Sau khi "Đại cách mạng văn hoá" diễn ra, Đào Chú được điều động từ Quảng Châu lên Bắc Kinh, trong Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương lần thứ 11 khoá 8, triệu tập tháng 8 được bầu vào Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương, trở thành "nhân vật số 4" của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng sau hơn nửa năm những lời hô kinh thiên động địa "Đánh đổ phái bảo hoàng lớn nhất Trung Quốc" Đào Chú đã bị đổ gục. Đến 18-10-1969, trong "lệnh số l" của Lâm Bưu, Đào Chú bị đưa đi "sơ tán" đến Hợp Phì. Ngày 30 tháng 11 năm 1969 Đào Chú ngậm oan từ bỏ cõi trần.
Cuộc đời ngời sáng lỗi lạc, cương trực thăng thắn của Đào Chú cũng đã không thoát khỏi vận hạn bất ngờ.
Ngày 1 tháng 6 năm 1966, Đài phát thanh Trung ương và các địa phương đều đã phát đi trang nhất báo chữ to của 7 người gồm Nhiếp Nguyên Tử v.v… dán ở Đại học Bắc Kinh. Chính ngày này Đào Chú cáo biệt Dương Thành, Quảng Châu sau 15 năm công tác ở đó, lên xe về Bắc Kinh, ông ở lầu 9 Điếu Ngư Đài.
Ngày 9 tháng 6, Đào Chú đi đến Khang Châu. Mao Trạch Đông đang mở Hội nghị ở khang Châu, Lưu Thiếu Kỳ thông báo: tình hình Bắc Kinh khiến cho Đảng uỷ các trường trung học chuyên nghiệp và đại học ở Bắc Kinh đều ở vào thế tê liệt hoặc nửa tê liệt. Thành uỷ mới của Bắc Kinh cử một số ít tổ công tác thi hành các biện pháp để điều chỉnh.
Hội nghị xuất hiện hai loại ý kiến. Đa số đồng ý chủ trương cử tổ công tác. Đào Chú nói: "Tôi tích cực ủng hộ chủ trương phái tổ công tác. Chúng tôi luôn làm công tác thực tế nên đều hiểu, cử tổ công tác xuống bám trụ, đây là một trong những kinh nghiệm thành công của Đảng ta mấy chục năm qua?"
Trần Bá Đạt thì lại nói: "Theo tôi đề nghị, không cần cử tổ công tác. Tin tưởng quần chúng, đấy là chủ nghĩa Mác. Còn cần gì phải cử"
Mao Trạch Đông cuối cùng mới tỏ thái độ: "Có thể cử tổ công tác, có thể không cử, không nhất thiết vội vội vàng vàng cử đi".
Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình sau khi về tới Bắc Kinh, lập tức triệu tập Hội nghị thường vụ Bộ chính trị Trung ương mở rộng, các đảng bộ có người phụ trách tham gia Hội nghị quyết định: ở đâu xảy ra việc, ở đó, cử người đi. Cử tổ công tác cần nhanh, giống như đội cứu hoả đi dập lửa.
Sau Hội nghị, Lưu Thiếu Kỳ điện cho Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông trả lời đồng ý.
Ngày 18 tháng 7, Mao Trạch Đông từ miền Nam về đến Bắc Kinh, nghe Trương Xuân Kiều và một số người báo cáo lại, hôm sau mới gặp Lưu Thiếu Kỳ. Mao Trạch Đông không hoàn toàn vừa ý với việc cử tổ công tác đi, nghiêm khắc phát biểu: "Sau khi về Bắc Kinh, tôi cảm thấy rất buồn, lạnh vắng quá, cửa các trường đều đã đóng hết. Thậm chí có một số trường trấn áp phong trào học sinh… Phàm là người trấn áp phong trào học sinh đều chưa xuống hiện trường. Phong trào đã phạm sai lầm về đường lối và phương hướng". Ông hạ mệnh lệnh: "Cần khẩn trương thay đổi, kẻo không sẽ làm hỏng bét cả bây giờ".
Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình bị phê phán.
Trong thời gian Hội nghị toàn quốc lần thứ 11 khoá 8, Mao Trạch Đông nhiều lần chủ trì các Hội nghị sinh hoạt Bộ chính trị. Tạ Phú Trị và một sỏ người khác phê phán mạnh mẽ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Chu Ân Lai và Đào Chú không phát biểu gì trong Hội nghị.
Đào Chú to nhỏ với vợ là Tăng Chí: "Thủ tướng không nã pháo, thì tôi có bạn, có chỗ dựa. Tôi sẽ trụ vững".
Hội nghị toàn thể kết thúc, buổi tối 2 ngày sau, Đào Chú đi cùng Chu Ân Lai thăm Lâm Bưu.
Đào Chú hỏi: "Lâm Tổng, hiện giờ trong xã hội rất rối loạn, quần chúng ắt sẽ nổi dậy, thành lập rất nhiều tổ chức, rất sống động, còn tổ chức các cấp của Đảng Cộng sản chúng ta phát huy tác dụng như thế nào đây? Mọi người tâm lý hẫng hụt".
Lâm Bưu trả lời một cách đắn đo: "Tuyệt đại bộ phận Đảng uỷ và cán bộ lãnh đạo, đối với cuộc đấu tranh này đều không hiểu và không đắc lực".
Đào Chú nói: "Tôi và các đồng chí phụ trách cấp uỷ Đảng tỉnh thành cả nước cũng đều không lý giải nổi mục đích của cuộc vận động này…".
"Không lý giải được tức là không đắc lực" Lâm Bưu nói một các dứt khoát.
Ngày 24-7, Đào Chú chuyển khỏi Điếu Ngư Đài đến Trung Nam Hải.
Đào Chú giúp Chu Ân Lai giải quyết một số việc của cuộc vận động, bận rộn túi bụi. Người của "cách mạng văn hoá" phóng lửa khắp nơi. Chu Ân Lai và Đào Chú phải đi "dập lửa". Nhưng sức lửa bùng lớn, mọi nơi đều ẩn chứa hoạn nạn…
Hạ tuần tháng 9, Bí thư thành uỷ Thiên Tân là Vạn Hiểu Đường mất. Đào Chú gọi điện thoại, cho Tân Hoa xã phát đi công báo về cái chết của Vạn Hiểu Đường, 50 vạn nhân dân thành phố Thiên Tân đã tham gia lễ truy điệu.
Mao Trạch Đông sau khi nghe báo cáo nói: "Đây là thị uy Đảng, là dùng người chết để gây sức ép với người sống".
Trong Hội nghị, chạm trán với "cách mạng văn hoá", Đào Chú cuối cùng chịu không nổi, đã nổ phát pháo vào Giang Thanh. Ông đề nghị với Chu Ân Lai: "Giang Thanh chẳng có chức vụ chính thức gì trong cơ quan, chi bằng để bà ta làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá, công tác liên lạc hoặc tham gia hoạt động cũng có một danh nghĩa".
Giang Thanh làm toáng lên: "Các anh gặp phải quỷ rồi"? Bà ta vuốt tóc chống tay: "Tôi làm sao có thể làm những loại công việc ấy?". Bà ta tự nhận là phải nằm trong hàng ngũ lãnh đạo nhà nước.
Giang Thanh chất vấn Đào Chú, vì sao không đi học người, tuyên bố phải viết lên trang báo chũ to thứ nhất nói mình là phái tả cách mạng. Bà ta lên lớp: Chỉ cần anh viết tờ báo chữ to ấy thì thừa nhận anh là phái tả cách mạng, và ủng hộ anh.
Đào Chú lắc lắc đầu: "Tôi không thể không hỏi động cơ, không nhìn lịch sử".
Giang Thanh nói: "Với vấn đề lịch sử ư, có gì là ghê gớm nào? Anh chẳng đã tửng là đảng viên Quốc dân đảng đó sao?".
Đào Chú trừng mắt gào lên: "Cô biết tôi là đảng viên Quốc dân đảng bao giờ đấy? Tôi là Đảng viên Quốc dân đảng thời kỳ thứ nhất hợp hai Đảng Cộng sản và Quốc dân, khi đó Mao Chủ tịch cũng là Đảng viên Quốc dân đảng. Thủ tướng 'Chu Ân Lai cũng vậy? Trước hết, cô hãy đi học lịch sử đi".
Giang Thanh bị nạt nộ, sau đó vừa khóc vừa gào. Chu Ân Lai tế nhị tuyên bố giải tán Hội nghị.
Tháng 11 năm 1966, Đào Chú và Giang Thanh đối lập nhau ngày một gay gắt.
Đào Chú trong lần nói chuyện với ngành y tế đã tuyên bố. "Hoài nghi tất cả là không nên. Còn bây giờ là thời gian cách mạng văn hoá, rốt cuộc anh là cách mạng thật hay là cách mạng giả… Điều tra rõ ràng rồi thì mới có thể xoá bỏ nghi ngờ được" ông còn bổ sung một câu:"Giang cần phải hoài nghi? Cần điều tra, cần đi làm rõ". Câu nói này công kích đúng vào điểm yếu của Giang Thanh.
Bà ta trả miếng Đào Chú rằng: "Ông nói rõ đi, ông hoài nghi ai? Ông hoài nghi tất cả còn trừ mình ra chứ?".
Trương Xuân Kiều, Trần Bá Đạt và Diêu Văn Nguyên cũng hét to lên: "phái bảo hoàng lớn nhất trong Đảng hiện nay là ông đó, Đào Chú ạ!".
Giang Thanh giơ cao nắm đấm hô to: "Phái bảo hoàng không đầu hàng, cần để cho hắn chết!".
Không lâu sau, trên bục nói chuyện với giới văn nghệ, Giang Thanh nói dằn từng từ một: Mao Chủ tịch cùng với bạn chiến đấu thân thiết của người là Lâm Bưu, Chu Ân Lai,Trần Bá Đạt, Khang Sinh…".
Đây là một tín hiệu, gần như là tuyên bố gạt Đào Chú ra khỏi bạn thân thiết của Mao Chủ tịch.
Có một học sinh ở Triết Giang được gợi ý, liền viết 2 quyển sách phê phán Đào Chú "Phong cách cây tùng" và "Tính kiên định của cách mạng" cho báo chữ to, tổng cộng chừng 60 trang, hơn 2 vạn chữ, dán trên các cửa nhà phố lớn đông đúc của Bắc Kinh và đã làm rầm rộ thành phố Bắc Kinh.
Tăng Chí nhờ Đào Chú tìm cho ra 2 quyển sách này, bà gửi cho Mao Chủ tịch.
Mao Chủ tịch xem xong nói: "Phong cách cây tùng" tốt thì rất tốt, nhưng cũng không có ý tứ lớn gì nhiều, đâu bằng lương thực là chính. Ông nhấn mạnh: "Lời nói trên hội diễn kịch ở Trung Nam Hải anh xem, giai đoạn hiện nay nên đưa mâu thuẫn nội bộ đặt lên vị trí quan trọng, đây là vấn đề mang tính nguyên tắc".
Đào Chú hiểu rõ ý tứ Mao Trạch Đông là giai đoạn hiện nay vẫn lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh.
Mao Trạch Đông điều Đào Chú lên Trung ương là có ý trọng dụng. Nhưng ông ta lại ngồi vào phía Lưu, Đặng. Nhưng Mao Trạch Đông vẫn muốn bảo vệ ông ta. Trên Hội nghị mở rộng Thường vụ Bộ chính trị ngày 29-12, Mao Trạch Đông nói với Đào Chú: "Anh vì sao không chịu nói ra là anh đã phạm sai lầm không thể lý giải nổi vấn đề". Ông nói: "Đào Chú lên Trung ương, công tác rất tích cực, bận rộn làm được rất nhiều việc". Ông nói tiếp: Giang Thanh hay dựa dẫm, thích làm tổn thương người khác. Đào Chú là Thường vụ Bộ Chính trị, ít dự thảo luận chính thức ở Trung ương, nói ông ấy phạm sai lầm về đường lối phương hướng, trên Hội nghị lại phê phán tuỳ tiện, như vậy là trái với nguyên tắc tổ chức của Đảng".
Sau Hội nghị, Mao Trạch Đông giữ Đào Chú ở lại chuyện trò rất nhiều: "Tôi đã rõ các chuyện hơn một tháng rồi vì sao anh không xuống cơ sở?"
Đào Chú giải thích: "Gần đây công việc bề bộn, Thủ tướng, không bứt ra khỏi công việc. Hơn nữa, lần này xuống địa phương, thời gian hơi lâu, cần phải thu xếp ít thời gian nữa. Tôi còn thiếu hai Bộ nũa là trao đổi xong, định ít hôm nữa là xuống".
Mao Trạch Đông hy vọng Đào Chú đi đến các tỉnh thành khảo sát một thời gian. Ông tự mình chỉ định danh sách 20 người, đưa cho Đào Chú, và dặn: "Các đồng chí này "thiêu" thì cần "thiêu", nhưng đừng "thiêu cháy thui". Nếu còn bảo vệ được thì bảo vệ. Cần cứu người khỏi nước sôi lửa bỏng! Anh đại biểu cho Trung ương đi, tác dụng của lời phát biểu sẽ lớn, cần bảo vệ, giữ lại họ".
Đào Chú báo cáo lại với Chu Ân Lai buổi trao đổi với Mao Trạch Đông. Trong Hội nghị mở rộng Bộ Chính trị, Chu Ân Lai nói: "Chỉ thị của Chủ tịch, giờ xem là quyết định của Trung ương: Làm tốt công tác chủ yếu, sang năm mới đồng chí Đào Chú hẵng đi".
Thế nhưng sang ngày thứ hai tin đến Bắc Kinh "đội tạo phản Vũ Hán ập đến Quảng Châu bắt Vương Nhiệm Trọng, dưới sự chỉ dẫn của "Cách mạng văn hoá Trung ương". Lệnh ép gặp Đào Chú và giao Vương Nhiệm Trọng. Tối đó, ở hội trường nhỏ quốc vụ viện bọn "Phái tạo phản" hô lớn: "Đào Chú nhất định phải giao Vương Nhiệm Trọng"? "Đào Chú là phái Bảo hoàng quyết không xuống bệ"? "Phái Bảo hoàng không đầu hàng thì cho nó diệt vong"? "Chúng tao lệnh gấp, mày phải lập tức trả lời"
Đào Chú máu bốc lên đầu, tiếng vang như sấm: "Các người như vậy là o ép ta, chúng ta còn có gì để mà thương lượng nữa! Các người là người, ta cũng là người! Ta lấy tư cách cá nhân chống lại cách làm của các người".
Hội trường lặng lặng được 3 giây, lại nổ một trận dừ dội: "Đào Chú chống lại nhân dân là chống lại Mao Chủ tịch", "Đào Chú điên cuồng chống lại cách mạng văn hoá tội nghìn lần đáng chết"
"Đánh đổ Đào Chú" v.v.
Đào Chú bị công kích 6 giờ đồng hồ liền.
Trời sáng, số lượng lớn truyền đơn và báo chữ nhỏ dán rải khắp ngõ phố lớn nhỏ kinh thành Bắc Kinh…
Chiều 4 tháng 1 nt tâm tình trĩu nặng. Dương Thuật chôn chặt trong lòng thiên ngôn vạn ngữ, Đặng Thác cũng như màc xương trong họng. Khi Đặng Thác không còn chịu đựng được đã nói rằng "Sau khi tôi làm một năm, sẽ cho rõ vấn đề Dương Thuật vô cùng thương cảm lắc đầu: "Tôi thấy lần này có thế sẽ dài đấy, khả năng phải hai năm". Nhưng sự thực lạnh lùng vô tình đã chứng minh cách nghĩ của họ là rất đơn giản. Hoàn cảnh của Đặng Thác đã là vô cùng nguy hiểm, ông vẫn chưa lường được phong ba bão táp mãnh liệt đang ập đến.
"Báo Quân giải phóng" số ra ngày 8 tháng 5 đã đăng trên vị trí nổi bật bài viết của Giang Thanh: "Nổ súng vào đường lối đen tối phản Đảng, phản chủ nghĩa xã hội". Cùng ngày, trên "Quang minh nhật báo", Quan Phong lấy tên giả là Hà Minh Xích đã đăng bài "Lau cho sáng mắt, phân biệt thật giả".
Ngày 10 tháng 5, Diêu Văn Nguyên hơ nóng trên "Báo Giải phóng" và "Báo Văn hối" ở Thượng Hải bằng bài "Bình về Tam gia thôn"; Thích Bản Vũ thì đưa lên tạp chí "Hồng kỳ" bài "Bình luận về lập trường giai cấp tư sản của tập san "Tiền tuyến" và "Bắc Kinh nhật báo".
Những bài viết này đầy rẫy những lời chửi rủa và đe doạ, nói Đặng Thác là "Ôm một mối thù khắc cốt ghi xương với Đảng và chủ nghĩa xã hội", "Gõ chiêng mở đường cho sự ngóc đầu. dậy của tư bản chủ nghĩa"; "Yến Sơn dạ thoại" là, những lời nói đen tối phản Đảng, pbản chủ nghĩa xã hội chính hiệu"; Thị uỷ Bắc Kinh bị chửi mắng đến khiếp đảm: "Từ trước đến nay các anh đã đăng bài viết của bọn Đặng Thác, phóng ra bao nhiêu là thuốc độc, làm cho đến nỗi khói lửa mịt mù, trở thành công cụ phản Đảng, phản chủ nghĩa xã hội. Sau khi bộ mặt phản Đảng của Ngô Hàm bị bóc trần, các anh vẫn diễn một vở kịch đáng ghét "Chu Du đánh Hoàng Cái", nói thành vấn đề học thuật "Kế thừa đạo đức luận", tức là giải thoát cho Ngô Hàm, rồi lại bỏ qua cho Đặng Thác… Các anh nắm rất chắc về cuộc đấu tranh giai cấp, chẳng qua là thực hiện cuộc đấu tranh với giai cấp vô sản mà thôi".
"Cuộc đại cách mạng văn hoá" chưa bao giờ có trong lịch sử, khiến suy nghĩ của Đặng Thác tan như bong bóng xà phòng.
Ngày 4 tháng 5, Cục Chính trị Trung ương tổ chức một Hội nghị rất lớn ở Bắc Kinh, Mao trạch Đông vì đang ở nơi khác nên không đến Hội nghị, Lưu Thiếu Kỳ chủ trì hội nghị. Khang Sinh nắm quyền lực lớn, việc thỉnh thị hội báo với Mao Trạch Đông là do ông ta phụ trách. Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Quan Phong, Thích Bản Vũ, mũ áo đường hoàng tham gia Hội nghị. Ngày 16 tháng 5, "Thông báo 16-5" được thông qua ở hội nghị, thông báo chỉ ra rằng: "Những nhân vật đại biểu cho giai cấp tư sản chui vào trong Đảng, trong chính phủ, trong quân đội và các giới văn hoá là một tốp những phần tử phản cách mạng, một khi thời cơ chín muồi chúng sẽ cướp chính quyền, biến nền chuyên chính của giai cấp vô sản thành nền chuyên chính của giai cấp tư sản.
Ngày 18 tháng 5, Lâm Bưu đã tạo ra một bầu không khí căng thẳng: "Nhìn nhận từ một khối lượng lớn những sự thực, phải đề phòng lật đổ nội bộ, phòng ngừa xảy ra chính biến phản cách mạng", "Phải không được quên cuộc đấu tranh giai cấp, không được quên nền chuyên chính của giai cấp vô sản và luôn luôn giương cao ngọn cờ vĩ đại của tư tưởng Mao Trạch Đông.
Từ đó Đặng Thác, Ngô Hàm, Liêu Muội Sa bị xem như là một bọn phản cách mạng mặt mũi dữ tợn, miệng đầy lời nói đen tối, chuyên mạo âm mưu, "Yến Sơn dạ thoại" và "Bút ký Tam gia thôn" bị vu cho là một bộ phận cấu thành âm mưu chính biến; từ đó, Ngô Hàm và "Tam gia thôn" đang bị bao vây đã mở rộng đến Trung ương, rồi đến tận các địa phương trong cả nuớc, đâu đâu cũng rầm rầm rộ rộ nắm chặt "Tam gia thôn" và "Tứ gia điếm" ra sức kéo "bọn đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản" ra khỏi các cơ quan; từ đó, cuộc đấu tranh với những phần tử phản cách mạng ngày càng dâng cao, thủ đoạn đấu tranh giống như đối với kẻ địch thật, tàn khốc vô tình, bỉ ổi dã man.
Điều càng khiến người ta kinh khủng là đài phát thanh, báo chí luôn luôn là thần thánh trong trái tim và con mắt mọi người, được xem là cơ quan ngôn luận của Đảng và nhân dân, hoàn toàn xứng đáng được tin tưởng và tôn kính, lúc này đang trở thành công cụ xúi bẩy gây chuyện, tạo ra những án oan sai trái, những lời nói sai sự thật và tâm tư thù hận lan tràn, dẫn đến việc bọn "Hồng vệ binh non choẹt" vắt mũi chưa sạch tấn công và bắt giữ điên cuồng kẻ thù giai cấp là những cán bộ cao cấp, những chiến sỹ, lão thành cách mạng. Khang Sinh, Trần Bá Đạt, Giang Thanh và Trương Xuân Kiều đang ngồi trên vị trí Bộ tư lệnh "Cải cách văn hoá Trung ương" đều tỏ ra hăm hở thì Tạp chí "Cờ hồng" đăng bài "Bình luận về lập trường của giai cấp tư sản". "Tiền tuyến" của Thích Bản Vũ đã đẩy Đặng Thác vào hố băng: "Đặng Thác là người như thế nào? Hiện tại đã xác minh anh ta là kẻ phạm tội. Trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật đã trà trộn vào Đảng. Anh ta nguỵ trang rất giỏi, lừa dối sự tín nhiệm của Đảng và nhân dân đã đảm nhận chức vụ quan trọng". "Nhân dân Nhật báo" đăng: Anh ta thường lợi dụng chức quyền của mình, làm sai lệch chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông, thúc đẩy và tuyên truyền tư tưởng xét lại của giai cấp tư sản. Mùa hạ năm 1957 anh ta là nhân vật xù lông vẫy cánh của phái hữu, của giai cấp tư sản". Đặng Thác lúc ấy hai mắt tối sầm lại đầu óc quay cuồng, ông làm sao chịu nổi những lời bài xích thoá mạ, lăng nhục độc ác như vậy? Phải qua thời gian dài Đặng Thác sống những ngày ruột gan như lửa đốt, hoảng hốt không yên trầm mặc buồn rầu đến cực độ… Mao Trạch Đông vui vẻ đồng ý quan tâm đến phong trào văn chương: "Văn chương của Hà Minh tôi đã xem qua, tôi rất thích". Điều đó đã khiến cho "Các pháo thủ" cùng ra oai hơn. Từ đấy, báo chí ngày càng tập trung phê phán "Thôn ba nhà" ngày càng ác liệt trong toàn quốc các giới, các trận tuyến dấy lên sự lên án công khai tập thể hội "Băng đen" Đặng Thác chỗ này nổi lên chỗ kia chìm xuống, khẩu hiệu "Đập tan Thôn ba nhà" vang lên tận mây xanh. "Nói chuyện đêm trên núi Yến" (Yến Sơn dạ thoại) bị phê phán khiến trong lòng Đặng Thác như có bóng đen đáng sợ không thể nào xua đuổi được Gia đình vui vẻ hoà thuận ngày xưa nay chỉ là sương phủ trên tuyết, như băng đóng chặt cứng và giống như những vết nứt khó lường trên vùng sâu núi tuyết, như đầm lầy đầy nguy hiểm mà cỏ mọc kín xung quanh, tất cả đều khô héo và ngạt thở, không có một chút sức sống, tất cả tình trạng này đều do sự công kích ác độc của bè lũ Diêu Văn Nguyên. "Nói chuyện đêm trên núi Yến" được coi là "Có mục đích chính trị", "Những lời đen tối phản cách mạng" của "Ngôn ngữ mang hai nghĩa". Đây là "Văn tự từ" một thủ đoạn xấu xa bỉ ổi một sự phê phán độc ác long trời lở đất áp đảo, khiến Đặng Thác thở không ra hơi, còn thanh minh được cái gì? Chẳng lẽ ông đứng trong hội trường to lớn đông đúc ấy khẳng khái thật thà nói lên mình bị oan uổng chăng? ông có ngàn vạn lời nhưng cũng chỉ còn biết chôn chặt trong lòng mà thôi, bởi vì không có chỗ để cho ông nói, không có người nghe ông nói. Đặng Thác cảm thấy sự tàn khốc của phong ba bão táp phút chốc đang tiến công vào ông. Dù ông phải chịu đựng sự nhục nhã quá lớn, mặo dù trước đây ông không dám tin rằng những việc này lại quá sức tưởng tượng của ông, dù tim ông rỉ máu nhưng Đặng Thác vẫn tin tưởng rằng sẽ có một ngày Đảng chứng minh con người thật của ông, quần chúng sẽ hiểu ông, nhưng biết khi nào? "kẻ sĩ thà chịu chết, không chịu nhục" đó là khí tiết cao thượng của các bậc cổ nhân, "Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành" đó là cổ nhân xưa đã biết dùng sinh mệnh của mình để chứng minh khí tiết, sự trong sáng của mình. Đặng Thác lúc này đã ở vào điểm nút của sự nghiêm trọng, ông cho rằng chỉ còn thông qua cái chết mới bảo vệ nhân cách cao sang của mình, để chứng minh sự trong sáng và vô tội của mình. Đêm khuya ngày 17 tháng 5 Đặng Thác giống như ngày xưa, ngồi xuống bàn viết thư để lại, sau đó ôm hận kết thúc đời mình?
Tháng 3 năm 1966 Ngô Hàm do Bành Chân, Vạn Lý sắp xếp xuống tham gia công tác "Tứ thanh" ở vùng nông thôn. Ý của lãnh đạo Thành uỷ muốn cho Ngô Hàm thay đổi không khí và bảo vệ ông nên cử đặc phái viên Quách Tinh Hoa cùng Ngô Hàm về nông thôn. Khi họ đến thôn Đại Đông Lưu huyện Xương Bình, ngoại ô thành phố Bắc Kinh, tiếng lên án công khai "Thôn ba nhà" đang rầm rộ, bừng bừng khí thế, trong phạm vi toàn quốc. Khẩu hiệu trên tường đập vào mắt, đài phát thanh thì ầm ầm như mìn nổ, đinh tai nhức óc, đều là bác bỏ phê phán nội dung "Thôn ba nhà".
Ngô Hàm còn có tên gọi Lý Kinh Quang do vậy mà quần chúng ở đây không biét được rằng ông già đó chính là người mà họ đang nghiến răng nghiến lợi đòi từ bỏ. Trong thôn mỗi lần mở cuộc phê phán "Thôn ba nhà", đều mời ông, một trí thức có học thức uyên bác, phong cách mô phạm, gương mẫu đến dự, thế mà trên đài suốt ngày ra sức hô hét đánh đổ "Ngô Hàm", mọi người trong thôn với ánh mắt thiện cảm và nhiệt tình lại giơ hai tay ra đón tiếp ông. Một điều nực cười là vào một năm trong công xã phê đấu một tên lưu manh ăn cắp, lúc đưa ra phê phán có người thao thao bất tuyệt nói thẳng tên lưu manh ăn cắp này đã ảnh hưởng và ăn phải bả của Ngô Hàm rồi? Lúc đó Ngô Hàm như bị hàng ngàn vạn mũi dao đâm thẳng vào tim, sắc mặt hơi khác thường. Ông không thể chịu được việc làm hàm hồ sai lầm, chỉ nai ra ngựa đó được.
Khi Quách Tinh Hoa hỏi ông "Tại sao lúc đó lại viết "Hải Thuỵ bãi quan" họ sẽ treo cổ anh và Bành Đức Hoài lên". Ngô Hàm chẳng biết sao nói: "Giờ tôi nghĩ không ra, Bành Đức Hoài cũng là người rất tốt do vậy lúc đó nói mấy câu tốt cho Bành Đức Hoài, cũng không nên coi là địch". Giờ thì Ngô Hàm đã dần dần hiểu ra: nhất định có kẻ muốn ném họ xuống giếng, nhất định có kẻ muốn coi họ là kẻ địch để đưa đến chỗ chết đây. Sau khi đưa ra thông tri (16-5), Ngô Hàm bỗng nhiên biến mất.
Quách Tinh Hoa quá sợ hãi, vội vàng chạy về Uỷ ban tỉnh Bắc Kinh tìm hỏi xem Ngô Hàm thất lạc ở đâu Nhưng lúc đó toàn thành phố Bắc Kinh nhan nhản báo chữ to, tiếng phê đấu hết lượt này đến lượt khác ngày càng rầm rộ hơn. Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Kinh Bành Chân đang cúi đầu trước đại hội phê đấu của quần chúng, làm sao còn quan tâm đến Ngô Hàm bị lạc. Lúc đó Ngô Hàm đã bị đẩy vào làn sóng phê đấu "Nước sôi lửa bỏng" rồi. Ông bị đẩy lên một chiếc xe Jeep, khiến ông không cười không khóc nổi. Lần thứ nhất phê đấu ông, chính là những người ông đã dạy dỗ họ ở Học viện sư phạm Bắc Kinh. Tháng 7, 8 cái nóng khô ở Bắc Kinh vô cùng khó chịu, nhựa trải đường bị nóng chảy ra thế mà, Hồng vệ binh đã "thông minh tuyệt đỉnh" họ rải 7, 8 hòn đá nhỏ trên mặt đường rồi đưa ông già Ngô Hàm thấp, còng đến quỳ trên những hòn đá phơi nắng nóng bỏng, lại còn dùng roi da nghiêm khắc ra lệnh, bức ông nói ra "hành vi tội ác" Trên đầu nắng chiếu nóng bỏng, phía dưới nhựa đường bị nắng làm chảy ra sôi lên, khiến những hòn đá như đang bị rán trong chảo mỡ, thế mà hễ ông động đậy là sẽ có quả đấm, chân đạp, roi da thô nặng từ trên vụt xuống. Ngô Hàm bị làm nhục lại đầu vỡ máu chảy, đầu gối bật máu, mồ hôi và máu trộn vào với nhau, lát sau ông ngất đi ngã ngay trên nền nhựa đường. Trước cảnh ông già bị hành hạ bi thảm, vậy mà bên cạnh lại có những tiếng cười thích thú và sảng khoái cùng với những lời chửi mắng. Tuy đã nghĩ hết mọi cực hình tra khảo, dày vò Ngô Hàm nhưng Hồng vệ binh chỉ được sự im lặng: chúng không thể đưa lên cho Giang Thanh những tài liệu yêu cầu cấp thiết. Họ nghĩ trăm phương nghìn kế hòng lấy khẩu cung Ngô Hàm, làm thành những viên đạn có hiệu lực để tấn công "Tập đoàn", nhưng không làm gì được do vậy mà lại phải đưa Ngô Hàm về "lớp học tập" của trường Đảng Thành uỷ. Gia đình Ngô Hàm chẳng dính dáng gì cũng bị đưa đến ở nơi công cộng. Tổ chuyên án đã mất bao công sức vẫn không "giúp đỡ" nổi Ngô Hàm giao cho chúng "đạn pháo" mà chúng yêu cầu. Tổ chuyên án tức giận mệt mỏi, trong một đêm tháng 3 năm 1968 Ngô Hàm bị đánh đập thẳng tay mắt bị bịt vải đen và lại bị lôi ra phê đấu, rồi ông bị đưa đến giam ở Tần Thành.
Khi Ngô Hàm gào to: "Vì sao tôi bị đưa đến đây", thì bị một quả đấm cực mạnh từ phía sau khiến ông lao vào phòng giam: "Ở đây không cho phép hỏi điều gì". Tháng 4 năm 1968 Ngô Hàm với vợ là Viên Chấn bị giam ở trong gian nhà xí bỏ hoang.
Con gái 14 tuổi Ngô Tiểu Ngạn và con trai 4 tuổi Ngô Chương ở tại nhà phải dựa vào nhau mà sống trong cảnh côi cút bơ vơ. Viên Chấn là người mắc bệnh nan y đã hơn 30 năm, bị giam giữ không lâu nên hai chân bị liệt. Con gái đã mua quyển sách châm cứu về cho Viên Chấn xem và để bà tự châm lên chân mình, Ngô Tiểu Ngạn phải mỗi ngày đi về 30 dặm đường để chăm sóc mẹ. Thủ tướng Chu sau khi được biết hoàn cảnh khốc liệt của Ngô Hàm và Viên Chấn kiên quyết đòi Giang Thanh phải tha vợ chồng Ngô Hàm để trị bệnh. Nhưng chi có Viên Chấn được đi trị bệnh, Ngô Hàm vẫn ở trong tù.
Hửng sáng ngày 18 tháng 3 năm 1969 Viên Chấn đã ra đi mãi mãi. Ngô Hàm lúc đó bị giày vò đến da bọc xương, hơi thở hổn hển. Bọn tra khảo Hồng vệ binh biết không thể định tội phản nghịch cho Ngô Hàm, táng tận lương tâm buộc Ngô Hàm phải nhận tộỉ là đặc vụ. Ngày 7 tháng 3 năm 1969 Khang Sinh thấy trong tài liệu ở Đại sứ quán Liên Xô có liên quan đến Ngô Hàm hàng chữ "Ngô Hàm là Ngô Tiểu Phủ, sinh 1934 ở liên xã Thượng Hải, là Đảng viên sau đó không biết đi đâu do vậy nghi Ngô Hàm là tội phạm". Tài liệu chú thích là của một người nào đó ở Hồ Bắc. Nhưng tài liệu điều tra cho thấy Ngô Tiểu Phủ là người vẫn đang sống, trước đây không phải là phạm tội cũng không là đặc vụ, Khang Sinh từ Đại sứ quán Liên Xô chuyển về Trung Quốc mẩu tin: Trong chiến tranh giải phóng nhân viên đã từng công tác giúp đỡ chúng tôi trong đó thấy họ tên Ngô Hàm, cho rằng Ngô Hàm là "Đặc vụ chủ nghĩa xét lại Nga" Ngô Hàm bị dày vò không nghỉ, ông chẳng những nôn ra máu mà cứ mở miệng máu ộc ra, ngày qua ngày những vết máu trên tường đã đen lại. Bọn tra khảo thấy tình hình không ổn sợ Ngô Hàm chết nên vội vàng đưa ông đi viện cấp cứu. Ngày 10 tháng 10 năm 1969 Ngô Hàm đã bị bọn không còn tính người dày vò đã vĩnh biệt nhân thế.
"Một nhà" còn lại của "Thôn ba nhà" là Liêu Muội Sa nhớ lại chuyện hồi đó: Đại để là tháng 9 năm 196l nhân viên công tác ban biên tập "Tiền tuyến" đến báo cho tôi, trưa ngày thứ 2 "Tiền tuyến" mời tôi đến nhà hàng Tứ Xuyên ăn cơm.
Lúc đó tôi không hòi anh ấy vì sao mời tôi đi ăn cơm. Nhưng tôi biết bởi tôi là một trong các uỷ viên ban biên tập, hơn nữa trước đây đã viết cho "Tiền tuyến" mấy bài rồi, ban biên tập "Tiền tuyến" muốn mời người viết là tôi đi ăn cơm, chẳng phải là chuyện hiếm có. Mấy năm trước tôi cũng đã bị lôi đi ăn cơm với tạp chí và hội trà ban biên tập "
Nhân dân Nhật báo". Những năm 30 ở Thượng Hải, những năm 40 ở Quế Lâm, Trùng Khánh, Hương Cảng, phàm là những nhà xuất bản báo chí mà tôi đã tham gia viết bài đều như vậy cả. Thấy người ngồi không nhiều, có Đặng Thác, Ngô Hàm, ngoài hai người còn có Tiêu Viễn Liệt, Lý Quân của ban biên tập "Tiền tuyến", khi bữa ăn chưa bắt đầu, mọi người ngồi trên salon uống trà hút thuốc, Đặng Thác rất tự nhiên nói luôn: "Tiền tuyến" cũng nghĩ phỏng theo giống "Mã Thiết Đinh" "Tư Mã Ngưu" của báo "
Nhân dân Nhật báo" và các báo chí khác, muốn mấy người mỗi người viết một chuyên mục. Hôm nay mời Ngô Liêu và hai đồng chí tới bàn bạc một chút. Nghe nói "Mã Thiết Đinh" là tên ba người, họ cùng dùng bút danh, chúng ta cũng làm như vậy, ba người tìm một bút danh chung, đây có ba người nên gọi "Thôn ba nhà" có được không? Theo như mọi người vừa nói ba người cùng chung bút danh giờ ta tìm xem. Đặng Thác đưa ra ý mỗi người đưa ra một chữ. Ngô Hàm đưa họ của ông: "Ngô", Đặng Thác đưa nguyên bút danh của anh ta chữ Nam trong Mã Nam thôn, còn tôi nguyên tên Liêu Muội Sa lấy chữ Sa, hợp ba chữ là "Ngô Nam Sa". Lúc đó tôi cảm thấy Đặng lấy chữ Nam trong bút danh, tôi cũng có thể lấy một chữ trong bút danh cho nên tôi vội thêm lời: Tôi vốn không dùng tên riêng viết bài nên tôi không dùng từ Sa, dùng bút danh gần đây nhất của tôi là "Phổn tinh" tôi lấy chữ "Tinh". Đặng, Ngô, hai đồng chí đều tỏ ra đồng ý, sau đó quyết định tên gọi "Ngô Nam Tinh" chuyên mục và tên gọi được Đặng Thác đưa ra chúng tôi bắt đầu "lễ ký… thôn ba nhà".
Liêu Muội Sa xem như may mắn, anh còn sống để được nhìn thấy phế loạn phản chính "Thôn ba nhà" chìm trong oan nghiệt nay được sửa sai.
Đặng Thác, Ngô Hàm nơi chín suối có hay, chắc cũng đang được chút ít thư thái.