Và thế là giờ phút trọng đại và hồi hộp nhất trong cuộc đời người hùng của chúng ta đã đến. Lần đầu tiên Martin phải bộc lộ tình yêu với người con gái đã chế ngự trái tim mình mà việc đó diễn ra ngay trước ngày chàng sẽ tham gia vào những sự kiện đầy hiểm hoạ đối với chàng. Chàng không sợ hãi, nhưng cảm thấy nỗi lo âu tràn ngập tâm hồn – điều hiển nhiên vẫn xảy ra khi người ta nghĩ tới cái chết gần kề. Lúc ấy do mối đe doạ của hiểm nguy, bản năng bảo tồn trong con người lên tiếng một cách vô cùng mạnh mẽ. với tâm trạng này, Martin mở đầu bức thư cho Leonor "Thưa tiểu thư, Lúc tiểu thư nhận được thư này, có thể tôi đã không còn sống hoặc tôi đã lâmvào mối hiểm nguy nghiêm trọng chỉ vì lẽ đó mà tôi dámcả gan viết thư cho tiểu thư đây. Liệu tiểu thư đã bao giờ đoán ra rằng tôi yêu tiểu thư. Khi có mặt tiểu thư, tôi luôn cảm thấy e dè, nhút nhát lạ lẫm với chính mình, không giây phút nào tôi quênrg mình chịu ơn gia đình tiểu thư quá nhiều, vì đã cưu mang tôi thật là hào hiệp và dẫu sao thì tôi vẫn cứ lo sợ không đủ sức che giấu bí mật của con tim. tiểu thư là tình yêu đầu tiên và duy nhất của tôi! Đây là lời thú nhận mà tôi giải bày trong niềm hứng khởi chân thành mà không hề trông chờ, hy vọng điều gì. Lý trí mách bảo tôi phản kháng lại mối tình rỗ dại này, nhưng trái tim tỏ ra mạnh hơn, tôi đành chịu khuất phục vì thứ tình cảm có quyền năng tối thượng dù biết trước nó sẽ không được đáp lại. Trong cuộc đấu tranh bền bỉ với chính mình, tôi chỉ đạt được một điều đó là giấu kín tình cảm của mình trước mọi người, kể cả tiểu thư. Song hôm nhay khi giáp mặt với mối hiểm hoạ của tử thần, tôi khát khao bày tỏ nỗi lòng cùng tiểu thư để tự cảm nhận niềm an ủi nhỏ nhoi. Xin hãy thứ tội cho tôi vì sự táo bạo lẫn sự yếu đuối! C thể đây là lời khẩn cầu cuối cùng của một kẻ sắp lìa đời hoặc lời chào vĩnh biệt của một kẻ bị số kiếp nghiệt ngã xua đuổi. Dù thế nào chăng nữa, khi thú nhận mọi điều, tôi phó thác mình cho lòng cao thượng của tiểu thư và cầu mong tiểu thư đừng khinh rẻ những lời tôi nói, đừng tiếp nhận chúng với vẻ nhạo báng, bởi vì, xin tiểu thư tin rằng, dù cho số phận không phán định cho tôi được xứng đáng với tình yêu của tiểu thư, tôi vẫn có quyền trông đợi ở tiểu thư lòng tôn trọng. Thưa tiểu thư, tôi muốn tiểu thư ghi nhận cho rằng, kể từ ngày ra đi tôi chưa lần nào cố tìm cách rũ bỏ lời buộc tội bất công bởi lẽ tự thâm tâm tôi vẫn tin là thời gian sẽ minh chứng cho mình. Nhẫn nại tột độ mang trên lưng một gánh nặng những ngờ vực đầy xúc phạm, tôi hy vọng sớm muộn gì cũng thuyết phục được tiểu thư tin vào sự vô tội của tôi và giờ đây, khi có thể là lần cuôi được nói cùng tiểu thư, tôi muốn nhắc lại rằng trong những lời giải thích trước lúc ra đi của tôi không hề có một chút bịa đặt nào. Tôi tự phỉnh phờ bằng niềm ước vọng là hôm nay tiểu thư sẽ tin tôi. Dù sao trong giờ phút trọng đại và lâm nguy, con người ta không nói dối" Martin kết thúc bức thư bằng lời cám ơn chân thành đối với toàn thể gia đình ông Damasso, cũng như ở những dòng vừa viết, chàng tránh được lối nói khoa trương kiểu cách mà do thói quen đua đòi những tiểu thuyết đa sầu đa cảm thời thượng, hầu hết các bức thư tình thời bấy giờ đều mắc phải. Mặc dù đã nhiều tháng ngày Rivas sống ngay bên cạnh Leonor, chàng vẫn nhìn nhận nàng như đấng thiên thần. Tuy thế khi nói với nàng, chàng trai không dùng những lời lẽ quỵ luỵ, nói về mối tình sâu nặng cũng như lòng ngưỡng mộ cuồng nhiệt của mình, chàng không dùng kiểu so sánh cầu kỳ bóng bẩy vẫn thường mơn trớn trái tim những kẻ đang yêu. Sau khi đọc đi đọc lại bức thư mấy lần, chàng trai cảm thấy tâm hồn mình dường như vừa trút được một gánh nặng ghê gớm, giờ đây thậm chí nếu số mệnh có bắt chàng phải chết thì ít nhất Leonor cũng biết đến tình yêu của chàng và tiếp nhận lời tự thú của chàng như một tặng vật thành kính của một con người thuỷ chung tha thiết. San Louis trở về lúc mười một giờ khuya. Mọi việc diễn ra tuyệt hảo – chàng nói với Martin – tớ mang binh giáp về đây. Nói đoạn Raphael đặt lên bàn ha dây lưng, mỗi dây đều đeo hai khẩu súng ngắn và hai lưỡi kiếm, chàng giấu vũ khí trong áo choàng. Hãy giữ lấy – chàng đưa cho Rivas sợi dây lưng có đeo súng ngắn và một lưỡi kiếm - Tớ trao cho cậu vũ khí như trao cho một chiến sĩ bảo vệ tổ quốc, để cậu anh dũng chiến đấu vì Người. Đôi bạn trẻ chăm chú ngắm nghía những khẩu súng, chia nhau từng viên đạn, và đeo kiếm vào sườn, họ che giấu xúc động dưới những tiếng cười vui vẻ và trêu chọc vẻ chiến binh của nhau. Sau đó Raphael nói cho Martin rõ kế hoạch của cuộc khởi nghĩa sắp tới và khẳng định với bạn điều gì cho phép họ tin tưởng vào thắng lợi. Đôi bạn trò chuyện đến tận hai giờ sáng và khi từ ngoài đường phố lọt vào một tiếng động nhỏ, họ nín lặng hồi lâu nghe ngóng, dường như cố đón bắt trong tĩnh mịch bao trùm quanh mình luồng hơi thở bất an của thành phố đang ngủ say. Đến lúc phải đi – San Louis ngó lên đồng hồ - Đã gần ba giờ rồi. cậu mang theo bức thư ấy chứ? Ừ - Martin đáp. Tớ đã đưa cho người hầu ông Damasso một peso để gã chờ tớ - Raphael nói tiếp – Rồi còn hứa cho thêm 8 peso nữa khi giao thư.l Dứt lời chàng ra khỏi phòng và trở lại sau đó vài phút, gương mặt nhợt nhạt của chàng lộ rõ vẻ hồi hộp tột độ. Tội nghiệp bà dì tớ! – chàng khẽ nói – bà đang ngủ và không hề ngờ điều gì cả. Chàng nhìn thoáng qua căn phòng, nơi chứng kiến những sướng vui và buồn khổ của mình rồi với dáng vẻ của một người quyết dứt bỏ gánh nặng hồi ức, chàng dõng dạc: Thôi ta đi, hy vọng rằng bọn mình sẽ chiến thắng trở về. Hai chàng trai ra khỏi nhà, vũ khí giấu kín dưới áo choàng và lặng lẽ tiến đến quảng trường Armas, băng qua đó rồi hướng về phía nhà ngài Ensina. Đợi tớ ở đây – Raphael thì thầm. Tới cổng, chàng gõ nhẹ, cánh cổng hé mở và người hầu ló đầu ra. Đưa bức thư này tận tay tiểu thư Leonor – Raphael trao cho người hầu chiếc phong bì – nàng phải nhận được nó ngay lúc vừa thức dậy vào sáng mai. Tiền tôi đã hứa đây – chàng nói thêm – Hãy coi chừng, thực hiện thật đúng đấy. San Louis gọi Martin rồi họ đi tiếp. Ít phút sau, đôi bạn dừng chân cạnh một ngôi nhà cũ nát, Raphael đẩy cánh cổng và nó đổ xuống một cách dễ dàng – họ đã ở trong chiếc sân tối mò. Thế rồi, theo từng tốp nhỏ hai ba người, dần dần mọi người kéo đến với những khẩu súng ngắn giấu dưới áo khoác hay áo choàng và sau một lúc trong sân đã tụ tập khá đông. San Louis tập họp tất cả lại và phân thành hai toán. Chàng giao cho Martin chỉ huy một toán, còn toán kia – một chàng trai khác. Chàng tự nhận trách nhiệmùi chỉ huy chung. Một số chàng trai Rivas biết rõ qua hội nghị bí mật được Raphael chỉ định làm trợ thủ cho các chỉ huy. Khi các toán quân đã ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đâu, Raphael đọc một diễn văn ngắn gọn nhắc nhở lòng dũng cảm nổi tiếng của dân tộc Chilê. Sau đó chàng ra lệnh cho một trong những trợ thủ của mình đi tới quảng trường và chờ ở đó cho đến khi xuất hiện các binh lính tham gia khởi nghĩa. Mười phút sau phái viên này quay lại báo cáo rằng binh đoàn Valdivia đã xuất hiện. San Louis hạ lệnh tiến lên và cả hai toán, giữ thẳng hàng hướng tới quảng trường, nơi họ tập kết chỉ sau vài phút so với binh đoàn Valdivia – đơn vị sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các sự kiện xảy ra ngày 20 tháng 4. Tại quảng trường, Raphael đến với nhóm thủ lĩnh bao quanh đại tá Pedro Uriola, người cầm đầu cuộc khởi nghĩa. Họ sôi nổi thảo luận kế hoạch hành động. Đa số cho rằng lính bộ binh và quân cận vệ quốc gia sẽ chạy sang phía quân khởi nghĩa, nhưng Raphael và một vài người khác kiên quyết yêu cầu tiến công không chậm trễ, tranh thủ thời gian chiếm các trại lính để vũ trang cho dân chúng. Cuộc tranh luận nuốt mất tiếng rưỡi đồng hồ và mãi đến 5 giờ 30 phút, khi tất cả đều tin chắc rằng số quân khởi nghĩa đều không tăng thêm nữa, quyết định mở đầu tấn công mới được ban bố. Mệnh lệnh tiến công vang lên, đội tuần tiễu tiến lên phía trước và tiếp ngay sau đó là các toán của San Louis – họ có nhiệm vụ chiếm các trại lính.