Trong lúc khám phá mười ngục cùng ngục Vô gián, và trong lúc viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn hiền cùng cảnh Long Vương, tôi cũng có chú ý tìm mẹ tôi nhưng không gặp, tôi bèn đến Nhất điện Tần Quảng Vương mà bạch: - Bạch ngài! Tôi có người mẹ tên là Lê Thị Thêm chết ngày 18 tháng 10 năm Tý, đến nay cũng gần mãn tang, tôi cố ý kiếm tìm nhưng không gặp, xin ngài từ bi chỉ dạy cho tôi biết mẹ tôi hiện nay ở đâu? Nhất điện Tần Quảng Vương phán: - Cũng nhờ Hiền tăng có lòng chí hiếu, thọ trì kinh Địa Tạng hồi hướng cầu nguyện cho mẹ, nên thân mẫu của Hiền Tăng được về cõi Trời Tứ Thiên Vương hưởng phước mà cữu huyền thái tổ cũng được siêu sanh. Nghe vậy tôi bèn quỳ xuống bạch: - Bạch ngài! Tôi có thể về cõi trời Tứ Thiên Vương để tìm mẹ cho thỏa lòng ao ước được không? Ngài phán: - Quý thay! Nếu Hiền Tăng muốn đi tìm mẹ thì phải chí tâm cầu nguyện, chừng nào ơn trên ứng chứng mới được đi. Được Nhất điện Tần Quảng Vương dạy bảo, tôi từ giả ngài để trở về cõi Diêm phù. Chư thần đưa tôi về đến ngôi gia thì tôi nhập xác, hàng ngày tôi chí tâm cầu nguyện được về cõi Trời Tứ Thiên Vương tìm mẹ. Tôi nguyện như vậy trong thời gian ba tháng. Đến ngày 9 tháng giêng năm Mẹo. Thượng Đế Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho chư thần xuống trục hồi tôi ra khỏi xác rồi dẫn hồn tôi về thăm mẹ. Chư thần dìu tôi bay lên mây đi được một lúc lâu nhìn xuống thấy núi non trùng điệp, đi một lúc nữa chỉ thấy mây đủ màu sắc rất đẹp mà không thấy chi nữa. Nhìn mặt trời thấy to lớn quá, các ngôi sao cũng thật lớn. Tôi định bụng chắc tại nơi đây gần mặt trời và các vì sao hơn cõi thế nên mình thấy lớn. đi một lúc lâu gặp một số Thánh thần đang đứng trên mây, các chư thần dẫn tôi đến trình chiếu chỉ. Các vị này cho đi qua và lấy làm hoan hỉ lắm. Tôi được các vị thần cho biết đó là cửa Trời, nhưng tôi nhìn lại không thấy cửa nẽo thành trì chi hết mà chỉ thấy khoảng không mây phủ lớp lớp. Đi một lúc nữa thấy cảnh trí trang nghêm xinh đẹp hiện ra thật vô cùng rực rỡ, cây cối ngay hàng, lâu đài uy nghiêm lố nhố. Chứ thần cùng tôi hạ xuống lại trình chiếu chỉ lại một lần nữa rồi bay thẳng đến đền Rồng của Tứ Thiên Vương. Một đền Rồng to tát hiện ra, chung quanh đền đài lớp lớp đồ sộ uy nghiêm đẹp đẽ vô cùng, ánh sang đủ màu trong các đền đài tua tủa chiếu ra như ánh đèn ban đêm nơi đô thị. Nhưng ánh sang ở đây mát mẽ và suốt thấu tận các tầng mây. Mùi hương lạ ngạt ngào làm tâm hồn tôi nửa say nửa tỉnh, tiếng nhạc trời du dương trằm bổng văng vẳng từ xa vọng lại, thật cảnh thiên đường vui đẹp không cùng. Trước đền rồng có rồng chầu, hổ phục, long, lân, qui, phụng đứng có hàng. Những con vật này vừa to vừa đẹp nhiều màu sắc khác lạ cõi đời, chúng thỉnh thoảng rùng mình uốn khúc, con rờ râu mép, con vẫy đuôi múa, xem vẽ ung dung nhàn hạ lắm. Khi tôi cùng chư thần vào, chúng đồng đứng dậy đón chào. Bước vào trong tôi thấy đền rồng cao vòi vọi rộng lớn vô cùng, xây cất bằng châu báu. Người ở đây sao to lớn quá, thân tôi sánh với người cõi Trời chẳng khác nào con cóc sánh với người ở thế gian, thấy mình bé nhỏ lòng hơi khiếp sợ. Được chư thần cho biết vị Trời chánh đế cao hai mươi bốn thước, mặt y đỏ, mão đỏ, hia đỏ: Vị Trời thường cao mười hai thước, mặt áo trắng, mão trắng, hia trắng. Vị đại Tiên cao mười sáu thước. Người Tiên đẹp hơn người Trời nhưng dưới quyền Trời chánh đế. Còn các vị tiên nhỏ màu sắc đủ lọai, tùy theo cấp bậc về công đức tu hành (Tuy cao nhưng đồng thanh đồng thủ). Thẳng vào chánh điện xa xa, một vị to lớn mặc đồ đỏ đang ngự giữa, tôi biết ngay là Trời Tứ Thiên Vương bèn cùng chư thần tiến vào bái yết tung hô (tôi đã được chư thần dạy trước). Yết kiến xong Tứ Thiên Vương phán cho ngồi, tiếng ngài sang sảng như tiếng chuông đồng, kế ngài phán: Hiền Tăng tuy người trọng tội, nhờ lời đại nguyện phá xong mười ngục cứu độ chúng sanh cũng nhiều, đức kia rất lớn. Nay vì lòng hiếu thảo cầu xin về trời gặp mẹ trẩm cũng rộng hồng ân. Hơn nữa, trẫm cũng muốn cho Hiền tăng về trời cho biết, sau nói lại cho chúng sanh nghe đặng chúng biết có Trời, có Phật, có Thánh, có Thần, để chúng sanh khỏi lầm tưởng ngoài cõi đời không còn ai nữa rồi mặc tình làm ác mà phải sa vào địa ngục. Nay trẫm phán đôi lời cho Hiền Tăng rõ: Chúng sanh ở cõi Diêm Phù lòng tham ác dẫy đầy, nghiệp sát sanh quá nặng, cho nên chiến tranh khói lửa không ngừng. Đã thế còn loạn dâm, hủy đạo, ngổ nghịch, bất hiếu, bất trung, mở miệng ra là cống cao ngạo mạn, chửi Trời mắng đất, khi dễ Thánh Thấn. Hàng tháng chư thần về tâu tội lỗi của chúng sanh tràn ngập, còn người thiện về cõi khác rồi cho thần lôi thần hỏa tiêu hủy thế gian đặng lập lại đời thượng cổ cho người hiền chung hưởng. Nhưng đức Quán Âm vì lòng từ bi đã bao lần ngăn cản để ngài tìm cách cứu độ chúng sanh, nếu làm như vậy thì chúng sanh chết khổ tội nghiệp. Cũng may, hiện nay nhiều vị Bồ tát ở cõi Trời Đâu suất vì lòng độ tha nên đã giáng trần độ thế rất nhiều. Nhờ các vị Bồ Tát giảng thuyết Kinh pháp nên chúng sanh biết đường tu tỉnh, ăn chay, niệm Phật, thọ trì Kinh pháp. Trẫm phán cho Hiền Tăng rõ: "Người nào giữ trọn tam quy ngũ giới, khi chết trẫm cho kim đồng ngọc nữ rước về cõi trời Tứ Thiên Vương này hưởng phước tu thêm. Còn từ năm giới tới mười giới thì được về các cõi Trời trên, hoặc về cõi Trời Đâu suất gặp Đức Phật Di Lặc giáo hóa tu thêm. Riêng những vị Tăng Ni Đại Đức khi bổn nguyện đã viên mãn thì về ngay cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Còn những người vào hàng Phật Tử mà phá đạo, hại đời hoặc đã xuất gia thọ giới mà phá giới, phạm trai hoặc loạn dâm, đắm sắc khi chết bị đọa vào địa ngục không biết bao nhiêu năm để đền tội. Còn những vị mặc dầu ở tại gia nhưng một lòng vì đạo, kiến thiết chùa chiền, in kinh ấn tống, ủng hộ tăng ni tu học, đó là hàng Bồ Tát tại gia. Phước báo này đến chổ vô lậu, cứ tô bồi công đức như vậy lần lần đến quả vị Niết Bàn. Vì ủng hộ tăng ni tức bảo tồn tăng bảo thường trụ. Thay mặt đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. In kinh ấn tống là bảo tồn pháp bảo thường trụ ở thế gian để chúng sanh nương theo kinh pháp mà tu hành. Tuy nhiên, những vị tu bồi công đức trên phải luôn luôn khiêm nhường, đừng sanh tâm cống cao ngạo mạng mà tiêu mòn phước báu đi rất uổng. Tất cả các Đức Phật đều muốn cho chúng sanh về đất Phật, tất cả các cõi trời đều muốn cho chúng sanh đặng về trời. Thế mà chúng sanh cứ mà làm ác, lao đầu vào địa ngục, thật là mê muội. Tuy biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tánh Phật ấy như hột giống vậy. Hột giống này phải được trồng trong đất đạo đức, hàng ngày phải được vun tước bằng pháp của Phật thì hột mới nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái Phật, tức thành Phật. Chớ như mê muội đem hột giống bỏ vào sình lầy tham ác, bỏ vào lửa đỏ bạo tàn, ngang ngược thì mọng thúi, hoặc ra tro, cuối cùng thành súc sanh ngạ quỷ chịu thống khổ nuôn đời. Trẫm phán bấy nhiêu lời Hiền Tăng cố nhớ về nói lại cho chúng sanh nghe". Phán xong Ngài cho hai vị Tiên nữ gọi mẹ tôi đến, sau khi bái yết tung hô xong mẹ của tôi được tự tiện hàn huyên. Tôi không nhìn được mẹ tôi vì bà cao lớn và xinh đẹp quá, nhưng nhờ tiếng nói không đổi nên tôi nhận ra. Còn mẹ tôi vừa thấy tôi bà mừng quá chạy lại ôm tôi bà nói: "Ủa Nhi, (vì tôi tên Nhi) con cũng được về trời nữa sao, vậy thì tâu tới tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung một chỗ để cùng tu hành. Nhi ạ! ở cõi trời vui lắm, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường xuống đây thuyết pháp, hào quang các ngài sáng ánh tua tủa, ban đầu mẹ tưởng là Phật, mẹ mừng quá, mẹ lạy hoài không thôi, sau nhờ các vị Tiên nói mẹ mới biết là Bồ Tát. Mẹ nhờ con biết tu hành cầu siêu cho mẹ mới được về trời, thật con có hiếu với mẹ quá, bằng không mẹ còn khổ nữa biết ngày nào được ở đây. Mẹ ở tận núi Hoa, chổ mẹ ở đẹp hơn đây nhiều lắm, một ngày ở đây dài lắm mẹ nghe các vị Tiên cho biết bằn gmột năm ở cõi thế. Lúc mẹ chết thằng Thinh (vì em tôi tên Thinh) làm một con bò va một con heo để làm đám ma, nếu không có con cầu siêu cho chúng nó hóa thân làm người thì mẹ phải đầu thai một kiếp làm bò và một kiếp làm heo để đền mạng. Ôi! Khổ biết bao nhiêu, thằng Thinh ngu quá nó tưởng làm như vậy là báo hiếu cho mẹ, nào ngờ nó làm hại mẹ phải làm súc sanh thật là đâu đớn. Nhưng việc đã qua rồi không nhắc lại làm chi, con hãy tâu với Tứ Thiên Vương xin về ở chung với mẹ đi, ở đây tu hành vui lắm, khỏi phải làm lụng gì hết. Mẹ con mình ráng tu rồi sẽ được trở về cõi Trời đầu suất, mẹ nghe các vị Tiên nói ở Trời Đâu suất có Phật Di Lạc, nhờ ngài giáo hóa mình tu thêm sau một thời gian lâu mới về được cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Nè! Con thấy mẹ không, lúc này mẹ đẹp lắm phải không! Hồi mẹ mới về trời cũng giống như con ngày nay thật là nhỏ nhoi xấu xí quá chừng, thôi con đừng buồn, ở đây ít lâu rồi cũng lớn đẹp như mẹ vậy. Con ạ! Ở đây cúng dường lạ lắm, hễ tâm mình muống cúng dường vị Bồ Tát đang thuyết pháp loại hoa nào tự nhiên loại hoa ấy từ trên hư không đổ xuống tua tủa như mưa thật là vui. Mới về cõi Trời mẹ tâm tưởng để cúng dường như vậy chưa được, phải tu một thời gian sau mẹ mới cúng dường bằng cách tâm tưởng sang hoa. Cõi Trời vui lắm, để rồi con thấy mẹ không nói sai đâu. Lúc mẹ còn sống thường mở máy thâu thanh để nghe và thích nhất tuồng hát bội, nhưng ở đây các vị Tiên nữ múa hát hay gấp bội lần, còn trên hư không nhạc trời tự nhiên trỗi thật hay mẹ nóikhông hết được. Thôi con đến xin cùng tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung rồi con sẽ thấy lời mẹ nói thật, còn nữa, còn nhiều chuyện lạ nữa, đến xin đi con". Bà nói huyên thuyên không ngừng nghỉ, vì lòng phàm còn nặng nên khi thấy mẹ tôi vui mừng kể lễ làm tôi mủi lòng nước mắt dầm dề. Chư thần bèn cho mẹ tôi biết là tôi chưa chết vì lòng hiếu thảo muốn tìm mẹ mà thôi. Vừa lúc ấy Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho phép tôi được dạo cảnh trời, tôi cùng chư thần yết kiến Tứ Thiên Vương rồi ra khỏi đền Rồng để dạo cảnh. Cảnh trời đẹp hơn cảnh Địa Tiên rất nhiều, tiếng gió thổi, chim kêu man mác nhẹ nhàng tưởng chừng như cảnh Tây Phương. Các vị Tiên cõi lạc, cõi công bay lơ lững trên không. Tiếng ống tiêu, ống sáo nghe thâm trầm, các loại chim hạt, chim công, chim quy cùng nhiều loại chim khác nữa mà tôi không biết tên đang nhảy múa ca hát tiếng cười, làm tôi ngây ngất tâm hồn, không muốn trở lại cõi trần đầy đâu khổ. Các vị Tiên nữ từng nhóm, từng đoàn đủ màu sặc sở đang tung tăng múa hát. Cỏ hoa xinh đẹp nhiều đóa hoa to lớn như cái mâm mùi thơm bát ngát, cây cối đầy đàn thẳng tấp, thân cây trong sáng hoa quả đặc cành, không một gợi bụi không một chiếc lá rơi, không một cành cỏ dại, đất như pha lê cẩm thạch. Lầu ngà tháp ngọc vòi vọi tận mây, gió hây hây thổi mang hương thơm ngào ngạt hòa lẩn với tiếng sáo du dương, tiếng chim ca hát, tiếng lãnh lót của các vị tiên nữ làm tâm hồn tôi ngây ngất muốn bay bổng lên tận hư không. Nghĩ lại cảnh đời đua chen xô xát mà ngán ngẩm, nghĩ đến chiến tranh ly loạn ở cõi đời mà tê tái cõi lòng. Tôi hết muốn trở lại trần gian, nhưng nhớ đến lời đại nguyện tôi nhất quyết phải trở lại cảnh diêm phù. Trước là trả xong nghiệp quả, sau cho trọn lời đại nguyện, rồi tôi từ giã mẹ tôi để trở lại đền Rồng tâu cùng Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho tôi trở về cõi thế. Đến nơi Tứ Thiên Vương phán: "Tuy cõi trời rộng bao la, tốt đẹp vô ngần, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường đến thuyết pháp dạy đạo, song chúng tiên cứ mãi say sưa trong cảnh đẹp ít chịu tu hành. Nay trẫm thỉnh Hiền Tăng đến pháp đài giảng cho chúng tiên một thời pháp về cái khổ ở thế gian và nơi địa gục, đặng chúng tiên sanh tâm lo sợ mà tinh tấn tu hành, kẻo chúng tiên cứ mãi vui chơi đến ngày hết thuốc bị đọa lại trần gian thì tội lắm! Hiền Tăng đến ngay tháp đài ở núi hoa, tháp này có mười tám tầng dành cho các vị Bồ Tát đến thuyết pháp, nhưng khi đến nơi Hiền Tăng chỉ ngồi ở tầng thứ mười thuyết một thời pháp cho chúng tiên nghe". Được lệnh chư thần đưa tôi bay đến tháp đài. Tháp này cao vòi vọi. Không biết xây bằng thứ gì mà trong sáng lạ thường. Chung quanh tháp đài một khoảng trống mênh mông mặt đất như vàng ròng. Tôi đến ngồi ở tầng thứ mười thấy các vị tiên bốn phía từng đoàn, từng lũ đằng vân về tháp đông đảo như ngày hội. Sau các vị Tiên ngồi theo thứ lớp, tôi nhìn xuống thấy thật có thứ tự màu áo nào ngồi theo nhóm nấy không xen lẫn lộn. Hết lớp này đến lớp khác đều đặng trang nghiêm. Tôi bèn cất tiếng giảng về những điều khổ ở thế gian: (Ở đây tôi xin tóm lược nhựng điểm cốt yếu) nào cái khổ còn từ trong bào thai tối đen ngộp thở, nào cái khổ từ lúc mới sinh ra dại khờ ngu tối, yếu đuối sống nhờ nơi cha mẹ, nào cái khổ khi lớn lên tạo lập gia đình, lam lũ nhọc nhằn, đổ mồ hô, sôi nước mắt mới có miếng ăn, áo mặc, nhà ở. Nào những lúc bệnh tật ốm đau dày vò, nào những lúc già yếu, chân mỏi, da dùn, mắt lờ, tai điếc. Nào khi chết bức khổ than tâm. Còn bao nhiêu cái khổ thiên tai, hỏa hoạn, cái khổ về chiến tranh tàn phá, chết chóc, đến những cái khổ về tù đày, sanh ly tử biệt. Kế tôi nói về sự đâu khổ ở địa ngục. Lúc ấy tôi thấy các vị Tiên nơm nớp lo sợ. Sau khi tôi giảng xong các vị Tiên tụ tập từng nhóm bàn tán với nhau, thấy vậy tôi bèn lân la với các vị Tiên, các ngài nói: "Nếu không có Hiền Tăng nói rõ về cảnh khổ ở thế gian chúng tôi đâu biết. Chúng tôi tưởng ở thế gian cũng sung sướng như ở cõi nầy nào ngờ khổ quá. Chúng tôi ở đây nào có nghĩ tới năm tháng nào có thấy ai già, ai chết bao giờ, hễ bị tội là Thượng Đế đọa xuống trần gian, nhưng tưởng là đi du ngoạn một lúc vậy thôi nào ngờ khổ quá. Các vị Bồ Tát thường đến đây thuyết pháp mà chúng tôi nào có tin lời. Còn Hiền Tăng từ cõi thế lên đây nói rõ cảnh đời khổ sở làm chúng tôi thức tỉnh. Thôi chúng tôi bắt đầu tu theo Phật kẻo bị đọa xuống trần gian khổ lắm chịu sao cho nổi. Một vị khác tiếp: "Thỉnh thoảng Hiền Tăng lên đây một lần nhắc nhở chúng Tiên tu hành tinh tấn chớ các chư thần thường xuống cõi Diêm phù quan sát về nói lại lắm lúc chúng Tiên cũng chẳng mấy làm tin lắm". Tôi bèn cáo biệt các vị Tiên, trở lại đền rồng lãnh chiếu chỉ trở về dương thế. Đến nơi tôi bái yết xong, Tứ Thiên Vương phán: "Hôm nay Hiền Tăng đã toại nguyện khi trở về khi trở về cõi Diêm phù nhắc nhở chúng sanh tin tấn tu hành, cảnh đẹp ở cõi trời rất rộng đang chờ đón chúng sanh tu thiện. Hiền Tăng nhắc nhở chúng sanh đừng đắm đuối theo xác thân giả tạm, thời gian nó cũng tiêu hoại, phải lo phần hồn là cái chắc thật lâu dài, phải nuôi phần hồn bằng giáo pháp của Phật, phải biết quên mình vì kẻ khác đửng ích kỷ thì cửa trời đang mở rộng đón chờ". Phán xong ngài phê chiếu chỉ cho chư thần đưa tôi về cõi thế. Mô Phật, đây là lời sơ lược về cảnh trời Tứ Thiên Vương, nếu nói cho hết thì chẳng cùng, hơn nữa tôi chỉ đằng vân ở trên đi lướt qua các cảnh chớ không có thời giờ quan sát tỉ mỉ từng chi tiết một, và ở cõi trời nhiều vật đẹp lạ mà thế gian không có nên tôi cũng không biết gọi là gì. Cõi trời là cõi thật, muôn đời nghìn kiếp chẳng đổi thay, nơi thánh nhân đầy đủ phước duyên hưởng thọ, trí phàm như tôi không sao tả cho tường tận được. Nếu chư vị Phật tử nào còn nghi ngờ điều chi trong quyển này xin đến Liên Hoa tịnh thất Mỹ Tho chúng tôi vui lòng hầu chuyện cùng quý vị. Chúng tôi nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng quay về bờ giác. Viết xong ngày 28-11-1971 Nhằm ngày 11 tháng 10 năm Tân Hợi Thích nữ Huệ Hiền Kính bút