ai giờ 52 phút chiều thứ năm “Bây giờ đến vấn đề của tôi và anh”, Ibrahim nói. “Tôi cho là sẽ rất thú vị đây”. Gabriel đang chùi kính chắn gió của chiếc Audi A8 mui kín. Quảng trường King’s New hiện ra lờ mờ trong tuyết trước mặt anh. Ibrahim ngồi lặng lẽ ở hàng ghế sau, hắn mặc một bộ vest màu xám và một chiếc áo khoác mới toanh, ăn mặc như thể đang dự đám tang của chính mình. Tay hắn đặt nghiêm nghị vào lòng, bàn tay bị tật đặt dưới bàn tay kia, mắt nhìn xuống giày. Điện thoại của Gabriel đặt ở trên giá. Nó được kết nối đến văn phòng CIA ở đại sứ quán Mỹ và đến trụ sở NSA. “Ibrahim, đừng nói là ông định cho tôi nghe một trong những bài thuyết giáo của ông nhé”. “Tôi vốn dĩ là một giáo đồ”, Ibrahim nói. “Đó là việc tôi phải làm”. Gabriel đành chiều lòng Ibrahim. Có lẽ một bài thuyết giáo tốt hơn một sự im lặng. “Tại sao ông lại cho là nó sẽ rất thú vị?”. “Cả hai chúng ta đều đã chứng kiến những điều tệ nhất của cuộc sống này. Không gì còn có thể làm chúng ta khiếp sợ hay bất ngờ gì cả”. Hắn ngước lên nhìn Gabriel một lúc. “Những gì báo chí viết về anh sau vụ ở Luân Đôn có đúng sự thật không? Có phải anh chính là người đã giết những tên trong nhóm Tháng Chín Đen?” Ibrahim xem sự yên lặng của anh như một lời xác nhận những gì báo chí đã đưa tin là đúng. “Tôi còn nhớ rất rõ vụ ở Munich”, Ibrahim nói. “Vào hôm đó tất cả chúng tôi theo dõi tivi và rodio cả ngày. Vụ đó đã làm tưng bừng cả nước Arập. Bọn tôi vui mừng khi những vận động viên trong làng Thế vận hội bị bắt. Khi họ bị giết ở sân bay chúng tôi đã nhảy múa trên khắp các thành phố. Tôi cho rằng những phản ứng đó của chúng tôi hoàn toàn có thể thông cảm được. Chúng tôi yếu thế và bị lăng nhục. Các anh mạnh, giàu có. Các anh đã nhiều lần giáng đòn vào chúng tôi nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng đã hạ gục được các anh, nước Đức đã trở thành nơi gánh chịu thảm hoạ lớn nhất từ trước đến nay”. “Tôi tưởng người đạo Hồi các ông không tin vào sự tàn sát diệt chủng người Do Thái của Hitler. Tôi nghĩ các ông cho đó là một sự dối trá do người Do Thái đã dựng lên để đánh lừa cả thể giới nhằm cướp đất của người Arập”. “Tôi không phải là một kẻ tự lừa dối bản thân hay tỏ ra mưu mẹo”, Ibrahim nói. “Người Do Thái các anh xứng đáng có một quê hương, Chúa cũng biết điều đó. Nhưng sẽ tốt hơn cho tất cả chúng ta nếu các anh sớm trao cho người Palestine một vùng lãnh thổ ở Bờ Tây và Dải Gaza”. “Và cũng có nghĩa là cho các anh em đạo hữu giáo hội của ông một vùng lãnh thổ ở Hamas đúng không?”. “Với tốc độ mà chúng tôi đang tiến hành thì tình hình Hamas sẽ sớm dịu xuống”, Ibrahim nói. “Khi bản yêu cầu của người Palestine bị bác bỏ thì người Arập sẽ không còn có thể đổ lỗi ai đã gây ra tình trạng đáng thương của họ. Chúng tôi sẽ phải tự nhìn nhận vấn đề và giải quyết bằng chính sức lực của mình”. “Đó chính là một trong những lí do tại sao không bao giờ có hoà bình”. “Chúng tôi là những kẻ giơ đầu chịu báng cho thất bại của người Arập. Chúng tôi là cái gai trong mắt của người Arập. Những người Arập khinh bỉ bọn tôi nhưng họ không thể sống mà không có chúng tôi được”. Ibrahim gật đầu đồng ý và tiếp tục ngắm nhìn đôi giày của mình. “Có thật anh là chuyên gia phục chế mỹ thuật nổi tiếng?”. Lần này thì Gabriel gật đầu chậm rãi. Ibrahim bĩu môi một cách ngờ vực. “Anh có khả năng phục chế những bức tranh tuyệt đẹp, thế mà tại sao anh lại tham gia vào việc này?”. “Trách nhiệm”, Gabriel nói. “Tôi thấy bản thân phải có nghĩa vụ bảo vệ dân tộc mình”. “Những kẻ khủng bố cũng sẽ nói như thế” “Có lẽ vậy, nhưng tôi không sát hại những người vô tội”. “Anh chỉ đe doạ đưa họ đến Ai Cập để tra tấn”, Ibrahim nhìn Gabriel. “Anh đã làm vậy đúng không?”. Gabriel lắc đầu. “Không đâu, Ibrahim à, tôi sẽ không làm như thế với ông”. Ibrahim nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tuyết rơi đẹp quá”, hắn nói. “Không biết đây là điềm lành hay dữ”. “Một người bạn của tôi luôn cho rằng thời tiết như thế này rất thích hợp để vận động”. “Vậy đó là điềm lành”. Gabriel gật đầu. “Đúng vậy”. “Trước kia anh đã từng làm việc này rồi phải không?”. “Chỉ một lần duy nhất”. “Kết quả?”. Gabriel nhớ lại nhà ga Lyon đã tan nát như thế nào. “Tôi đã giải thoát được con tin”. Ông có biết con trai của ông muốn tôi và ông phải đi xuống con đường này không?”. Gabriel rời tay khỏi vô lăng và chỉ qua bên kia quãng trường. Đó là Stroget, khu buôn bán với những cửa hiệu và nhà hàng dài 2 dặm. Đó là khu thị tứ dài nhất châu Âu. Nó có tên gọi là Radhuspladsen. “Vụ việc diễn ra theo hướng họ sẽ theo dõi từng bước chúng ta đi”. “Chính xác. Nếu họ hài lòng với những gì chúng ta đã làm thì sẽ có một người gọi điện cho tôi bảo khi nào thì tôi và ông đến Rudhuspladsen và địa điểm tiếp theo là ở đâu”. “Khi nào thì bắt đầu?”. “3 giờ”. Ibrahim lặp lại. “3 giờ. Người Cơ đốc tin rằng đó là khoảnh khắc của cái chết. Theo anh, tại sao họ lại chọn 3 giờ?”. “Bởi vì vào lúc đó trời còn đủ sáng để bọn chúng nhìn rõ ta ở Stroget. Sau đó, khi màn đêm buông xuống sẽ tạo thuận lợi cho chúng vì ta không thể nhìn rõ được bọn chúng”. “Còn những người hỗ trợ nhỏ bé của chúng ta thì sao?”. Ibrahim hỏi. “Những người đã tóm tôi ở Amsterdam phải không?”. “Ishaq bảo rằng nếu hắn phát hiện ra có máy nghe trộm thì thoả thuận coi như kết thúc, Elizabeth Halton sẽ phải chết”. “Chỉ tôi và anh đi sao?”. Gabriel gật đầu và xem đồng hồ. Đã 2 giờ 59 phút rồi. “Cũng không quá muộn để ông quay đầu lại, ông không cần thiết phải làm việc này đâu”. “Hai đêm trước tại căn nhà đó tôi đã hứa với anh rằng tôi sẽ giúp anh giải thoát người phụ nữ đó và tôi sẽ giữ lời hứa của mình”. Mặt hắn đanh lại.”Tiện thể cho tôi hỏi chúng ta đang ở đâu thế?”. “Ở Đức”. “Một người Do Thái đe doạ sẽ tra tấn một người Arập ở trên nước Đức”, Ibrahim nói. “Quả là thú vị”. “Không phải ông định cho tôi nghe thêm bài thuyết giáo nữa chứ, Ibrahim”. “Tôi cũng định thế nhưng thời gian không cho phép”, hắn chỉ vào đồng hồ. “Thời khắc chết đã đến”. Không khí ở Stroget như trẩy hội. Với Gabriel, đây là đêm cuối cùng trước khi chiến tranh diễn ra và mọi người muốn tận hưởng khoảnh khắc còn lại của mình. Nhưng không có cuộc chiến nào cả mà đó là những ngày nghỉ, ít nhất là đối với những người mua sắm ở con đường nổi tiếng nhất của Copenhagen. Gabriel quá bận rộn trong việc tìm kiếm Elizabeth đến nỗi anh quên là sắp tới Giáng sinh. Gabriel và Ibrahim đi qua con đường nhộn nhịp này như những người sắp đi vào cõi chết, tay thọc sâu vào túi áo và lặng lẽ bước đi. Ishaq bắt buộc họ phải đi liên tục và không được dừng lại. Điều đó có nghĩa Gabriel không thể nào biết được có ai đang theo dõi. Đây là lần đầu tiên sau 30 năm anh đi dạo ở một con đường tại châu Âu mà không kiểm tra xem mình có bị ai bám đuôi hay không. Chính vì vậy, anh có cảm giác như đang bị mắc kẹt trong những cơn ác mộng, ở đó anh bị trần như nhộng đứng giữa mọi người. Gabriel nhìn thấy kẻ thù ở mọi nơi, cả mới lẫn cũ. Anh thấy những kẻ giống tên khủng bố của tổ chức Thanh kiếm Allah. Và cả những người của cục an ninh Đan Mạch. Trước hiên một cửa hàng, Gabriel thề là đã thấy Eli Lavon đang chơi violong bài Giáng sinh. Tuy nhiên đó không phải là Lavon mà chỉ là một người giống anh ta. Đột nhiên Gabriel nhớ ra Lavon không biết chơi viôlông, đơn giản vì anh dù có nhiều tài năng nhưng lại dốt đặc về âm nhạc. Ibrahim và Gabriel dừng lại ở một ngã tư và đợi đèn đường chuyển sang màu xanh. Một người đàn ông dúi vào tay Gabriel một mẩu giấy, nhanh đến nỗi tí nữa làm khẩu Beretta rơi ra khỏi túi. Mẩu giấy đó yêu cầu họ đến một nhà hàng gần vườn Tivoly. Gabriel đọc một cách cẩn thận để chắc chắn rằng không có một ẩn ý nào khác, sau đó anh vo tròn mẩu giấy và ném vào thùng rác. Đèn đã chuyển qua màu xanh, Gabriel khoác tay Ibrahim đi tiếp. Bây giờ trời bắt đầu tối, đèn đường đã sáng. Cửa sổ của các hàng quán đã bừng sáng những bảng hiệu chào đón nồng nhiệt. Gabriel không còn tìm những kẻ đang quan sát mình nữa, thay vào đó anh đắm mình vào những quang cảnh kỳ diệu xung quanh. Cảnh những đứa trẻ ăn kem một cách ngon lành dưới những bông tuyết mềm mại. Cảnh một người phụ nữ trẻ đẹp đang cúi xuống nhặt những món đồ rơi ra từ túi mua sắm. Cảnh dàn đồng ca ăn mặc giống những người lùn đang cất tiếng hát, tựa như các thiên thần hát mừng sự ra đời của Chúa. Anh vẫn còn nhớ những điều đã được nghe từ Uzi Navot trong cái đêm đầu tiên đó, khi họ lái xe qua những ngọn đồi bên ngoài Jerusalem. Người châu Âu lên án chúng ta vì vụ Libăng nhưng họ không hiểu Libăng chỉ là một cách để thu hút sự chú ý của khán giả. Bộ phim sẽ sớm được trình chiếu tại các rạp ở khắp châu Âu. Gabriel chỉ hy vọng nó không được chiếu ở Copenhagen đêm nay. Họ dừng lại ở một ngã tư khác và nhìn thấy một khu rộng lớn phía bên kia đường Radhuspladsen. Bên trái là toà thị chính của thành phố. Cái đỉnh của toà nhà xuyên thẳng lên đám mây như một ngọn dao. Ở giữa quảng trường là một cây thông Noel cao khoảng 15 mét, cạnh đó là một quầy bán xúc xích và rượu táo nóng. Gabriel bước đến quầy xếp hàng, nhưng anh chưa kịp tiến đến cửa sổ bán hàng thì điện thoại trong túi reo lên. Anh cầm điện thoại lên nghe không nói tiếng nào. Vài giây sau đó, anh bỏ điện thoại trở vào túi rồi khoác tay Ibrahim. “Chúng tôi và ông quay lại và trở về xe”, Gabriel nói khi họ bước qua quãng trường. “Rồi sao nữa?”. “Chúng không nói gì cả”. “Vậy chúng ta sẽ phải làm gì”. “Chúng ta sẽ làm y như lời chúng bảo”. “Bọn chúng có biết chính chúng đang làm gì không?” Gabriel gật đầu. Chúng biết chính xác chúng đang làm gì. Chiếc Audi lúc này đã bị phủ dưới một lớp tuyết dày. Sarah đang ngồi một mình ngay cửa sổ tại một quán cà phê gần đó. Cô đội một cái mũ bêrê hơi nghiêng về phía bên trái, ám hiệu rằng không ai lục soát xe trong lúc họ vắng mặt. Dù vậy, Gabriel cũng vờ làm rơi chìa khoá xuống mặt đường và nhìn nhanh qua gầm xe lúc nhặt nó trước khi mở cửa vào xe. Điện thoại lập tức reo lên khi Ibrahim vào trong xe. Gabriel lắng nghe những lời hướng dẫn sau đó cúp máy rồi khởi động xe. Anh nhìn vào cửa sổ quán cà phê lần nữa và thấy Sarah đưa tay lên trời. Anh sợ rằng cô ấy đang chào tạm biệt mình quá lộ liễu, nhưng ngay sau đó, anh bồi bàn đến và đưa hoá đơn cho cô, Sarah để vài tờ bạc lên bàn rồi đứng dậy. Gabriel gài số và lái xe ra khỏi vỉa hè. Cứ từ từ, Ishaq nói. Chúng ta còn cả một đêm dài.