ỗ Túc ra sức khuyên Lưu Bị chuyển sang hướng đông nam, liên hợp với Tôn Quyền ở Giang Đông cùng chống lại quân Tào. Lưu Bị sau khi thương nghị với Gia Cát Lượng cũng quyết định dứt khoát. Phái Gia Cát Lượng theo Lỗ Túc đến Sài Tang yết kiến Tôn Quyền. Tìm cơ hội hợp tác đôi bên. 1. Chính quyền họ Lưu, một họ lớn thời Tam Quốc. Chính quyền họ Tôn chiếm cứ Giang Đông, nghe nói là hậu duệ của Tôn Vũ, người đã viết binh pháp Tôn Tử. Người sáng nghiệp là Tôn Kiên, phụ thân của lãnh chúa Tôn Quyền. Tôn Kiên là người Ngô Quận (nay thuộc Triết Giang), trong cuốn Biên niên sử “Tư trị thông giám” có chép, Tôn Kiên đã nổi tiếng từ năm Hỷ Bình thứ 3 đời Hán Ninh đế, trong những quần hùng đời Tam Quốc, kể thứ tự gần như Viên Thiệu, so với Tào Tháo thì sớm hơn 10 năm (theo Tư trị thông giám, Tào Tháo nổi tiếng vào năm Quang Hoà thứ 7 nhờ đánh dẹp quân Hoàng Cân). Tôn Kiên tên chữ là Văn Đài, khi trẻ tuổi đã có biểu hiện lanh lợi vả vũ dũng. Năm 17 tuổi, có lần theo cha đến Tiền Đường, gặp ngay phải hải tặc Hồ Ngọc đang cướp bóc của cải công khai ở trên bờ sông, kẻ qua đường và thuyền bè đều không dám lại gần, Tôn Kiên nói với người cha rằng: “Bọn cướp này, có thể đánh được, xin được phép trừng phạt nó”. Không nghe người cha khuyên can, Tôn Kiên một đao nhảy lên bờ, với tay chỉ huy lung tung làm như có nhiều người đi theo. Bọn cướp biển thấy thế tưởng là có quan binh kéo đến, vứt cả của cải lại mà chạy bộ, Tôn Kiên đuổi theo, giết được một tên trong bọn thu lại được hết tài sản, bởi thế tiếng tăm lừng lẫy, quan phủ gọi ra cho làm Giá vệ. Năm Hỷ Bình thứ 2, Hứa Xương ở quận Cối Kê làm phản tự xưng là Dương Minh hoàng đế, có mấy mươi vạn binh mã, Thứ sử Dương Châu là Tang Mân đã đến đánh dẹp, song lại bị thua. Năm sau Tôn Kiên chủ động tập hợp một đội quân hương dũng, được mấy nghìn người, tăng viện cho Tang Mân. Bởi Tôn Kiên chiến đấu dũng mãnh không ai bằng, mấy lần đại phá quân giặc, không lâu dẹp được loạn Cối Kê, triều đình ban thưởng cho làm quan địa phương. Khi Hoàng Cân khởi nghĩa Tôn Kiên chiêu mộ nghĩa binh ở Hạ Phì được mấy nghìn người, bèn gia nhập đạo quân của Chu Tuấn, bằng công lao giành được chức quan Biệt bộ tư mã, đấy là chức quan đáng kể đầu tiên của Tôn Kiên. Năm Trung Bình thứ 3, Khu Tinh người Trường Sa tự xưng là tướng quân, khởi nghĩa với hơn 1 vạn binh mã, triều đình lệnh cho Tôn Kiên làm Thái thú Trường Sa, dẫn quân hỏi tội Khu Tinh, sau đó ông được phong làm Ô Trình Hầu; Tôn Kiên bởi thế mà có đạo quân riêng của mình. Khi Đổng Trác làm loạn, Tôn Kiên dẫn đạo quân của mình, từ Trường Sa đánh vào Tương Dương, lại tiến lên quận Nam Dương của Dự Châu. Ông ta chém chết Trương Tư, Thái thú Nam Dương đã không cung ứng lương thực cho quân cần vương, đến hội quân với Viên Thuật ở Lỗ Dương. Tôn Kiên đoạt được Nam Dương quận, tặng cho Viên Thuật, cho nên Viên Thuật bèn xin triều đình phong Tôn Kiên làm Phá Lỗ tướng quân bổ nhiệm chức Thứ sử Dự Châu (Dự Châu do quân đoàn nhỏ chiếm đóng, chức Thứ sử ở đấy chẳng có ý nghĩa gì, bởi thế đã có nhiều người lấy đó làm một chức vị không đâu tặng lẫn cho nhau). Trong quân đoàn Quan Đông, người tích cực hành động nhất trong việc đánh dẹp Đổng Thừa, ngoài Tào Tháo ra, chính là Tôn Kiên. Xét về công lao cụ thể, Tôn Kiên còn hơn cả Tào Tháo. Ông ta không những đánh thắng đại tướng tiên phong Từ Vinh của Đổng Trác mà trong chiến dịch tây tiến, lại một mình chém chết vô địch tướng quân Hoa Hùng, đến cả chiến tướng Lã Bố cũng chịu thua, khiến chính quyền Đổng Trác bị chao đảo. Tháng 12 năm Sơ Bình Nguyên Niên, Tôn Kiên và thủ lĩnh các đội quân, cùng uống rượu trong doanh trại phía đông thành Lỗ Dương. Đột nhiên được tin báo mấy vạn kỵ binh và bộ binh của Đổng Trác, sẽ đánh Lỗ Dương. Tôn Kiên chẳng chút vội vàng, vẫn ngồi nguyên tại chỗ, chỉ huy bố phòng của quân sĩ. Sau khi mọi người đã vào vị trí chiến đấu, Tôn Kiên mới đứng dậy, dẫn những người thân tín nhất vào thành, thảo luận việc tác chiến. Thuộc hạ thấy ông ta trong lúc nguy cấp như thế, vẫn cười nói mà chỉ huy, chẳng thể không khâm phục. Tôn Kiên lại cười mà nói rằng: “Ta đâu phải không khẩn trương, chẳng qua là nếu ta đứng lên đi khỏi chỗ ấy, ắt sẽ dẫn theo việc các binh sĩ vội vàng rút lui, như vậy sẽ tranh giành lẫn nhau, có thể bởi thế mà rối loạn, chư vị chẳng thể về lại được trong thành”. Sau sự kiện này, Tôn Kiên nổi tiếng thiện chiến, lan truyền khắp toàn quốc. Bởi quân lực của Tôn Kiên rất lớn, dẫn đến sự nghi ngờ của Viên Thuật, xảy ra việc cố ý, chậm cung cấp lương thảo để cản trở việc tác chiến. Tôn Kiên biết vậy rất bực tức, ông một mình một ngựa nhân khi đêm tối qua khỏi chiến tuyến, mau chóng đến thẳng doanh trại của Viên Thuật, thẳng thắn trách cứ việc làm sai lầm của Viên Thuật. Viên Thuật rất hổ thẹn liền hạ lệnh khẩn cấp bổ sung lương thảo. Tôn Kiên lại lập tức phóng ngựa về tiền tuyến trước khi trời sáng để chỉ huy tác chiến. Quân tâm bởi thế càng thêm hăng hái. Đổng Trác phải dùng đến cả Lã Bố cũng chẳng thể ngăn chặn nổi Tôn Kiên, thành Lạc Dương bởi thế mà thất thủ. Tôn Kiên dẫn quân vào hoàng cung ở Lạc Dương vơ vét. Sách “Tư trị thông giám” có chép: Tôn Kiên ở sân sau hoàng cung, cướp được ngọc tỉ truyền quốc của nhà Hán, bí mật cất đi song Bùi Tùng Chi khi chú giải “Tam quốc chí”, lại rất hoài nghi về việc này, bởi trong đám quần hùng Tam Quốc, Tôn Kiên vốn là người trung liệt, nên chẳng thể tư riêng, huống chi, sau này cũng không thấy có ghi chép về việc người thừa kế chính quyền họ Tôn có ngọc tỉ truyền quốc. Không lâu liên minh chống Đổng Trác tan rã, Viên Thiệu và Viên Thuật hai anh em đánh lẫn nhau. Viên Thuật đóng đồn ở Nam Dương, phối hợp với Công Tôn Toản đánh Viên Thiệu, hình thành thế đối đầu. Viên Thuật lôi kéo Thứ sử Kinh Châu Lưu Biểu, để chế ngự Viên Thuật. Đội quân Trường Sa của Tôn Kiên, đại bộ phận là người nam Kinh Châu, bởi thế Viên Thuật phái Tôn Kiên đến Kinh Châu, phân hoá và đánh phá lực lượng của Lưu Biểu. Quân Tôn Kiên ở Đặng Huyện và Phàn Thành, tiến đánh quân Hoàng Tổ của Lưu Biểu, bao vây Tương Dương; Hoàng Tổ dẫn quân cảm tử trong đêm đến cướp trại, lại bị Tôn Kiên đánh bại; Hoàng Tổ chạy đến Thạc Sơn, Tôn Kiên tự mình dẫn quân đuổi theo, không ngờ ở chân núi Thạc Sơn trúng phải mai phục của Lưu Biểu, chết tại trận giữa chốn tên bay và đá nhảy mù mịt, mới 37 tuổi. 2. Tôn Sách: Alisanta đại đế của Trung Quốc Alisanta quốc vương xứ Maxitu, sau khi phụ thân bị ám sát, lúc 20 tuổi đã cố gắng thống nhất bộ tộc Maxitu, tiến đánh các xứ khác, thống nhất được Hy Lạp, là một nhà quân sự thiên tài đáng nể, đã chinh phục được Ba Tư và các nước Tiểu Á, cơ hồ đã chạm đến Ấn Độ, sáng lập ra một đại đế quốc chưa từng có trong lịch sử nhân loại lúc bấy giờ, song mới 30 tuổi đã ngã bệnh từ trần, vương triều Maxitu bởi thế mà tan rã. Sau khi Tôn Kiên từ trần, hậu duệ của ông cũng xuất hiện một thiên tài quân sự ít thấy trong lịch sử Trung Quốc, đấy là Tôn Sách, con cả của Tôn Kiên. Năm 20 tuổi, anh ta mau chóng nắm toàn bộ quân đội của cha để lại, xây dựng một lực lượng to lớn chưa từng thấv ở đông nam. So với Alisanta đại đế, cái không may của anh ta là, khi mang quân ra ngoài bị ám hại mà mất. Mà cái may là, anh ta có một người em trai ưu tú là Tôn Quyền, tuy chưa thể đại triển hồng đồ, song người ấy đã giữ được giang sơn mà cha anh để lại. Tôn Kiên mất đi, quân đoàn họ Tôn lúc đó như rắn không đầu may mà được các cựu thần như Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương cùng đoàn kết nhất trí vượt qua khó khăn cùng giúp người cháu của Tôn Kiên và Tôn Bôn tạm thời nắm số quân còn lại, gửi gắm dưới trướng của Viên Thuật, lại đề nghị ngừng chiến với Lưu Biểu. Lưu Biểu vẫn muốn cùng tồn tại hoà bình nên vui vẻ chấp nhận, còn phái người đến doanh trại của địch để dâng lễ viếng Tôn Kiên. Tôn Kiên có 4 người người con trai, đó là Tôn Sách, Tôn Quyền, Tôn Dực, Tôn Khuông. Tôn Sách là anh cả, tên chữ là Bá Phù, vào năm ấy mới 16 tuổi, kế thừa được thiên tài quân sự và chí lớn của người cha, hơn nữa lại còn vượt quá. Được sự giúp đỡ của các tướng lĩnh và cựu thần, theo Tôn Bôn tạm thời nương náu dưới trướng Viên Thuật. Ba năm sau cũng là lúc anh ta đã mười chín tuổi, Tôn Sách giành lại quyền lãnh đạo đoàn, cứng rắn quyết định dẫn đội quân cũ của cha tách khỏi Viên Thuật, trở về quê cũ ở Ngô quận, tự lực cánh sinh đứng ở một cõi. Tam quốc chí có chép: “Tôn Sách là người có dáng tuấn tú hay cười nói, thích rộng rãi mà tiếp thu ý kiến, khéo dùng người, bỏi thế mà quân dân đều vì ông ta mà tận tâm, thậm chí dám nhảy vào chỗ chết. Có được ma lực khiến người ta vì mình mà dám chết, Tôn Sách thực là một nhân tài lãnh đạo bậc nhất ở đời”. Bởi Viên Thuật bụng dạ nhỏ nhen, xa xỉ tham lam quyền bính, nên Tôn Sách không thể chịu được, đã tuyên bố thoát ly quan hệ với Viên Thuật, chủ động chấm dứt tham dự vào việc tranh bá quyền ở Trung Nguyên, chuyển toàn lực về sửa sang vùng đất Giang Đông của mình ở phía nam Trường Giang. Đầu tiên Tôn Sách tập trung lực lượng đánh thắng quân của Nghiêm Bạch Hổ đang tự xưng là Thái thú Cối Kê, triệt để nắm quyền thống trị ở Giang Đông, ông ta đưa người cậu của mình là Ngô Cảnh ra làm Thái thú Đan Dương, lại đưa người anh họ là Tôn Bôn là Tôn Phụ làm Thái thú Lư Lăng, rất mau chóng họ Tôn trở thành một thế tộc hàng đầu ở Giang Đông. Ngoài ra ông ta tiếp tục trọng dụng các cựu thần cũ như Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương, lại cân nhắc các danh sĩ Giang Đông như Chu Du, Trương Chiêu, Trương Hoành, tạo thành một bộ máy hoàn chỉnh. Khi Viên Thuật xưng đế, từng đề nghị Tôn Sách đến chi viện, song bị Tôn Sách từ chối. Ông ta còn công khai gửi thông cáo cho những người đứng đầu quận huyện ở Hoài Nam, chỉ trích Viên Thuật dám mạo muội xưng đế, tạo ra tình hình người Hoài Nam thò ơ với Viên Thuật, mà Viên Thuật cũng bởi thế tuyệt giao với Tôn Sách. Năm Kiến An thứ 3, Tôn Sách dâng biểu bày tỏ trung thành với Hán Hiến đế ở Hứa Đô, cùng nhiều cống vật kèm theo. Tào Tháo lấy thế làm mừng, còn đặc biệt tiến cử với triều đình bổ nhiệm Tôn Sách làm Thảo nghịch tướng quân, phong làm Ngô Hầu. Lại còn đặc biệt đem cháu gái của mình gả cho Tôn Khuông, em trai Tôn Sách, hai bên thành ra quan hệ dâu gia với nhau. Sau khi Viên Thuật bị diệt vong, Tôn Sách vẫn có quan hệ hữu hảo với Tào Tháo, còn Tào Tháo muốn biến Tôn Sách thành người kìm chế Lưu Biểu ở Kinh Châu. Không lâu, Tôn Sách bởi triệt để ngăn cản quân Kinh Châu từ Hạ Khẩu xâm nhập vào Dương Châu, mặt khác cũng để đáp ứng yêu cầu của Thái thú Quảng Lăng là Trần Đăng về việc thảo phạt tàn quân Nghiêm Bạch Hổ, mới từ Hoài Nam dẫn quân khẩn cấp trở về Giang Đông. Năm Kiến An thứ 5, vào mùa xuân, Tôn Sách ở Đan Đồ chỉnh đốn binh mã, chỉ đợi tập trung đủ lương thảo, sẽ đồng thời thực hiện một hành động quân sự đại quy mô là tây tiến và bắc chinh, kiến tạo “đại sự nghiệp” cho họ Tôn; song chính vào lúc ấy lại phát sinh một tấn bi kịch chẳng ngờ đến. Vốn trước đó Thái thú Ngô quận là Hứa Cống, bởi tranh giành quyền thống trị địa phương với Tôn Sách, lại bị Tôn Sách giết, ba kẻ gia nhân của Hứa Cống nguyện một lòng báo thù cho chủ. Tôn Sách thích đi săn, thường một mình một ngựa, rong ruổi nơi thảo dã, những kẻ hộ vệ luôn luôn đuổi theo không kịp. Gia nhân của Hứa Cống biết Tôn Sách có thói quen như thế bèn mai phục ở trong rừng, để bắn lén Tôn Sách. Do thiếu phòng bị, Tôn Sách bị trúng tên ở mặt song vẫn hăng hái chém chết cả ba tên thích khách. Khi quân hộ vệ đến kịp, Tôn Sách đã bị ngã dưới đất. Sau khi về trại, vết thương chuyển biến trầm trọng, ông ta lệnh cho em trai là Tôn Quyền tiếp tục làm thủ lĩnh quân Giang Đông. Trước lúc lâm chung, Tôn Sách có khích lệ Tôn Quyền rằng: “Gây dựng nghiệp nhà ở Giang Đông, quyết định ở mấy trận đánh, tranh giành với thiên hạ, khanh không bằng ta. Chiêu hiền đãi sĩ, dốc lòng lo mọi việc giữ gìn được Giang Đông, ta không bằng khanh”. Tối hôm ấy, do bệnh tình không qua khỏi mà từ trần, mới 26 tuổi, Tôn Sách khi tạ thế, đã tích cực sửa sang Giang Đông, chỉ trong vòng mấy năm ngắn ngủi, đã có được Cối Kê, Ngô Quận, Đan Dương, Dự Chương, Lư Giang, Quảng Lăng, tất cả 6 quận bao quát suốt một dải từ Giang Tô đến Giang Tây rộng lớn. 3. Hổ phụ lân nhi, sinh con phải như Tôn Trọng Mưu Xuất phát bởi cơ sở mà cha anh để lại, tài năng chính trị của Tôn Quyền còn cao hơn tài năng quân sự của Tôn Kiên. Hậu duệ của hai thần tượng quân sự này ở chiến trường vẫn có phương bí truyền độc đáo của ông ta. Sau này, Tôn Quyền với Tào Tháo đối trận ở Hợp Phì, Tào Tháo sau khi xem xét kỹ bố cục bầy trận của Tôn Quyền, đã phải cảm khái mà than rằng: “Sinh con phải như Tôn Trọng Mưu” (chỉ Tôn Quyền). Giang Biểu truyện có chép: “Tôn Quyền lúc nhỏ, dáng cao, cằm vuông mồm rộng, mắt sáng giống Tôn Kiên, có quý tướng. Tôn Sách khi sáng nghiệp ở Giang Đông, Tôn Quyền mới 15 tuổi, đã có tiếng tăm ở huyện Dương Tiêm, trông coi việc hiếu liêm, tiến cử hiền tài, làm Phụng Nghi hiệu úy, vẫn thường ở bên Tôn Sách, Tôn Quyền cá tính khoan dung, sáng suốt và có nghị lực, người bấy giờ gọi là “nhân ái mà quyết đoán”, lại thêm khảng khải chẳng đếm xỉa tiền tài, biết chiêu hiền đãi sĩ, theo gót được cha anh. Tôn Sách mỗi lần có việc trao đổi, Tôn Quyền đều đối đáp lưu loát, đến cả Tôn Sách cũng cho là lạ, tự xem là không bằng”. Tam quốc chí có chép: “Khi Tôn Sách dâng biểu trung thành lên triều đình, Hán Hiến đế có sai sứ giả Lưu Uyên đến phong chức quyền; Lưu Uyên là người giỏi xem tướng, khi nhìn thấy Tôn Quyền, bèn nói với người xung quanh rằng: “Ta thấy anh em họ Tôn đều có tài khác thường, song chỉ sợ không thọ được lâu, chỉ có Tôn Quyền, hình dáng khôi ngô, khí chất mạnh mẽ, có tướng đại quý, tuổi thọ lại rất cao, các người hãy nhớ lời ta nói ngày hôm nay mà ngẫm xem”. Tôn Sách từ trần, Tôn Quyền mới 22 tuổi đã tiếp quản làm lãnh tụ đoàn quân Giang Đông; bởi anh ta chưa có kinh nghiệm tự mình lãnh đạo các thủ lĩnh quân đoàn Giang Đông đều có vẻ nghi ngờ, không an tâm. Theo đề nghị của Trương Chiêu, Tôn Quyền tự mình phi ngựa tuần tra các quân đoàn, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, quả nhiên mau chóng bình ổn sự dao động trong các quân đoàn. Tào Tháo sau khi nghe tin Tôn Quyền đã kế vị Tôn Sách, qua tin tình báo biết được tài cán của Tôn Quyển, lập tức dâng biểu lên triều đình tiến cử Tôn Quyền làm Thảo lỗ tướng quân kiêm Thái thú Cối Kê, đóng đồn ở Ngô quận; Bởi được triều đình công khai bày tỏ sự giúp đỡ tích cực, tình thế chính trị ở Giang Đông chuyển nguy thành an. Tôn Quyền sau khi nắm quyền, lấy lễ thầy trò đáp lại Trương Chiêu. Trương Chiêu cá tính rắn rỏi ưa nói thẳng, bác học quảng vấn rất có tài lại trung thành, là một cố vấn riêng rất giỏi, về quân sự, Tôn Quyền đưa Trình Phổ, Chu Du, Lã Phàm làm tướng lĩnh quân khu, đóng đồn ở các nơi hiểm yếu. Ông xuống lệnh tạm thời đình chỉ tất cả các hành động khuyếch trương lấy ổn định nội bộ làm chính, lại chiêu hiền đãi sĩ, coi Lỗ Túc, Gia Cát Cẩn khách dưới trướng, thể hiện rõ tính tích cực sửa sang; về phát triển chính trị và kinh tế còn hơn Tôn Sách. Lỗ Túc tên chữ là Tử Kính người Lâm Hoài, lớn lên đã mồ côi bố, ở với bà nội, trong nhà có rất nhiều tiền, song Lỗ Túc là người có chí lớn, không lo việc trong nhà, tính khảng khái thích ban ơn. Ông thấy thiên hạ sẽ loạn lạc bèn phân phát hầu hết tài sản trong nhà, mua lấy ruộng đất, giúp đỡ những thiếu niên bần hàn, cho cơm ăn áo mặc, lại thêm tổ chức họ lại giảng võ tập binh, nghiễm nhiên tổ chức ra một đội quân riêng. Chu Du lúc mới lớn lên thiếu thốn cả cái ăn, nhờ có người mách bảo tìm đên Lỗ Túc vay gạo; Lỗ Túc lúc ấy trong nhà có 2 kho gạo lớn, mỗi kho có 3 nghìn hộc gạo; Lỗ Túc chỉ vào một kho, bảo Chu Du mang đi mà dùng. Chu Du từ một kẻ nghèo hèn trở thành một kẻ phong lưu lỗi lạc đều bởi sự khảng khái ít thấy của ông ta. Tam quốc chí có viết: “Chu Du thấy việc kỳ lạ, liên kết thân với Lỗ Túc”. Không lâu, lại được Lỗ Túc tiến cử với Tôn Quyền. Cũng giống như “Long Trung Sách” của Gia Cát Lượng, Lỗ Túc khi mới gặp Tôn Quyền cũng đề ra kế sách “Dựng đỉnh ở Giang Đông, đứng nhìn thiên hạ tranh giành, tiễu trừ Hoàng Tổ, tiến đánh Lưu Biểu, chiếm cứ suốt một dải Trường Giang, sau này lập nghiệp đế vương thâu tóm cả thiên hạ”. Tôn Quyền nghe nói, phi thường cao hứng, ngoài mặt tuy không tỏ vẻ tranh bá thiên hạ song trong bụng thì coi Lỗ Túc là tri kỷ. Tam quốc diễn nghĩa đã miêu tả Lỗ Túc như một người thực thà, nhu nhược không có chủ kiến; thực ra Lỗ Túc có cá tính cao ngạo, văn vũ toàn tài, giầu mực lược, có tầm nhìn xa trông rộng, là một nhà quân sự, một nhà chính trị ưu tú phi thường. Dẫu rằng Trương Chiêu cùng các cựu thần Giang Đông rất không thích, Lỗ Túc một mình bài bác lại số đông thường nói xấu ông ta, song Tôn Quyền rất biết Lỗ Túc là bậc qui hoạch kỳ tài, hiểu biết sâu sắc, thường công khai mọi việc, đặc biệt xem trọng và khen ngợi với Lỗ Túc. Gia Cát Cẩn tên chữ là Tử Du, là anh cả cùng mẹ với Gia Cát Lượng, là người cẩn thận trung thực, tài hoa ẩn chứa. Chỉ có anh rể của Tôn Quyền hiểu rõ, tiến cử ông với Tôn Quyền; Tôn Quyền coi là tân khách trong số các quan viên văn võ ở Giang Đông, cũng chỉ có Gia Cát Cẩn và Lỗ Túc hiểu nhau hơn cả, hai người kết làm tri kỷ. Năm Kiến An thứ 8, Tôn Quyền sau khi được bổ nhiệm, ra quân lần đầu, đánh chiếm Hà Khẩu của Hoàng Tổ, nói là báo thù cho cha, thực ra ít nhiều cũng là hành động bước đầu trong chiến lược của Lỗ Túc. Tuy lần này chưa có thành quả cụ thề gì, song ở hành động quân sự đó, Tôn Quyền đã chính thức cất nhắc các doanh tướng bậc hai của Giang Đông như Thái Sử Từ, Lã Mông, Chu Thái, tiến thêm một bước tăng cường thực lực quân sự cho chính quyền họ Tôn. Năm Kiến An thứ 12, Tôn Quyền lại tiến đánh Hà Khẩu, lần này Lỗ Túc vận dụng mưu lược trước tiên, xúi giục không ít quân sĩ và cư dân ở Giang Hạ chống lại Hoàng Tổ, khiến đội quân Hoàng Tổ đang trụ giữ ở Kinh Châu, tại tuyến đầu gặp phải sự đả kích nghiêm trọng. Năm sau Tôn Quyền lại phái Lã Mông, Lăng Thống, Đổng Tập, những tướng lĩnh trẻ tuổi của Giang Đông tinh nhuệ và hăng hái, lại tiến đánh Hà Khẩu. Hoàng Tổ không dám chống đỡ, trong lúc rút chạy bị quân địch đuổi theo chém chết, đội quân Giang Hạ nức tiếng một thòi bởi thế mà tan rã cả. Song Tôn Quyền cho rằng quân Giang Đông vẫn không đủ thực lực để trường kỳ đối kháng với quân Kinh Châu hùng mạnh, sau khi chém chết Hoàng Tổ ở Nam Hải để trả thù cho cha, bèn đưa quân sĩ chủ lực rút về Sài Tang, tạm đóng đồn ở đấy. Lưu Biểu vẫn không thích việc chiến sự, lại đang có vấn đề sức khoẻ và việc tranh giành quyền bính nội bộ làm đau đầu, đối với cuộc chiến ở Giang Hạ cũng không nghĩ đến và truy cứu nữa. Bởi thế ông ta chỉ phái người con trưởng là Lưu Kỳ làm Thái thú Giang Hạ, sớm đến Hạ Khẩu chiêu phủ quân dân mới vừa qua cảnh nước sôi lửa bỏng, lại đổi mới công việc phòng thủ, xây dựng quan hệ hoà bình với chính quyền Giang Đông. Lưu Kỳ cá tính khoan hậu mà nhu nhược lại thích hợp xử lý công việc này khiến chiến tuyến Giang Hạ tạm thời khôi phục lại trạng thái hoà bình. 4. Gia Cát Lượng yết kiến Tôn Quyền. Sau sự kiện này không lâu, Tôn Quyền nhận được tin mật báo, từ thành Tương Dương rằng Lưu Biểu đã ngã bệnh từ trần, lập tức phái Lỗ Túc đến Tương Dương viếng tang, cũng là quan sát khả năng diễn biến thời cuộc ở Kinh Châu. Lỗ Túc mới đến Nam quận, đại quân nam chinh của Tàn Tháo đã đánh chiếm Phàn Thành, Lưu Tông ở thành Tương Dương vừa mới được cử làm Kinh Châu mục đã vội dâng thành đầu hàng, quân Lưu Bị bị bức rút vê Giang Lăng ở phương nam, lại rẽ ngang hợp quân với Lưu Kỳ ở Hạ Khẩu, tăng cường củng cố phòng tuyến. Lỗ Túc lập tức ngược lên phía bắc, gặp quân Lưu Bị ở Tương Dương vừa mới bị quân Tào đánh cho đại bại, Lỗ Túc bèn khuyên Lưu Bị chuyển hướng đông nam, liên hợp với Tôn Quyền ở Giang Đông cùng chống lại Tào Tháo. Lưu Bị sau khi trao đổi vói Gia Cát Lượng cũng quyết định dứt khoát, phái Gia Cát Lượng theo Lỗ Túc đến Sài Tang yết kiến Tôn Quyên, tìm kiếm khả năng hợp tác đôi bên. Lúc ấy Tôn Quyền mới chưa đầy 27 tuổi, nắm quyền bính chưa được 5 năm. Tuy còn ít tuổi, chưa từng trải sâu sắc, song lại là hậu duệ của những thần tượng quân sự, lại điểm tĩnh mà có chủ kiến. Sau chiến dịch Tương Dương, Tào Tháo từng đưa thư chiêu hàng với giọng dọa nạt đến Tôn Quyền. Lập tức Tôn Quyền triệu tập hội nghị khẩn cấp, nói rõ tất cả với các quan văn võ Giang Đông về tin tức xấu này. Trong lúc số đông có vẻ hoảng loạn, người chủ trẻ tuổi này vẫn có sự tự tin đến mức bàng quan lãnh đạm. Không lâu, Lỗ Túc trở về Sài Tang cùng với Gia Cát Lượng, với sự chân thành, đơn độc lần đầu yết kiến Tôn Quyền. Ở doanh trại giản đơn mới dựng tạm, Tôn Quyền mặc áo vải thô tiếp kiến Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng vẫn giỏi xét người, mới đến cửa đã thấy được cá tính của Tôn Quyền. Nếu cử chỉ đơn phương bày tỏ lập trường của mình sẽ không lay chuyển được ông chủ trẻ tuổi này, bởi thế Gia Cát Lượng quyết định nhường Tôn Quyền nói trước về suy nghĩ, lựa chọn và qui hoạch của mình. Ông ta tin rằng chỉ cần sơ bộ định ra quyết sách, loại người như Tôn Quyền nhất định sẽ khắc phục mọi khó khăn kiên trì lập trường cuối cùng. Sau hồi hàn huyên ban đầu, Gia Cát Lượng rất thản nhiên và khách quan phân tích thực lực và sách lược của Tào Tháo: “Từ khi đại loạn đến giờ, tướng quân khởi binh chiếm cứ Giang Đông, Lưu Huyền Đức tụ tập ở Hán Nam, cùng tranh thiên hạ với Tào Tháo. Nay Tào Tháo đã dẹp xong kẻ địch ở phía bắc, bởi thế thừa thắng nam chinh, chiếm được Kinh Châu, quyền uy lan khắp thiên hạ, khiến anh hùng không có đất dụng võ, Lưu Huyền Đức bị bức phải chạy đến mức đó, tình hình thực lực nguy cấp lắm vậy”. Tôn Quyền ngồi lặng nghiêng tai lắng nghe. Gia Cát Lượng lại cường điệu uy lực hành quân chớp nhoáng của Tào Tháo, đến nay thế lực rất dữ dội, thời gian lại gấp gáp nên lập trường của Giang Đông là hoà hay là chiến nên lập tức quyết định ngay, để tránh dẫn đến những sai lầm về quân cơ. “Tướng quân không lượng sức mà làm, nếu cho rằng lấy lực lượng Giang Đông, có thể đổi kháng với Trung Nguyên, không gì bằng sớm đoạn tuyệt quan hệ với họ, để hạ quyết tâm của mình, tập trung đủ lực lượng. Nếu thấy không đủ sức chống chọi, hãy lập tức mau chóng cởi giáp triệt binh, thần phục Trung Nguyên. Nếu tướng quân ngoài mặt giữ quan hệ hữu hảo với Tào Tháo, thực tế lại là chiến hoà do dự không quyết bên nào, rất có thể dẫn đến đại nạn cho quốc gia!” Tôn Quyền nghe rồi, vẫn bình tĩnh hỏi lại rằng: “Tào quân có thực lực kinh người như thế, sao Lưu Huyền Đức không đầu hàng ở Kinh Châu lại vẫn không tự lượng sức chống chọi đến cùng như thế?”. Gia Cát Lượng vội than rằng: “Năm xưa Điền Hoành chẳng qua là tráng sĩ nước Tề mà thôi, lại có thể kiên trì giữ nghĩa không chịu nhục, phản kháng đến cùng. Huống chi Lưu Huyền Đức đường đường là dòng dõi nhà Hán, danh tiếng lớn lao, sớm đã là lãnh tụ tinh thần của các lực lượng phản Tào khắp nước, về nghĩa lý dứt khoát chẳng thể tùy tiện để người ta sai khiến, nay dẫu có thất bại, cũng chỉ là mệnh trời mà thôi!” Tôn Quyền hai mắt nhìn chằm chằm Gia Cát Lượng với giọng trầm trầm nói rằng, Tào Tháo bức thiên tử mà sai khiến chư hầu, kẻ dám đối chọi lại, duy chỉ có Lưu Biểu, Lưu Bị và Tôn Quyền này mà thôi, hiện nay Lưu Biểu đã tạ thế, Lưu Bị lại đang thất bại, chỉ còn lại một mình Đông Ngô. Bởi thế ông ta cũng dứt khoát không thể để mấy chục vạn quân dân Đông Ngô mặc kệ để người ta khinh nhờn; ông ta hy vọng Gia Cát Lượng có thể đưa ra sách lược Tôn - Lưu liên hợp để chống lại đại quân Tào Tháo. Gia Cát Lượng thấy Tôn Quyền đã động tâm, bèn đưa ra phân tích thêm một bước; ông ta nói rõ rằng, ông đã sưu tầm được những tin tình báo thực tế ở trận chiến Kinh Châu, đại quân của Tào Tháo tuy nhiều, lại có 4 nhược điểm lớn: Thứ nhất, quân Tào nói phao rằng có 100 vạn người, thực ra quân nam chinh chỉ có chừng 20 vạn người, mà đại bộ phận chẳng phải quân trực thuộc, đó là quân họ Viên và Kinh Châu biên chế thêm. Quân sĩ pha tạp này không tập trung vào mũi nhọn, trước mắt phải bố trí trên một vừng mới chiếm rộng lớn từ Tương Dương đến Giang Lăng, thực ra số quân có thể tập kết ở chiến trường chính rất có hạn. Bởi thế, chiến thuật tốt nhất là để phía Tôn - Lưu chủ động lựa chọn phương án, sẽ tranh giành lấy thắng lợi trọng điểm, hư trương thanh thế rằng quân Tào rất hùng mạnh ắt sẽ không đánh mà tan. Thứ hai, Tào Tháo đã truy kích Lưu Bị, một ngày đêm khẩn cấp hành quân được hơn 300 dặm, khiến quân sĩ rất mỏi mệt, đúng như câu nói: “Cánh cung yếu, không bắn thủng lụa mỏng” sĩ khí và lực chiến đấu của quân Tào không còn mạnh được như trước. Thứ ba, quân phương bắc đặc biệt là quân trực thuộc và quân họ Viên, sống ở vùng Trường Giang hiện nay, sẽ phát sinh hiện tượng không hợp thủy thổ. Thứ tư, quân phương bắc không giỏi thủy chiến, đánh nhau ở Giang Đông ắt phải lấy thủy chiến làm chính, mà quân Tào ỷ vào thủy quân Kinh Châu làm chủ lực thủy chiến, căn bản là không thể được. Trái lại xem ra quân chủ lực của Lưu Bị tuy bị đánh tan, song Quan Vũ với hơn một vạn thủy quân và nhiều chiến thuyền vẫn chưa hề tổn thất, Lưu Kỳ ở Giang Hạ cũng có mấy vạn quân Kinh Châu tinh nhuệ, nếu như lại có thêm mấy vạn quân Đông Ngô dũng mãnh, hiệp lực tác chiến, nhất định có thể đánh tan đội quân pha tạp của Tào Tháo tuy lớn mà không đáng ngại. Tôn Quyền sau khi nghe phân tích kỹ, mạnh mẽ gật đầu, hạ quyết tâm sáng sớm ngày mai, sẽ lập tức triệu tập hội nghị quân sự để ra quyết định cuối cùng. Lúc này Gia Cát Lượng đã nhìn thấy từ nơi sâu thẳm trong tim của Tôn Quyền trẻ tuổi, sớm đã trỗi dậy một ý chí mãnh liệt. 5. Đối kháng - đầu hàng - hoà đàm. Nhưng trong hội bàn quân sự ngày hôm sau, Tôn Quyền lại vấp phải một sự bất ngờ. Đầu tiên Trương Chiêu đứng đầu nhóm văn quan, cho rằng quân Tào thế lực rất lớn, căn bản chẳng thể đối đầu, chẳng bằng sớm nhún mình với Tào Tháo, cũng có thể đem lại sự thống nhất ở Trung Quốc. Các lão tướng Trình Phổ và Hoàng Cái, thì chủ trương phòng thủ tiêu cực, tránh chọc giận Tào Tháo, để mưu cầu hoà đàm với họ. Chỉ có Lỗ Túc và một số người tướng lĩnh trẻ tuổi như Cam Ninh, Lăng Thống, Chu Thái, Lã Mông chủ trương tích cực tác chiến bởi ý kiến chia rẽ, hai bên tranh cãi không thôi, Tôn Quyền rất bực bội, mượn cớ thay áo khoác, lui vào phía sau một mình gọi Lỗ Túc đến bí mật hội đàm. Lỗ Túc rất thản nhiên nói rằng: “Những lời bàn bạc của mọi người vừa rồi, đối với tướng quân thực không phù hợp, nếu xét về lợi hại thực tế theo như góc độ nhìn nhận của Lỗ Túc này là hãy nên đón rước Tào Tháo mà đầu hàng triều đình; song địa vị của tướng quân lại không cho phép, Lỗ Túc có đầu hàng Tào Tháo cũng chẳng hề gì ảnh hưởng đến quan chức, có thể còn được quyền thế lớn hơn, song với tướng quân thì sao? Sau khi đón rước Tào Tháo, ngài sẽ bị điều đên xứ nào nhỉ? Xin hãy mau quyết định sách lược lớn! Không nên bận tâm ở ý kiến của nhiều người”. Tôn Quyền than rằng: “Những người này thực khiến ta thất vọng, chỉ có Lỗ Túc có cùng cách nhìn nhận với ta. Thực cảm tạ trời cao đã đem khanh cho ta”. Lỗ Túc cũng đề nghị với Tôn Quyền lập tức triệu hồi Chu Du, đô đốc thủy quân đang huấn luyện quân thủy ở hồ Bà Dương. Chu Du là chiến hữu lâu năm của Tôn Sách, Tôn Sách lấy mỹ nữ Đại Kiều của Giang Đông làm vợ, Chu Du thì lấy Tiểu Kiều, em gái của Đại Kiều làm vợ, quan hệ của hai người rất mật thiết. Tôn Sách trước lúc lâm chung có nói: “Việc trong không quyết thì hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết thì hỏi Chu Du”. Nay đang chuẩn bị đối kháng với sự xâm nhập của giặc ngoài, Chu Du tự nhiên là một nhân vật cố vấn rất quan trọng. 6. Chu Du: một thiên tài quân sự. Chu Du tên chữ là Công Cẩn người Lư Giang, tổ phụ là Chu Cảnh, bác là Chu Trung đều làm quan đến chức Thái uý nhà Hán, phụ thân là Chu Dị từng làm Lạc Dương lệnh. Tam quốc chí có chép: Chu Du thân thể cao lớn, anh tuấn hào kiệt, cá tính cởi mở rộng rãi, được bạn bè nể vì... khi còn trẻ, đã tinh thông âm nhạc, trong lúc say rượu mà người tấu nhạc ở bên chỉ cần sai luật một chút, Chu Du lập tức ngoái đầu lại, cho nên người đương thời nói: “khúc nhạc lỡ sai, Chu Du ngoảnh lại”. Sau khi nhận được tin Tào Tháo tiến quân vào Kinh Châu, Chu Du đang ở hậu phương lập tức phái một số lớn tình báo thâm nhập vào các vùng ở Kinh Châu, để mau chóng thu thập tình hình bố trí quân đội của Tào Tháo, và con đường mà quân chủ lực tiến công. Bởi thế sau khi nhận được lệnh triệu hồi của Tôn Quyền, Chu Du lập tức hạ lệnh kết thúc tập huấn, toàn quân bước vào trạng thái chuẩn bị chiến đấu, chỉ dẫn theo một số nhân viên tham mưu, hoả tốc phóng đến Sài Tang. Ngay tối ấy Chu Du, Lỗ Túc bí mật hội đàm, trao đổi ý kiến vê việc ngày mai sẽ gặp Tôn Quyền. Sáng hôm sau, Tôn Quyền lại triệu tập hội nghị quân sự. Trương Chiêu đứng đầu phái chủ hoà phát biểu trước rằng: “Tào Tháo giảo quyệt như lang sói, nay lấy danh nghĩa Tể tướng triều đình, ép thiên tử mà đánh bốn phương, nếu công khai đối đầu với ông ta, về danh nghĩa trở thành phản tặc với triều đình, với chúng ta thực rất bất lợi. Hơn nữa Đông Ngô dựa vào Trường Giang hiểm trở, hiện nay Kinh Châu đã mất, đội thủy quân to lớn trong tay Lưu Biểu toàn bộ đã rơi vào quân đoàn nam chinh của Tào Tháo. Quân Tào chỉ cần xuôi theo dòng Trường Giang đánh bằng đường thủy, chúng ta không còn riêng lợi thế Trường Giang, mà địch và ta rất chênh lệch về thực lực. Bởi thế chúng tôi cho rằng kế sách hay nhất là đón rước quân Tào, cùng với họ tiến hành hoà đàm”. Chu Du nghe vậy, lập tức phản bác rằng: “Các ông đều nhầm cả rồi, Tào Tháo tuy danh là Hán Tướng, thực ra là Hán Tặc, khinh nhờn cả thiên tử, xét về nghĩa lý là không đứng vững. Tôn tướng quân là người anh hùng, lại kế thừa sự nghiệp cha anh, chiếm cứ Giang Đông, bờ cõi có mấy nghìn dặm, quân đội lại tinh nhuệ, lương thảo thực đầy đủ, anh hùng hào kiệt đều theo về với sự nghiệp sáng tạo này, trước mắt nên giơ thẳng cánh tay giáng đòn trừ khử gian đảng triều đình mới đúng, sao lại biểu hiện ra tư thế nhu nhược như vậy? Huống chi nay Tào Tháo mang cái chết lại, vì sao còn phải đi đón rước ông ta nhỉ?” Tôn Quyền nghe nói thế gật mạnh đầu khẳng định theo. Tiếp đó Chu Du công bố những tin tình báo quân sự mà mình đã thu thập được bấy nay, phân tích chiến lược một cách sơ bộ. Ông ta cho rằng, tuy đối diện với áp lực quân sự to lớn của Tào Tháo, song về phía Đông Ngô vẫn có điểm mạnh tuyệt đối, lý do như sau: Thứ nhất, quân Tào nói có 100 vạn người, thực ra đa số là quân họ Viên và quân Kinh Châu mới đầu hàng. Chính quyền họ Viên ở phía bắc mới bị diệt không lâu, ở đấy vẫn không ổn định, bởi thế Tào Tháo phải trụ lại rất nhiều quân lính. Quân đoàn của Mã Đằng, Thứ sử Lương Châu và quân Hàn Toại ở tây bắc, cũng tùy thời mà uy hiếp hậu phương quân Tào. Trong triều đình ở Hứa Đô, sau sự kiện Đổng Thừa, các quan công khanh nhà Hán, không ngừng phản kháng ngấm ngầm. Khiến Tào Tháo không thể không lưu giữ quân trực thuộc rất lớn ở hai châu Cổn, Dự để truy trì sự an toàn của đại bản doanh. Cũng tức là nói quân đoàn nam chinh của Tào Tháo, không thể vượt quá 15 vạn người. Hơn nữa căn cứ vào tình hình nhận được, trong đó có không ít quân của Viên Thiệu, về lòng dạ đối với Tào Tháo vẫn còn chưa biết thế nào. Thứ hai Tào Tháo lần này tiến đánh Kinh Châu tuy có thuận lợi bất ngờ song trong lúc đột nhiên chiếm lĩnh mau chóng một vùng rộng lớn, quân đội ắt sẽ chẳng thể điều phối thoả đáng, quân chủ lực bị phân tán khiến cho sức chiến đấu bị dàn mỏng. Lại thêm chính quyền Lưu Tông không đánh mà hàng, quân các nơi lại không kịp chuẩn bị, tuy nghe lệnh mà làm, song quân quan các cấp và binh lính về tâm lý là không bình thường; những người này tạo thêm sự bất ổn định về tâm lý trong quân đội, chỉ làm tăng thêm áp lực tâm lý cho đội quân chủ lực mà thôi. Thứ ba quân phương bắc đi đường dài qua núi cao sông sâu, thủy thổ không hợp, tình hình quân sĩ bệnh tật nảy sinh nghiêm trọng. Hơn nữa từ mùa thu, mùa đông trở đi, khí trời ngày một lạnh hơn, tuyến vận tải lương thực quân Tào rất dài, vấn đề này càng thêm khó khăn. Tào Tháo muốn đánh nhanh, đã bày ra hình thái quyết chiến ở Trường Giang. Quân Tào giỏi đánh trên bộ, nay bỏ sở trường dùng sở đoản, lựa chọn một phương thức tác chiến không quen thuộc, thể hiện sự bận tâm của họ, trạng thái tâm lý này với một trận đánh lớn là rất bất lợi. Trái lại Đông Ngô ở Giang Đông đã từng trải qua ba đời, quân giỏi lương nhiều, thủy chiến vẫn là sở trường của họ. Bởi thế chỉ cần một đội quân tinh nhuệ khoảng 5 vạn người nhất định sẽ đánh thắng được trận này. Qua cuộc tranh cãi này chúng ta có thể thấy sự phong phú và chính xác của tin tình báo mà Chu Du có được. Nói cách khác các quan viên của tướng lĩnh ở Sài Tang đều không bằng ông; liên tục ở chiến trường, Gia Cát Lượng vẫn chú trọng công việc tình báo cũng chẳng bằng được ông ta. Chu Du có thiên tài vạch sách lược chiến đấu, có thể thấy rõ ở đấy. 7. Liên quân Tôn - Lưu, trận tuyến bầy sẵn. Tôn Quyền nghe vậy rất đỗi vui mừng, lập tức lớn tiếng tuyên bố rằng, lão tặc sớm đã dự tính cướp ngôi hoàng đế, chỉ sọ Viên Thiệu, Viên Thuật, Lã Bố, Lưu Biểu và ta phản đối, nay mấy vị anh hùng kia đều chết cả, chỉ còn lại mình ta, ta thề không chung trời với lão tặc. Nói rồi bèn tuốt kiếm ra, chém mặt bàn thành hai nửa nghiêm mặt nói rằng: “Ai còn nói đến đầu hàng Tào Tháo, sẽ như cái bàn này!” Sau quyết định dứt khoát của Tôn Quyển, các quan viên và tướng lĩnh cùng thề tuân theo quyết sách của chủ tướng, trên dưới đồng lòng tích cực chuẩn bị việc chiến sự chống lại Tào Tháo. Tiếp đó Tôn Quyền chỉ thị cho Trương Chiêu, Lỗ Túc, Chu Du cùng họp bàn với Gia Cát Lượng về việc hợp tác hai họ Tôn - Lưu. Sau cuộc họp, Tôn Quyền cho gọi một mình Chu Du đến, nói rõ phải lập tức điều quân chủ lực của Chu Du về, tăng thêm nhân mã ở Sài Tang, ước có hơn 3 vạn người, chiến thuyền, binh khí, lương thực cũng đã chuẩn bị đủ, có thể lập tức xuất phát. Nếu nhân mã chưa đủ số, sẽ sắp xếp hoàn thành trong thời gian ngắn nhất; mọi việc đều do Tôn Quyền tự mình điều khiển, tiếp ứng thẳng thắn cho tiền tuyến. Trước lúc chia tay Tôn Quyền phấn khởi vỗ vai Chu Du, nói rằng: “Đô đốc có thể làm được đến đâu, xin tận lực làm ngay cho! Nếu có gì không thuận lợi còn có ta đây. Ta dứt khoát chẳng hối hận, nhất định ta sẽ quyết một trận sống mái với Tào Tháo”. Sáng hôm sau, Tôn Quyền công bố việc sắp xếp tổ chức tác chiến chống Tào lần này, danh sách như sau: Tổng chỉ huy: Hữu đô đốc Chu Du. Phó tổng chỉ huy: Tả đô đốc Trình Phổ. Đội tiên phong thủy quân: Vũ phong hiệu uý Hoàng Cái, Trung Lang tướng Hàn Đương. Đội chủ lực thủy quân: Hiệu uý Cam Ninh, hiệu uý Chu Thái, Trung Lang tướng Lã Phạm, Trung Lang tướng Đổng Tập. Đội chủ lực lục quân: Trung Lang tướng Thái Sử Từ, Trung Lang tướng Lã Mông, Trung Lang tướng Lăng Thống. Hậu cần chi viện: Tán quân hiệu uý Lỗ Túc kiêm phụ trách liên hệ việc quân với Lưu Bị và Lưu Kỳ. Quân Đông Ngô có hơn 3 vạn người lại thêm hơn hai vạn binh mã của Lưu Bị và Lưu Kỳ, binh lực động viên được đại khái chỉ bằng 1 phần 4 quân nam chinh và Kinh Châu mới bổ sung của Tào Tháo mà thôi. Kế hoạch của Trương Chiêu tuy không được chấp nhận song ông ta thấy Gia Cát Lượng trẻ tuổi mà biết xem trọng bậc lão thần, nói năng giỏi giang, có ý muốn lôi kéo nhân tài cho quốc gia, bèn đề nghị Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát Cẩn sớm đến thuyết phục Gia Cát Lượng. Tôn Quyền hỏi ý kiến Chu Du song Chu Du cười mà không đáp. Tôn Quyền bèn cho gọi Gia Cát Cẩn bảo rằng: “Gia Cát Khổng Minh là em của tiên sinh, là người có tài, em nghe theo anh là lẽ đương nhiên nếu ông ta muốn ở lại cùng lo đại sự, ta sẽ tự tay viết thư nói rõ vói Lưu Dự Châu”. Gia Cát Cẩn vội đến gặp Gia Cát Lượng, không ngờ Gia Cát Lượng lại nói trước, khuyên Gia Cát Cẩn theo về với Lưu Bị sẽ càng phát huy được khả năng. Gia Cát Cẩn không nài ép được, đành trở về báo cáo với Tôn Quyền: “Em tôi phụ tá Lưu Dự Châu, vì nghĩa chẳng thể hai lòng, Lượng không chịu ở Đông Ngô, cũng như Cẩn không thể rời Giang Đông vậy”. Chu Du cũng khuyên Tôn Quyền chẳng cần nghĩ ngợi nhiều nên thành tâm thản nhiên, để cùng với Lưu Bị và Gia Cát Lượng bàn chi tiết về sự hợp tác. Theo “Tam quốc diễn nghĩa” tô vẽ, Chu Du lòng dạ nhỏ nhen luôn nghĩ hãm hại Gia Cát Lượng. Thực ra Chu Du trong lịch sử chẳng những là người bao dung, lại còn khiêm tốn nữa, lại rất chiếu cố với Gia Cát Lượng. Đặc biệt là Lỗ Túc trong tiểu thuyết thì luôn luôn bị lừa phỉnh; song thực ra ông ta chẳng những là nhà chiến lược của Đông Ngô, lại có tầm nhìn lớn, ý chí rắn rỏi, ông ta cùng với Chu Du, Gia Cát Lượng đồng tâm hợp lực, cố gắng không mệt mỏi, trong chiến dịch liên quân Tôn - Lưu chống Tào Tháo lần này, đã thể hiện vai trò rất quan trọng. Năm đó Chu Du 34 tuổi, Lỗ Túc 37 tuổi, về kinh nghiệm trên võ đài quốc tế và thực tế chiến trường, đều hơn hẳn Gia Cát Lượng mới 28 tuổi. Có thể tin rằng trong chiến dịch này, Gia Cát Lượng đã học tập được ở hai vị tiền bối ưu tú khá nhiều điều bố ích. 8. Chiến trường Xích Bích bầy ra thiên la địa võng: Năm Kiến An thứ 13, cuối tháng 9, Lưu Bị nghe theo đề nghị của Lỗ Túc, đưa quân đội từ Hạ Khẩu thuận giòng mà xuống hơn 200 dặm nữa, đóng đồn ở Phàn Khẩu ở phía nam Trường Giang, để gần với quân Đông Ngô tiện phối hợp, chuẩn bị việc quyết chiến nay mai. Căn cứ vào tin tình báo, đại quân của Tào Tháo đã chuẩn bị xong xuất kích ở Giang Lăng, đợi thời cơ sẽ theo giòng mà xuống, song Gia Cát Lượng và Lỗ Túc lại như không nắm được. Lưu Bị lòng như lửa đốt, hằng ngày đều phái người đến hạ du Trường Giang, thăm dò tình hình điều động của quân Đông Ngô. Không lâu tiêu binh đưa tin đội tiên phong Đông Ngô đang ngược giòng mà lên, sắp đến Phàn Khẩu. Lưu Bị lập tức phái Tôn Càn đến uý lạo, không ngờ Chu Du cũng ở trong thuyền. Chu Du lấy cớ đang bận tâm việc quân chẳng thể tùy tiện rời sở chỉ huy, bèn mời Lưu Bị đến thuyền cùng hội kiến. Lưu Bị giao phó việc quân cho Quan Vũ và Trương Phi một mình ngồi thuyền nhỏ đến gặp Chu Du. Hai người cùng hàn huyên vui vẻ, Lưu Bị quay sang Chu Du hỏi quân Đông Ngô về số lượng có bao nhiêu. Chu Du thản nhiên nói rằng, chỉ có hơn 3 vạn binh mã. Lưu Bị rất thất vọng, lo lắng bầy tỏ rằng, số người như thế phải chăng là rất ít. Chu Du tin tưởng 10 phần trả lời rằng: “Lưu Dự Châu hãy xem tôi đánh bại Tào A Man nhé!”. Lưu Bị lại hỏi tin tức Gia Cát Lượng và Lỗ Túc, Chu Du nói hai người đang ở trên thuyền phía sau, ước độ 3 ngày nữa sẽ đến. Lưu Bị sau khi về trại càng nghĩ càng lo lắng thêm, bèn ngầm đem một bộ phận nhân mã giao cho Quan Vũ đi bố trí ở bờ bắc Hán Thủy, đề phòng khi Chu Du bại trận, có thể phải chạy về đấy. Tào Tháo lúc này đang ở Giang Lăng làm công việc sắp xếp tổ chức, chuẩn bị theo giòng mà xuống đánh Giang Đông. Ông ta sắp xếp quân Trương Liêu, Từ Hoảng, Trình Dục thành các đội thuyền, thêm bảy vạn thủy quân của Sái Mạo và Trương Doãn, đội thuyền từ đầu đến đuôi kéo dài vài trăm dặm, đội thuyền dóng hàng mà tiến, chiều ngang có 24 chiếc thuyền, nhìn như một bức thành trên mặt nước, khí thế rất mạnh, lại còn vài trăm chiếc thuyền nhỏ tuần tra xung quanh, đề phòng kẻ địch đánh lén. Bởi quy mô to lớn như vậy, việc sắp xếp nhân mã đã phải mất hơn một tháng, mãi đến cuối tháng 10 mới khởi binh đông chinh chuẩn bị một trận thủy chiến quy mô to lớn chưa từng thấy. Cuối tháng 10, Chu Du đặt đội thuyền chỉ huy của mình ở Tam Giang Khẩu (mé dưới Hán Khẩu), một mặt tung một số lớn gián điệp đi nắm tình hình quân Tào, một mặt khác chọn đoạn sông Xích Bích, nơi quân Tào sẽ đi qua, làm điểm quyết chiến nay mai. Tình hình giòng chảy của Trường Giang ở chỗ này có sai lệch rất lớn, có mười dặm nước chảy từ từ, có tám dặm nước chảy xiết, thường xuất hiện những xoáy nước lớn, ỏ đó thuyền bè bị chao đảo rất dữ, đối với quân phía bắc không chuyên thủy chiến là rất đỗi bất lợi. Bờ sông Xích Bích cơ hồ toàn do nham thạch màu đỏ tạo thành, sóng nước ở đó cuộn chảy ghê gớm, không dễ lên được bờ, cách bờ bắc 20 dặm có một khu rừng rậm gọi là Ô Lâm. Chu Du đã tự mình quan sát kỹ lưỡng mặt nước và bờ sông, sau đó đã dày công bày ra ở đấy thiên la địa võng chỉ đợi quân Tào kéo đến. Thực ra Chu Du chỉ có một số quân dùng vào việc không nhiều, bởi đề cao tinh thần binh sĩ, ông tự mình đi ở hàng đầu. Hai lão tướng Hoàng Cái và Hàn Lương có kinh nghiệm phong phú lại quen thuộc thời tiết và địa hình lưu vực Trường Giang, đảm nhận chỉ huy đội tiên phong trụ ở bờ đông nam cách Xích Bích nửa ngày đường; một mặt giám sát hành động của đội thuyền Tào Tháo, một mặt cũng chuẩn bị xuất binh lập công ở đấy, giao tranh trực tiếp với quân Tào. Ở mé sau hai vị lão tướng quân là đội tiên phong của đội thuyền chủ lực thủy quân do Cam Ninh, Chu Thái, Đổng Tập chỉ huy, Chu Du và Trình Phổ cùng ngồi ở trung quân chỉ huy, đội thuyền của Lã Phạm làm dự bị, tùy thời mà chuẩn bị việc tăng viện. Trên mặt đất, đội quân đóng ở tuyến đầu do Lã Mông, Lăng Thống và Thái Sử Từ chỉ huy, bố trí ở vùng Hán Dương, phía bắc sông Trường Giang. Đội quân của Lưu Bị ở cách đó 100 dặm tại vùng Hán Khẩu, tạo thành hai lớp trận tuyến, chuẩn bị đối phó với quân Tào tiến quân bằng đường bộ. Quân Hạ Khẩu của Lưu Kỳ thì dời về bố phòng ở Vũ Xương thuộc bờ nam Trường Giang. Nếu quân Đông Ngô bị thua trong trận thủy chiến, quân Tào có vượt sông bờ nam, ít ra có thể tạm cầm cự để Tôn Quyền đang chỉ huy ở Sài Tang có đủ thời gian tập kết quân Đông Ngô, để quyết chiến sống mái một trận sau cùng. Đối với trận thủy chiến có quy mô lớn chưa từng có này, Tào Tháo cũng đã rất cẩn thận; ông ta bỏ ra hơn một tháng để sắp xếp tổ chức, chuẩn bị sau khi tuyên thệ sẽ dẫn toàn quân xuôi dòng mà tiến. Lúc đó bộ tham mưu tiền tuyến của Tào Tháo, vẫn chưa biết tin tức gì về việc Sái Mạo và Trương Doãn tổng chỉ huy quân thủy Kinh Châu chuẩn bị dẫn quân làm phản. Giả Hủ làm tổng tham mưu trưởng quân nam chinh của Tào Tháo do bất đồng với Tào Tháo về chiến lược, bị đổi đi trấn thủ Giang Lăng trông coi việc hậu cần đầy đủ. Việc tham mưu tiền tuyến do Điền Trù và Lâu Khuê đảm nhận. Điền, Lâu hai người là nhân tài về công việc hành chính song chang phải giỏi về kế hoạch chiến đấu, hiệu suất công tác tuy cao, song đôi với việc sưu tập, tìm tòi, phán đoán tin tức tình báo lại không làm tròn cho nên vấn đề này thực ra rất mắc mớ. Sái Mạo và Trương Doãn có danh tiếng lớn ở Kinh Châu; hai người đều theo phái thân Tào lâu ngày. Lưu Tông đầu hàng vô điều kiện, có công đóng góp lớn của hai người ấy, bởi thế rất được Tào Tháo ưa dùng. Song ở vào thời kỳ then chốt này, khi quay mũi giáo về phía Lưu Bị và Tôn Quyền, thực tế mà nói cũng có vấn đề. Chẳng qua trong sự sắp xếp lần này, đội quân phương bắc trực thuộc Tào Tháo bởi không thông thạo thủy chiến, khi chỉnh biên quân đội có xảy ra nhiều sai sót, tạo nên những xung đột thường xuyên giữa ban tham mưu và thủy quân Ích Châu, về kế hoạch tác chiến của Tào Tháo lại lấy quân thủy Ích Châu làm tiên phong, sẽ đụng chạm lớn với quân Giang Đông, còn quân Tào thì đặt ở tuyến sau. Điều này rất mau chóng truyền khắp trong thủy quân Kinh Châu, thậm chí dẫn đến bạo động nghiêm trọng, khiến cho Sái Mạo và Trương Doãn đều chịu áp lực. Tuy như thế, song trong thời kỳ bố trí đội ngũ, Sái Mạo, Trương Doãn không đề đạt gì với Tào Tháo, mà trực tiếp có hành động phản kháng thực ra là điều không thể không xảy ra. Nhìn chung quân thủy Kinh Châu binh biến tập thể, có khả năng bắt đầu từ sự kích động của những gián điệp do Chu Du phái đến, đã cố ý tung tin đồn nhảm, kích động hai bên nghi ngờ lẫn nhau. Sách Tam quốc chí và Ngụy thư ghi chép không rõ ràng về việc này, còn “Tam quốc diễn nghĩa” thì miêu tả Tào Tháo phái Tưởng Cán đến trại Chu Du để do thám quân tình, lại bị Chu Du lừa dối, dẫn đến chỗ Tào Tháo hoài nghi Sái Mạo và Trương Doãn có bụng làm phản. Chẳng qua Tưởng Cán bị lôi cuốn vào câu chuyện gián điệp Tam Giang Khẩu, hiển nhiên là chuyện mà La Quán Trung hư cấu ra. Tưởng Cán thực ra có đến Giang Đông, song lúc ấy trận Xích Bích đã xảy ra được mấy năm, sứ mệnh của Tưởng Cán chẳng phải do thám quân tình mà là hoà đàm, hơn nữa ông ta còn là nhà ngoại giao ưu tú hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Tào Tháo vẫn là người khéo dùng binh, chẳng thể dễ dàng trúng kế như thế. Hành động binh biến của Sái Mạo và Trương Doãn, có thể có nguyên nhân nhất định nào đó; bởi tình huống chuyển biến bất ngờ nghiêm trọng, Tào Tháo không thể không lập tức ngăn chặn, phải điều động quân sĩ của Từ Hoảng và Trình Dục đánh dẹp quân thủy Kinh Châu; Sái Mạo và Trương Doãn chết trong đám loạn quân, cũng khiến sự việc này trở nên khó lý giải được. Vô luận như thế nào, cuộc chiến ở Xích Bích của Tào Tháo còn chưa bắt đầu đã tổn thất hai viên tướng chỉ huy thủy chiến rất ưu tú và cũng rất quan trọng. Bởi tình huống khẩn cấp, việc biên chế lại tổ chức cũng không có khả năng, huống chi việc bồi dưõng tướng lĩnh chỉ huy không phải là việc của một hai ngày. Tào Tháo đành phải giải tán đại bộ phận thủy quân Kinh Châu, phân tán họ vào trong đội thuyền của Trình Dục, Từ Hoảng và Trương Liêu, cải tạo ba đoàn thuyền này làm đội quân chủ lực, trực tiếp đảm đương tuyến mũi nhọn. Ngoài ra, Tào Thuần và Nhạc Tiến phối hợp quân kỵ binh và bộ binh, bố phòng ở vùng Di Lăng, tùy thời chuẩn bị vượt qua Trường Giang đánh vào lãnh thổ Đông Ngô. Nguyên trước đây Mãn Sủng phụ trách hậu cần, phối hợp vái Giả Hủ, phòng thủ Giang Lăng. Bởi trong quân đoàn tiền tuyến đội quân trực thuộc của Tào Tháo chiếm tỷ lệ rất ít bởi đề phòng chuyện bất ngờ, Tào Tháo khẩn cấp hạ lệnh, điều động Tào Nhân đang đóng ở thành Tương Dương, dẫn quân của mình về đóng ở Giang Lăng, để tăng viện. Nhìn bao quát chung, Chu Du duy trì thế thủ, song thấy rõ là có tự tin khá lớn, chuẩn bị đợi thời cơ sẽ phản công tích cực. Trái lại quân Tào bộc lộ thanh thế rất lớn, lại cũng lộ rõ thiêu tin tưởng, bởi quân sĩ trực thuộc rất ít, việc bố trí và điều động đều đã xuất hiện nguy cơ nan giải. Lời bình của Trần Văn Kinh, nghiệm chỉ bảo cho chúng ta, vấn đề quan trọng hàng đầu luôn xảy ra là phải nắm bắt tốt thời khắc cơ hội chuyển biến trong “Tôn Tử binh pháp”, lấy “biết người mà người không biết” và “người lộ rõ mà ta không lộ rõ” làm hai nguyên tắc lớn để thảo ra sách lược chuyển thế yếu thành thế mạnh. Tôn Tử cũng biết rằng: “Phàm là đầu tiên bày sẵn trận địa, lấy nhàn mà đợi địch đến; khi lâm trận phải ra sức tranh giành thắng lợi. Kẻ khéo điều khiển việc quân phải biết người mà người không biết đến”. - Nói cách khác, trước tiên phải dụ địch vào vị trí chiến đấu, trước lúc kẻ địch kéo đến, đã có thời gian nghỉ ngơi ấy là “dĩ dật đãi lao”. Khi kẻ địch đã kéo đến trận địa của mình, trước lúc giao chiến, thì đã bị mỏi mệt bởi phải hành quân. Bởi thế kẻ làm tướng giỏi tác chiến đại đa số biết chủ động lựa chọn chiến trường, hấp dẫn kẻ địch kéo lại, mà không để kẻ địch tạo ra chiến trường để hấp dẫn mình. Thắng bại ở nơi chiến trường, thường quyết định ở cho tranh giành quyền chủ đạo. Để mất quyền chủ động dễ bị đối phương câu thúc, lôi kéo vào thế bị động, dễ dẫn đến thất bại. Thông thường kẻ phòng thủ là tác chiến tại chỗ, không dễ nắm quyền chủ đạo; kẻ tiến đánh là tác chiến ở ngoài dễ nắm chủ động hơn cho nên nhìn chung mà nói, tinh thần của kẻ tiến đánh thường mạnh mẽ hơn song đối với chiến trường có hoàn cảnh địa lợi quen thuộc, thi lại khác, kẻ phòng thủ quen thuộc địa hình dễ nắm quyền chủ đạo về địa lợi, kẻ tiến đánh thường không hiểu biết mà bị rơi vào cạm bẫy bầy sẵn của đối phương. Bởi thế kẻ làm tướng tài giỏi trừ khi đã bị bao vây hoàn toàn, nếu không thì đại đa số cũng không chịu giữ phòng thủ tiêu cực, chỉ biết núp phía sau giữ thành khiến mình hoàn toàn rơi vào thế bị động. Trái lại họ thường chủ động xuất kích, tại vùng đất của mình tìm một nơi thích hợp tác chiến, sau khi làm tốt công việc phòng ngự, lại quyết đánh lại kẻ địch kéo đến bằng một trận sinh tử. Chiến thuật này, chẳng những có thể chủ động tác chiến, hơn nữa có thể nắm được hoàn cảnh chiến trường, là thủ đoạn rất hay để chuyển thế yếu thành thế mạnh. Danh tướng nước Nga là Côtudôp, lấy không gian đổi lấy thời gian, khéo lựa chọn Oatéclo làm chiến trường khiến danh tướng bậc nhất Napôlêông phải gánh chịu thất bại nặng nề. Khi tác chiến ở Quan Độ, Tào Tháo củng sử dụng chiến thuật này đánh bại binh lực của Viên Thiệu gấp mình 10 lần. Trong trận đánh then chốt xảy ra ở bờ Xích Bích, lại chính Chu Du vận dụng nguyên tắc này để đối phó với Tào Tháo. Chủ động nắm chiến trường, tranh thủ quyền chủ đạo, có thể tập trung binh lực, làm cho kẻ địch phân tán. Thái độ của kẻ địch bị chúng ta cố định, lại chẳng thể biến hoá, mất đi năng lực ứng biến trên chiến trường như thế ắt sẽ dẫn đến cái chết chẳng thể tránh khỏi. Tôn Tử nói: “Người lộ mà ta không lộ thì ta chuyên nhất mà địch phân tán, ta chuyên làm một địch phân tán làm người, là lấy mười chọi một vậy”. Đây cũng là phép chuyển cơ rất quan trọng giúp kẻ yếu đuối giành được thắng lợi.