận của hoàng gia Pháp. Trên thực tế các tàu nầy dự phần vào đội thương thuyền của Pháp. Số sản lượng chuyên chở của các chiếc tàu nầy để xuất bến cảng Sài Gòn chỉ có 6,000 tôn-nô và số nhập là 5,000 tôn-nô. Số tổng cộng và sự phân chia mà tôi đã nêu ra ở bản liệt kê trên đây có vài điểm sai biệt với các số liệu chính thức do báo chí của chính quyền thuộc địa đã và sẽ đưa ra. Sự sai biệt nầy thường là do ở việc phóng chừng tình hình hoạt động chuyên chở cận duyên mà chỉ dựa trên tình hình chuyển vận ở Sài Gòn để lập thành các bản thống kê. Có rất nhiều giao dịch bên trong nội địa không được chú trọng tới. Chính là việc nghiên cứu các mặt hàng nội địa dự trữ chứa trong các kho nhất là từ các kho ở thành phố Chợ Lớn của người Hoa mà tôi đã đưa ra những con số lên bản kê khai kể trên, chỉ có những số liệu mà tôi cho rằng càng gần đúng với thực tế thì càng tốt. ° Tình thế nầy có vẻ như là ghi nhận một sự thịnh vượng tương đối nhưng đồng thời còn là sự biểu lộ một tình trạng trì trệ rõ rệt. Tàu thuyền thưa thớt trên các sông rạch đúng như người ta có thể dự kiến sau khi bến cảng Sài Gòn đóng cửa vào tháng 11 và tháng 12 đã qua. Gạo thóc chứa trong các kho ở Sài Gòn và Chợ Lớn gia tăng; giá thị trường từ 12.fr đồng quan Pháp mỗi tạ (1 pikul = 122 pounds tức vào khoảng 66 kí l ô) thì nay sụt giá còn có 9.fr trong khi đó thì cước phí chuyên chở lại gia tăng một cách đáng giận. Vào ngày 1 tháng 4 d.l, hàng tồn kho ở Chợ Lớn, một trung tâm thương mại quan trọng nhất trong ba tỉnh của chúng ta, được ghi nhận như sau: Gạo 20,000 tôn-nô Rau cải khô 1,000 " Linh tinh (nhiều nhất là cây nhuộm) 1,500 " Người ta đang đợi một số lượng bông vải đáng kể từ Nam Vang và từ Biên Hòa; gạo thóc tiếp tục gia tăng bởi các đoàn xe vận tải và nhập vào kho thành phố với mức độ từ 5 đến 6,000 tạ mỗi ngày, tương đương với trọng tải chuyên chở của một tàu bình thường. Người ta mong rằng sau khi đã biết rõ rệt thì tình trạng nầy sẽ được đổ dồn vào các tàu lớn trong bến cảng Sài Gòn. Hậu quả là càng phải cần dựa vào thực tế để dự đoán sự chuyển vận hàng hóa một cách tổng quát trong năm theo cách tính toán áp dụng cho thời kỳ 3 tháng đầu năm. Theo cách tính toán nầy thì có 104,000 tôn-nô hàng xuất bến cảng mà trong số đó gạo thóc chiếm hết 92,000 tôn-nô. Vậy, như đã thấy, là có thể ước lượng khoảng 1000,000 tôn-nô cho mặt hàng nầy xuất bến cảng cho một mùa gặt. Người ta lại có thể hy vọng rằng vào năm 1864 sự chuyển vận đường thủy sẽ gia tăng thêm 1/3 so với năm trước. Trị giá hàng chuyển vận xuất bến cảng nếu được tính theo cách thức như trên sẽ đạt tới mức 20 triệu đồng quan Pháp. Việc đánh giá các mặt hàng nhập bến cảng thì khó hơn. Tuy nhiên vì mặt chuyển vận nhập bến cảng ít quan trọng hơn, cho nên chỉ cần định giá loại nào mà tôi gọi là có giá trị thực chất cho thuộc địa của chúng ta. Cần một thời gian lâu hơn để phát triển ngành nhập cảng và Sài Gòn sẽ sớm trở thành một thị trường hàng hóa sản xuất từ Pháp quốc để cung ứng cho các nước trong vùng biển Trung Hoa hơn là cho vùng lãnh thổ thuộc địa của chúng ta. Hơn nữa, muốn đánh giá ảnh hưởng của sự chuyển vận nhập vào bên cảng Sài Gòn đối với sự chuyển vận trong ngành kỹ nghệ của nước Pháp như thế nào thì không những phải chú ý tới thị trường hàng tiêu thụ mới được nhập bến cảng Sài Gòn mà còn phải xét tới tính cách mới mẻ và phong phú của các mặt hàng đó tạo ảnh hưởng như thế nào lên nền thương mại của nước Pháp ở Singapore, ở Hồng Kong và ở Thượng Hải. Trước đây 5 năm rất hiếm thấy những mặt hàng của nước Pháp trên thị trường của 3 lãnh thổ vừa kể trên. Ngày nay thì các mặt hàng từ Paris, đồ hàng xén, thực phẩm mang nhãn hiệu nước Pháp tràn ngập tại 3 nơi đó. Hàng sành sứ, hàng gia dụng của Pháp hầu như đánh gục các mặt hàng tương tựa của người Anh. Vào năm 1855, vào 3 tháng cuối năm, hoạt động chuyển vận tại bến cảng Thượng Hải gồm có 564 tàu thuyền trong số nầy gồm có 249 tàu thuyền của người Anh, 57 của Mỹ, 7 của Đan Mạch, 11 của Hòa Lan, 11 của xứ Hambour, 9 của Thụy Điển, 3 của nước Peru, 2 của xứ Brême, 6 của nước Tây Ban Nha, 5 của nước Bồ Đào Nha, 4 của nước Xiêm La. Người ta thấy hầu như tất cả các nước có nền hàng hải đều hiện diện ngoại trừ nước Pháp. Năm 1863, có 22 tàu thuyền hàng hải Pháp nhập bến cảng Thượng Hải. Những kết quả tương tựa cũng được nhận thấy ở cảng Singapore và Hồng Kong. Sau cùng, trị giá hàng nhập bến cảng Sài Gòn trong năm 1863 là 12 triệu đồng quan Pháp trong đó có 7 triệu đồng quan hàng hóa Pháp so với tổng trị giá hàng hóa Pháp nhập các bến cảng trong vùng biển Trung Hoa là 20 triệu đồng quan trong cùng năm nầy và tổng số trị giá của nền hàng hải thương mại của Pháp chưa đạt được tới mức 100 triệu đồng quan fr. Để có một sự so sánh cuối cùng về những điểm liên hệ đến các vùng lãnh thổ thuộc địa của chúng ta, tôi thêm rằng, tổng giá trị thương mại xuất nhập cảng của toàn thể nước An Nam vào năm nhộn nhịp nhất tức vào năm 1841 là 3 triệu đồng quan fr. Dù tôi có đánh giá quá đáng về tình hình cư dân bản xứ Nam Kỳ hạ chịu đầu phục tức khắc và toàn diện thì cũng hy vọng rằng, trong khoảng một thời gian thật ngắn người ta sẽ thấy rằng việc xâm chiếm lãnh thổ có thể giảm lần lần xuống mức độ bình thường và chính quyền cai trị quân sự sẽ được thay thế bằng chính quyền cai trị dân sự. Không thể chối bỏ những thành quả mà phía quân sự đã thi hành để chiếm cứ và tổ chức cai trị lãnh thổ thuộc địa nhưng người ta lại không thể nào phủ nhận rằng vẫn còn có một sự lo âu nào đó trong tâm trí; nếu thay đổi những đường hướng sự vụ cần thiết và thường xuyên thì sự lãnh đạo sẽ không được tốt; nếu muốn thấy cái gì cũng phải tuyệt đối thì sẽ bị lầm lỗi khi đặt xứ sở phải thích hợp theo ý hướng riêng của mình thay vì phải sửa đổi những ý tưởng của riêng mình tùy theo tình hình của xứ sở. Trong những chiến dịch quân sự ở Nam Kỳ hạ không có gì đòi hỏi khác hơn là sự quyết định với lòng kiên trì và người ta đã luôn luôn thấy dân cư bản xứ ít hiếu chiến phải chịu khuất phục trước bất cứ một sự biểu dương lực lượng ngay từ lúc mới khởi phát.°1 (°1: dĩ nhiên là tôi không muốn nói tới cuộc khởi đầu xâm lược lãnh thổ nầy ). Vậy thì chúng ta hãy thừa cơ hội dễ dàng của công tác bình định hiện giờ và trong tương lai như vừa được tóm lược ở đây để tránh khỏi những công tác chinh phục dai dẳng tai hại như đã xảy ra ở nước An-giê-ri, để thay thế chính quyền quân sự bằng một chính quyền dân sự ngay từ lúc quyền lực của chúng ta đã được thiết đặt trên các vùng đất nầy. Như vậy có nghĩa là chuyển từ tình trạng chuyển tiếp sang tình trạng ổn cố, từ tình trạng nhất thời sang tình trạng vĩnh viễn, chấm dứt tình trạng e dè lưỡng lự trong nền thương mại và mang lại một sức đẩy mới cho các doanh nghiệp của các nước Âu châu. Dù rằng có những thể chế chao đảo liên tiếp từ 18 tháng qua ở Nam Kỳ hạ, dù có những biện pháp đối nghịch, những cách giải quyết ấu trĩ, những trói buộc không cố ý ảnh hưởng lên những sáng kiến thì lãnh thổ thuộc địa của chúng ta vẫn có một sức sống lớn lao mà người ta có thể so sánh với câu nói Fara da se (tự mình giải quyết lấy) khi nóí về nước Ý Đại Lợi. Chỉ trong vòng 2 năm đã có 200 căn nhà của người Âu Châu ở Sài Gòn (có thể F.Garnier nói từ năm 1862 tức là năm hoà ước Giáp Tuất được phê chuẩn đến năm 1864. Chú thích của F.Garnier cho biết rằng vào ngày 1 tháng 3 số nhà lợp ngói là 177 và số nhà lợp lá là 147 (nhà phụ. v.v..). Vào ngày 1 tháng 5 loại nhà lợp ngói tăng lên quá con số 200 rất nhiều). Những căn nhà của người Âu Châu nầy được xây cất lại từ những ngôi nhà đổ nát của người An Nam trước đây để lập thành phố thủ đô thuộc địa của người Pháp với số dân cư gần 4 triệu người; đó là không kể đến giá trị đất đai. Thương nghiệp hiện đang thử bổ xung những khiếm khuyết trong các công tác do nhà nước (Pháp quốc) đảm trách bằng cách thành lập một công ty đào vét vũng ụ sửa chữa tàu thuyền; một dịch vụ thông tin liên lạc giữa Singapore và Sài Gòn bằng loại tàu chạy máy hơi nước để thay thế cho ngành chuyển đạt thư tín thất thường và tùy thời do các tàu chiến đảm trách định kỳ theo ngành chuyển vận của hoàng gia Pháp quốc. Các kỹ nghệ máy móc, khai thác gỗ được thành lập. Một vài nhóm thực dân ở vùng Bourbon bị thu hút bởi các tiện ích chuyển vận của xứ nầy cho nên họ đang suy tính thiết đặt các nhà máy lọc đường mía ở đây để giảm bớt chi phí tiêu hao trong việc dùng quá nhiều lừa và xe kéo để chuyển tải mía ở đảo Réunion. Thị trường chuyển nhượng trồng cây thuốc lá đang thành hình. Ngành kỷ nghệ tơ tằm đang được chú trọng nghiên cứu. Tấc cả những sự tiến triển được nẩy nở giữa những tình hình không mấy tốt đẹp cùng với những mâu thuẫn tai hại. Số kiều dân Âu châu ở Sài Gòn ngang bằng và có thể vượt hơn số kiều dân Âu châu ở Singapore đã có kể từ 50 năm qua tới nay. Phải chăng tất cả những điều nầy lại là những bằng chứng nguy hại cho các mầm móng nẩy sinh sự phồn thịnh ma thiên nhiên đã đặt để trên phần lãnh thổ nầy của miền Nam Kỳ hạ hay sao? Và phải chăng chúng ta không thấy được rằng chúng ta đang hưởng được lợi lộc một cách nhanh chóng hơn là chúng ta mong đợi hay sao? ° III Trên đây là thời điểm hiện tại của miền Nam Kỳ thuộc Pháp. Phải thấy rằng thời điểm nầy không phải chỉ là những hứa hẹn nhưng nó cho phép ta dự tính được tương lai một cách xác thực. Tôi lặp lại rằng: đừng quên chúng ta đang ở vào buổi giao thời của cuộc chinh phục và chỉ mới đếm được từng giờ chung đụng với một dân tộc đã sinh sống lâu đời ở đây.