eter càng đi càng cảm thấy con đường mòn dài vô tận. Đôi khi anh có cảm giác họ đã dong ruổi trên con đường này từ ngày sinh ra Trái Đất. Lúc này họ đi trên nền đất mềm hơn. Đôi chỗ có ít bùn, còn bước chân họ cảm thấy nặng hơn. Sau đó lại tiếp tục đi trên nền đá. Tia sáng mảnh mai của chiếc đèn Pin nguyên tử rọi đường cho họ đi. Còn bên cạnh, trên đầu và dưới chân hai người là khoảng tối âm u không gì xuyên qua được. Lúc này Peter đã nghĩ rằng các tốt nhất để tranh thủ sự giúp đỡ không gì bằng tìm đến ORO, anh bạn thân mến của ON. Anh không tự cho phép mình ảo tưởng gì nữa. Đối với quyền lực âm thầm và đầy bí ẩn của Trung Tâm thì điều tốt hơn hết là nên ẩn mỉnh, ẩn nấp nếu có thể được. Ai mà biết được chuyện anh rơi xuống đây có phải là sự tình cờ hay không? Có phải một người nào đó đã cố tình lôi anh xuống đây? Có phải người ta vẫn quan sát và theo dõi anh từng giờ từng phút? Những lời kêu gọi trên điện đài của anh không nhận được lời đáp. Nhưng chúng có bị ghi lại ở đâu không? Còn July yêu dấu của ta? Bây giờ nàng ở đâu? Riêng ý nghĩ rằng điều bất hạnh cũng có thể xảy đến với July đã làm cho anh gần điên đầu lên rồi. Có lẽ những người có trí nhớ biết ít nhiều điều này. Có lẽ ở thành phố này anh sẽ được biết thêm điều gì … Peter và ON tiếp tục đi theo con đường mòn vắng vẻ. Đôi khi anh có cảm giác bị người theo dõi. Khi đó anh dùng đèn Pin nguyên tử soi khắp xung quanh. Nhưng khắp nơi không hề thấy một bóng người, chỉ có bóng tối, bóng tối nặng nề và dày đặc. Hai người tiếp tục đi, đi mãi, không dám dừng chân, ai cũng im lặng. Bản thân ON cũng bị nhiều ý nghĩ lo lắng dầy vò. Không biết bản đồ ta vẽ có đúng không? Không rõ hai người đã đi đúng đường chưa? Liệu ta có tới đích không? Khi nào mới tới được? Và cuối cùng là cái gì sẽ chờ đợi ta? Nghĩ có kỹ dẫu sau họ cũng thấy có niềm vui và tự tin. ON chứa chan hy vọng gặp lại vợ và ON con. Còn Peter thì cũng nuôi hy vọng mong manh hơn là biết đâu July chẳng đã có mặt ở Thành phố của những người có trí nhớ. Hoặc có thể ORO biết được tin tức về nàng. Còn nếu không thì sao? Cái gì sẽ xảy ra? Lúc đó anh phải đi tới đâu? Làm gì? Chiếc mày sản xuất Oxy bỏ túi của Peter tiếp tục sinh ra lượng Oxy nuôi sống hai người. Từng lúc một, Peter lại nạp đầy bình chứa Oxy cho ON. Không nhớ là bao nhiêu lần. Thay cho các bữa cơm, họ nuốt những viên dinh dưỡng. Đột nhiên Peter lo lắng: Không biết những máy móc tinh vi này của mình còn sử dụng được đến bao giờ? Tuổi thọ của nó cũng có giới hạn chứ! Nó đã được sản xuất cho những chuyến du lịc ngắn nên giống đồ chơi hơn là các thiết bị nghiêm túc. Tới một lúc, ON đang đi phía trước, đột nhiên dừng lại nói: - Bây giờ tôi nhớ rồi. Nhớ rất chính xác. Chúng ta sắp tới thành phố rồi anh ạ! Lúc này anh lại bị kích động mạnh, không thua gì lần anh biết nội dung của cuốn vở bí mật. - Theo bản đồ thì chúng ta đã tới đây, ở cuối con đường mòn và tôi có thể nhớ lại vị trí của hang động. Giây lát nữa chúng ta sẽ tới đó … Nhưng đoạn đường cuối cùng là đoạn đường khó đi nhất. Anh cần hết sức chú ý … Trong các chuyện cổ tích người ta thường nói đến những ngọn núi dốc đứng, bằng pha lê với thành núi trơn tuột, mà chỉ có các loại rồng bay kỳ lân mới có thể bay qua được. - Bây giờ tôi nhớ ra rồi … Thành phố của những người có trí nhớ, được bao quanh bởi một con hào tối. Và ven chỗ có hang động có rất nhiều bụi cây. Còn phía bên kia bắt đầu có các ngôi nhà. Nhưng tôi không biết sẽ vượt qua hào đó bằng cách nào. Có lẽ là nên dừng lại nghỉ một lát … - Hào này ta nhất định vượt qua được. Trong những trang bị tôi đem theo có loại thang Mặt Trăng. Họ dừng lại dưới chân một bức tường đá dốc đứng. Đó là phần thạch nguội hóa đá, hậu quả một vụ nổ khổng lồ dưới đất. Peter mở túi dụng cụ lấy ra hai chiếc thang. Loại thang này như những cuộn chỉ lớn hay cuộn ống cứu hỏa cuốn thành vòng lớn. Khi sử dụng ta không phải làm gì khác hơn là trải cuộn đó ra, cho lăn trước mặt mình. Chiếc thang dây dính vào vách đá và tự nỏ ra thành từ đốt khi tiếp xúc với một vật rắn. Hai người có thể đặt mũi giầy lên các nấc, dựa đầu gối vào đó và lần lần leo lên. Mỗi cuộn thang dây dài tới vài dặm. Và mỗi nhà du hành vũ trụ mang theo trong túi hành lý của mình thàng tá loại thang Mặt Trăng như vậy. Khi người ta đụng phải bất kỳ một thiên thể nào hoặc rớt xuống một cái hào hay gặp một bức tường đá cao nào đều có thể vượt lên được. Hồi thế kỷ thứ 21 loại thang này đã được sử dụng lần đầu tiên trên Mặt Trăng nên đã được đặt tên như vậy. Việc leo trèo tuy vậy không phải là quá dễ. Nhưng loại thang này tỏ ra rất chắc chắn. Họ leo từng đốt một, từng thước một và dần dà đã gần tới đỉnh. Chỉ lăn thêm vài vòng nữa là chiếc thang của Peter đã bám được vào một cành cây phía trên đỉnh đá. Chỉ một bước cuối, Peter đã nắm được một cành cây. Cành đó trơn như bằng chất dẻo. Thực ra đó không phải là một cây sống. ON cũng đã tới một bụi cây. Họ tắt chiếc đèn Pin nguyên tử. Dừng lại vài phút xả hơi và nạp đầy bình chứa Oxy. Họ cố gắng phán đoán xem cái gì đang đợi họ ở đây. ON nhớ ra rằng đây là ngoại vi ngoài cùng của thành phố và nói chung không có người dân nào đi chơi ra tới đây. Cũng như ở Thành phố bêtông mà họ vừa rời khỏi, lối vào của mọi nhà đều quay vào phía trung tâm thành phố. Vì vậy mọi người dân không ai đi về phía này. Họ ra làm gì vì ở đây là chấm dứt của thế giới và bắt đầu cõi hư không. Đó là phần không sống của hành tinh. Dù cho có muốn đi chơi cũng không đủ lượng Oxy dự trữ… Nói chung thế giới của hành tinh Oxy nơi nào cũng như nhau kể cả các nhà và thành phố của các nhà bác học. Ai cũng chẳng nghĩ tới việc đi đâu làm gì. Đồng thời, chính ON cũng không biết xung quanh có thiết bị kiểm tra, hoặc cái gì đó chộp bắt họ. Điều có thể xảy ra nữa là họ vừa vượt qua một đoạn đường rất gian nan. Nhưng đột nhiên họ có thể rơi xuống một cái giếng và lập tức họ được đưa trở lại Thành phố bêtông, Thành phố của những sinh vật có đeo ống hô hấp. Khi họ tự vạch một con đường qua đám cành và lá bằng chất dẻo thì một tiếng lao xao nổi lên. Toàn bọ đám bụi cay này đen kịt khi còn xa. Nhưng lúc đến gần thì chúng trở nên màu xanh sẫm. Lúc này Peter nhận thấy rằng ở Thành phố của những người có trí nhớ này có nhiều màu sắc như ON đã nói trước. Họ đi xuyên như thế được vài trăm thước thì đám bụi cây chấm dứt đột ngột. Họ đã đến bên ria một cánh đồng rộng. Nền đất ở đây không phải bằng bêtông nhưng được phủ một lớp nệm dày bằng chất dẻo màu xanh lục. Phía bên kia bãi cỏ, họ thấy những ngôi nhà đầu tiên, xung quanh có vườn nhân tạo với những cành cây và hoa lá nhân tạo. - Chúng ta tới rồi! – ON reo lên – Chúng ta đã tìm thấy nó rồi. Tôi nhận ra được mọi thứ ở đây rồi. Phía trên các ngôi nhà, bầu trời màu xám xanh. Nhưng dẫu sao, nó cũng tươi sáng hơn là ở Thành phố bêtông. Ở đây các ngôi nhà không giống hệt nhau như ở dưới kia. Nó khác nhau về vật liệu xây dựng và cả màu sắc nữa. Trước các ngôi nhà, Peter thấy có những người đi lại một cách trầm lặng như những người ở dưới kia. Họ cũng đeo mặt nạ hô hấp nhưng kiểu nhẹ hơn và tiện nghi hơn nhiều. Peter lấy máy phân tích không khí: Nitơ, Anhydric Sulfureux, khí Cacbonic và … - Này ON xem này, không khí ở đây đã có được 5% Oxy. ON gật đầu: - Phải, chính nhờ điều này mà khi ở trong các phòng làm việc đóng kín, các ngôi nhà và các câu lạc bộ, chúng tôi có thể sinh hoạt mà không cần đến máy hô hấp. Tất nhiên là có những máy lọc và những bộ điều hòa không khí thích hợp. Hai người đi qua bụi cỏ tới đường phố đầu tiên. Không ai để ý đến họ. Không ai quay lại khi họ đi qua và cũng chẳng ai nói gì với họ. Kể cả bộ quần áo lao động của ON với chiếc bình chứa Oxy căng phồng trên lưng cũng chẳng làm ai chú ý. ON nắm lấy tay Peter: - Tôi thật không biết nói làm sao để cám ơn. Nếu có một mình chắc chắn tôi không bao giờ tới đây được. Chúng ta hãy tới nhà ORO. - Còn xa lắm không? - Không xa lắm. ON vội vàng rảo bước: - Thật là kỳ lạ anh ạ. Nếu như mình nghĩ lại thật kỹ. Chúng tôi đã ở khá lâu ngay cạnh nhà ORO. Nhưng chúng tôi không hề biết rõ anh ta làm công việc gì. Tôi nhớ, mỗi người chúng tôi ở thành phố này đều có một nhiệm vụ riêng. Ngay tại chỗ làm việc mỗi người cũng có một phòng riêng. Mỗi người nhận được một nhiệm vụ từng phần và không được phép trao đổi hoặc thông báo công việc của mình cho nhau. Và bây giờ, khi nghĩ lại, tôi mới thấy được một điều thật hiếm có. Điều mà trước đây tôi chưa hề phát hiện ra: Hằng ngày, khi làm xong việc, chúng tôi bước lên tấm thảm lăn để đi về nhà hoặc đi đến câu lạc bộ nhưng không khi nào gặp gỡ những người có chùng nghề. Nhà ở của chúng tôi cũng được bố trí sao cho cạnh nhà một người thầy thuốc là nhà một người hóa học, cạnh đó có lẽ là một người thiết kế truyền hình hoặc một nhà vật lý. Như vậy, nếu hàng xóm láng giềng có gặp gỡ ngồi lại với nhau thì không tài nào nói chuyện về công việc được. Đồng thời chúng tôi cũng không hiểu biết gì nghề nghiệp của người khác. Và lúc đầu, điều này cũng không làm chúng tôi quan tâm. Tôi đã từng kể cho anh là chúng tôi cũng đánh bài hoặc nghe nhạc. ORO91 là một nhà phẫu thuật rất giỏi. Anh sống ngay kế bên nhà tôi. Nói cho đúng thì chính anh ấy là người có nhiều cố gắng để kết chặt tình bạn với chúng tôi. Anh ấy đã kể về mình cho tôi nghe và tâm sự với tôi rằng anh có nhiều ý nghĩ riêng tư. Trong những người mà tôi gặp từ trước đến nay thì ORO là con người tuyệt diệu nhất. Chính anh ấy đã giải thích cho chúng tôi biết về sự biến đổi đặc biệt trong cơ thể vợ tôi và đã đỡ cho ON con ra đời trong một cái động. Trong khi họ hoàn toàn tỉnh táo và căng thẳng đi dọc theo con đường, họ bàn bạc với nhau về những điều ORO có thể biết, những điều có thể nói và khuyên nhủ họ, thì Peter không thể không nhận ra rằng, mọi thứ ở dây đều khác hẳn ở Thành phố bêtông và sự khác biệt đập ngay vào mắt. Ở đây, các ngôi nhà đều có cửa sổ tuy bị đóng kín cả. Không biết những cửa sổ này có chấn song hay không? Hay là người ta chỉ có thể nhìn qua mà không mở được. Ở đây anh có thể dễ dàng phân biệt các nhà ở với các ngôi nhà khác. Những nhà ở được xây dọc theo các quảng trường với những bãi cỏ nhân tạo. Trên các bãi cỏ nhân tạo rực rỡ những bông hoa nhân tạo màu đỏ, vàng và xanh. Những ngôi nhà lớn hơn là cửa hàng tổng hợp với những tủ kính chưng bày hàng rất đồ sộ. Trong đó có khá nhiều mặt hàng: quần áo nhiều màu, đồ gỗ, đồ dùng nội trợ, dụng cụ gia đình, kể cả văn phòng phẩm và đặc biệt là nhiều trò chơi xã hội. Trong đó có một bàn đánh bạc kiểu quay số, bộ bài cào có ba chục lá. Ở các Thành phố của những người mang vòi khắp nơi người ta ăn uống trong những nhà ăn màu xám giống hệt nhau. Ở đây cũng có những nhà ăn nhưng được trang trí bằng những tấm kính thật lớn. Tôi thấy mọi người ngồi ở các bàn nhiều màu ăn uống mà không phải đeo vòi hô hấp. Lại còn có cả những của hàng bán thực phẩm. Phần nhiều họ trưng bày đồ ngọt và khá nhiều thức uống. - Chúng ta đến rồi! – ON vui vẻ kêu lên. Anh ta vừa dừng lại trước một ngôi nhà quét vôi xanh khả ái. Khi anh bấm chuông, một cánh cửa mở ra. Hai người bước vào. Cánh cửa đóng lại sau lưng họ. Phía trong một cánh cửa khác mở ra. Qua những ngăn như thế, hai người vào hẳn trong nhà. Vách ngăn này đương nhiên là cần thiết để khí Oxy trong nội thất khỏi thoát ra ngoài. Sau khi qua năm sáu khoang như thế, họ vào tới một phòng khá rộng. Ở đây có một cầu thang đi lên các phòng trên lầu. ON dùng lại ở giữa sảnh và lên tiếng gọi: - ORO, cậu có nhà không đấy? - Có, bạn chờ tôi một lát – Lời đáp vọng ra từ trên lầu. Phía trên cầu thang hiện ra một người cao lớn có bộ mặt thông minh. Peter đã hơi quen cách nhận xét bộ mặt của người dân hành tinh này. Nên anh thấy đó là một người đàn ông chừng 34, 35 tuổi, chạc tuổi với ON. Người đàn ông đứng dừng lại trên cầu thang, ngỡ ngàng nhìn hai người mới đến. - ORO, bạn thân mến! Cậu không nhận ra mìnhh à? Mình là ON, ON 711314, bạn thân nhất của cậu đây mà. Lời đáp: - Thưa, xin lỗi, tôi không có hân hạnh được quen biết ông – Anh nhìn thẳng vào ON với cái nhìn trống rỗng – Tôi chắc chắc chưa bao biờ gặp ông cả. - Tôi xin cậu … cậu đừng làm cho tôi mất trí. Cậu có thể nói cho mình biết, vợ mình và thằng ON con hiện nay ra sao và mình tìm họ ở đâu bây giờ? - Xin lỗi, tôi nghe rõ lời ông nhưng không hiểu là ông định nói gì. Tôi trông thấy ông lần này là lần đầu tiên. - Thế này thì quá tệ - ON gào lên và bắt đầu nức nở.