ảy giờ 30 phút sáng chủ nhật Chúng ập vào phòng giam của Elizabeth theo cách cô chưa bao giờ thấy. Cain nói chuyện với cô lần đầu tiên trong hơn hai tuần. “Cô sắp được thả”, hắn thổ lộ. “Cô có hai mươi phút để chuẩn bị. Không chuẩn bị xong trong vòng hai mươi phút, cô sẽ bị giết”. Rồi hắn đi mất. Tiếp theo là Abel xuất hiện, hắn mang vào một cái xô nhựa đựng nước ấm, một bánh xà phòng, một miếng vải lau và khăn tắm, một gói quần áo sạch và bọ tóc giả vàng óng. Hắn đặt những thứ còn lại lên giường cô, sau đó tháo còng và xiềng xích. “Hãy tắm rửa cho cẩn thận rồi mặc quần áo vào”, hắn bình tĩnh giải thích. “Chúng tôi mang đồ sạch cho cô mặc. Chúng tôi không muốn thế giới bạc đãi cô”. Hắn bước ra đóng cửa. Elizabeth muốn hét lên vì vui sướng. Cô muốn khóc cho nhẹ người. Nhưng cô vẫn làm một tù nhân gương mẫu cho tới phút cuối, cô làm theo như lời chúng bảo. Cô chỉ mất mười lăm phút trong khoảng hời gian cho phép để chuẩn bị rồi ngồi trên mép giường, hai đầu gối chạm vào nhau run rẩy khi chúng bước vào phòng giam lần nữa. “Cô sẵn sàng chưa?”, Cain hỏi. “Rồi”, cô đáp bằng giọng thấp, nghe nhẹ nhàng. “Thế thì đi nào”. Cô đứng dậy đi theo chúng từ từ lên dãy cầu thang tối tăm. Thông tin về việc giải cứu Gabriel thành công truyền đến đại sứ quán Israel ở Old Court Place lúc 7 giờ 48 phút sáng. Tin này được thông báo bằng điện thoại di động bình thường bởi Chiara, lúc này đang ngồi cạnh Gabriel phía sau chiếc Volkswagen Passat có đèn trước bị vỡ và cái chắn bùn nát vụn. Người nhận được cuộc gọi là Shamron, ông đã ôm mặt khóc khi nghe tin ấy. Cảm xúc của Shamron sâu lắng đến nỗi trong nhiều giây sau những người tập trung xung quanh không biết chắc Gabriel còn sống hay đã chết. khi thông tin rõ ràng là anh còn sống và trở về với đồng đội, một tiếng reo lớn vang lên trong phòng. Cuộc ăn mừng ngắn ngủi được thu âm bởi những đương day nghe lén của Anh ở GCHQ – cơ quan thoe dõi toàn bộ liên lạc của Israel trong đêm đó – cũng như tiếng yêu cần im lặng của Shamron khi ông lắng nghe phần báo cáo kế tiếp của Chiara. Shamron ngay lập tức thực hiện hai cuộc gọi, đầu tiên tới Adrian Carter ở trung tâm nghiệp vụ của Mỹ nằm bên dưới quãng trường Grosvenor và cuộc gọi thứ hai cho Graham Seymour, người đang có mặt cùng với Thủ tướng và uỷ ban COBRA ở phố Downing. Seymour nhanh chóng sắp xếp xe cảnh sát hộ tống Gabriel và những thành viên trong đội vào Luân Đôn an toàn; sau đó đi nhanh đến Đại sứ quán mỹ, Shamron cũng vậy. Hai người đàn ông đang đứng cạnh Adrian Carter khi chiếc Passat tơi tả và đội cảnh sát hộ tống dừng ở cổng Bắc. Chiếc xe lập tức được bao vây bởi hai chục nhân viên cảnh sát mặc đồng phục đnag đứng gác bên ngoài khu đất của Đại sứ quán. Tầm mắt của Shamron trong chốc lát bị che khuất, rồi cái biển màu xanh biến mất, ông thoáng thấy Gabriel đầu tiên. Một tay anh choàng qua vai Yossi còn tay kia qua vai Oded. Mặt anh đầy vết thương và sưng húp, bộ quần áo liền quần phủ đầy bùn. Họ đưa anh qua cổng, đỡ anh đứng dậy một lúc trước ba bậc thầy tình báo cấp cao. Shamron hôn lên má anh nhẹ nhàng làu bàu bằng thứ tiếng Hebrew không ai khác hiểu được. gabriel hơi ngước đầu nhẹ nhàng nhìn Graham Seymour. “Nếu ông bảo tôi đừng than phiền về cú đánh khốn khiếp chúng đánh lên đầu, tôi có thể mất bình tĩnh đấy”. “Cậu là thằng ngốc chết tiệt – và còn là anh chàng dũng cảm chết tiệt”, Seymour nhìn Adrian Carter. “Ta đưa cậu ấy vào trong được không nào?”. Đại sứ Robert Halton đang chờ trong phòng khách tại tầng một của Đại sứ quán, cùng với nhà đàm phán con tin của FBI – John O’Donnel và nhiều thành viên khác trong đội của người Mỹ. Khi Gabriel vào bên trong, vẫn phải bám lấy Yossi và Oded để được giúp đỡ, tiếng vỗ tay rụt rè vang lên, hình như họ sợ quá nhiều tiếng ồn có thể gây hại cho anh ta. Robert Halton bước đến chỗ Gabriel cẩn trọng đặt tay lên vai anh. “Trời đất, chúng đã làm gì anh thế này?. Ông nhìn Adrian Carter. “Hãy đưa anh ta đến văn phòng. Bác sĩ có thể khám cho anh ta ở đó”. Họ đỡ anh vào chiếc thang máy đnag chờ và đưa anh lên tầng chín. Yossi và Oded đỡ anh ngồi xuống ghế tràng kỹ trong văn phòng của ngài đại sứ, nhưng khi các bác sĩ cố ganwgs vào phòng, Graham Seymour chặn họ lại rồi nhanh chóng đóng cửa. “Hai mươi phút trước, một đội đặc nhiệm của Cảnh sát thành phố đã bao vây ngôi nhà trên đường Ambler nơi Ishaq cho rằng Elizabeth Halton đang bị giam giữ. Họ không tìm được cô nhưng lại tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy cô vừa mới ở đó. Sphinx đã dẫn chúng ta rong ruổi khắp Tây Âu trong khi cô ấy lại ở đây, ngay nước Anh này, ngay dưới mũi của chúng ta. Vấn đề là hiện giờ cô ấy ở đâu?”. “Thông tin mà Ishaq cung cấp cho Gabriel về vị trí của Elizabeth Halton là chính xác”, Adrian Carter nói. “Điều đó chứng ming rằng thông tin về những gì chúng định làm đối với cô ấy cũng chính xác”. “Đúng thế”, Gabriel nói. “Chúng định hành hình cô ấy bên gnoài tu viện Westminster trước khi bắt đầu những nghi lễ Giáng sinh. Cô ấy sắp bị giết bởi một cặp đánh bom tự sát, những kẻ lấy did nhiều sinh mạng vô tội cùng với chúng. Lẽ ra tôi sẽ nằm trong vụ thứ hai, một vụ đánh bom xe có thể giết hàng trăm người theo dấu tôi”. “Một cuộc tắm máu trước biểu tượng quốc gia quan trọng vào buổi sáng ngày sinh của Đáng cứu thế”, Graham Seymour nói. “Một âm mưu khởi động cuộc nổi dậy vũ trang ở Ai Cập và làm cho đất nước này phải quỳ gối”. Ông ngập ngừng rồi nói. “Và vụ này không đượ cphép xảy ra. Cho đến thời điểm này, có hàng trăm người tập trung bên ngoài cửa bắc của tu viện chờ được tham gia nghi lễ thánh ca và đọc kinh sẽ bắt đầu lúc 10 giờ 30 phút. Phương án duy nhât của chúng ta là phong toả Westminster và nhanh chóng di tản mọi người ra khỏi khu vực này”. “Một hành động kết án tử hình cho Elizabeth Halton”, Gabriel nói. “Nếu những tên tử vì đạo đến Westminster thấy tu viện được di tản và bị bao vây, chúng sẽ sử dụng phương án dự phòng, đó là giết cô ấy ngay, cho dù chúng đang ở đâu”. “Hãy tha thứ cho sự vụng về của tôi”, Seymour nói. “Nhưng đó là kết quả còn tốt hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu”. “Tôi không đi qua địa ngục để rồi bỏ cuộc tìm kiếm cô ấy đâu”, Gabriel nói. “Có một cách nữa”. “Cách nào?”. “Ishaq cho chúng ta biết rằng Elizabeth sẽ được hộ tống bởi hai người”, Gabriel nói. “Hắn đã cho chúng ta biết…” Graham Seymour đưa tay lên. “Đừng đi quá xa, Gabriel. Đừng điên rồ”. “Chúng ta hchờ bọn tử vì đạo đến, Graham à. Sau đó ta sẽ giết chúng trước khi chúng giết Elizabeth”. “Ta?”. “Ông nghĩ ta sẽ làm gì nào? Bắn chúng như những tay bắn tỉa đứng từ xa? Bắn chúng như những quý ông đứng cách 20 bước? Ông phải cho chúng đến gần. Sau đó ông phải giết chúng trước khi chúng bấm nút kích nổ. Có nghĩa là những phát súng bắn vào đầu ở cự ly gần. Như thế không dễ chịu đâu, Graham. Cònếu các tay súng do dự một chút, chuyện này sẽ chấm dứt bằng thảm hoạ”. “Cảnh sát thành phố có một đơn vị gọi là SP 19. Mũ nồi xanh. Họ là những sĩ quan về vũ khí đặc biệt, được huấn luyện cho mục đích này. Nếu trí nhớ tôi đúng, thì ta đã cử họ đi Israel để đào tạo”. “Anh đã là việc đó”, Shamron nói. “Và họ rất giỏi, nhưng chưa bao giơg được đặt trong một tình huống như thế này. Anh cần những tay súng trước đó đã làm việc tương tự thê snày – những tay súng không run sợ trước áp lực”. Shamron ngừng nói một chút rồi tiếp tục. “Anh cần những tay súng như Gabriel và Mikhail”. Seymuor nói. “Gabriel gần như không đứng lên được”. “Gabriel sẽ khoẻ thôi”, Shamron nói mà không màng đến việc hỏi ý kiến anh. “Ta hãy hoàn thành nốt việc mình đang làm dở”. “Làm sao ông chắc đó thực sự là cô ấy?”. Gabriel nhìn Robert Halton. “Nếu có ai chắc chắn được, thì người đó chính là cha của cô ấy. hãy đưa ông ấy vào sân ở phía Bắc của tu viện với một máy vô tuyến nhỏ xíu. Ông ấy có thể nhìn thấy Elizabeth, hãy gửi tín hiệu cho chúng tôi. Mikhail và tôi sẽ lo phần còn lại”. “Có một điều tôi không hiểu”, Seymour nói. “Làm sao chúng có thể bắt Elizabeth tự đi bộ đến chỗ hành hình?”. Gabriel nghĩ đến những gì Ibrahim đã nói vào đêm hắn chết ở Đan Mạch. “Chúng sẽ nói với cô ấy rằng cô ấy sắp được thả”, anh nói. “Theo cách đó, cô ấy sẽ ngoan ngoãn đi và làm theo những gì cháng bảo”. “Đồ khốn”, Seymuor chửi thầm. ông liếc nhìn đồng hồ. “Tôi cho rằng các anh đã có toàn bộ vũ khí súng ống và đạn dược cần thiết rồi chứ?”. Gabriel gật đầu chần chậm. “Thế còn thông tin liên lạc?”. “Họ có thể mượn máy vô tuyến từ nhân viên an ninh của đại sứ quán”, Carter nói. “Các đặc vụ DS của chúng ta thường làm việc với cảnh sát thành phố về những chi tiết bảo mật. Tất cả chúng ta sử dụng cùng tần số bảo vệ”. Seymuor nhìn Gabriel. “Ta sẽ làm gì với anh ta nào? Anh ta không thể đi Westminster với vẻ bề ngoài như thế”. “Tôi chắc là ta có thể tìm được thứ gì cho anh mặc ở đây”, Carter nói. Ta có hai trăm người ở dưới tầng hầm đến Luân Đôn từ Washington với những vali đầy quần áo”. “Thế còn mặt mũi của anh ta? Trông anh ta máu me phát khiếp”. “Tôi e là xử lí khuôn mặt cho anh ta cần đến phép màu của Giáng sinh”. Graham Seymour cau mày, bước đến bàn của ngài đại sứ quay số điện thoại. “Tôi cần nói chuyện với Thủ tướng”, ông nói. “Ngay bây giờ”.