Chương 2
Sân Bay Ben Guiron, Israel

    
abriel hỏi. “Cậu đang làm gì ở đây vậy, Uzi? Bây giờ cậu là sếp rồi. Sếp thì không đi ra sân bay lúc nửa đêm đâu. Sếp giao việc đó cho mấy “lính” chuyên chạy là được rồi”.
“Tớ chẳng có việc gì tốt hơn để làm”.
“Không có việc gì tốt hơn là đi lòng vòng quanh sân bay và đợi tớ ra khỏi máy bay từ Rome tới à? Có chuyện gì vậy? Cậu không cần phải đi đón tớ mà?”.
Uzi Navot không trả lời. Anh đang nhìn xuyên qua cửa kính của phòng tiếp khách vip ở sảnh khách đến, nơi đó, những hành khách trên chuyến bay từ Rome đến đang xếp hàng ở quầy kiểm tra hộ chiếu. Gabriel nhìn quanh. Cũng những bức tường giả đá vôi, cũng những ghế tràng kỷ phông cũ kỹ, cũng cái mùi ngai ngái của đàn ông và cà phê cháy khét. Anh đã thường xuyên bước vào căn phòng này, hay những căn phòng tương tự trong hơn 30 năm qua. Anh đã bước vào trong hân hoan chiến thắng cũng như lê bước trong thất bại ê chề. Anh đã mở tiệc ăn mừng ở đây và được Thủ tướng biểu dương, và có lần anh cũng được đẩy vào bằng xe lăn với một vết thương trên ngực. Thế nhưng căn phòng này không bao giờ thay đổi.
“Bella cần một buổi tối riêng tư cho cô ấy”, Navot nói, khi vẫn nhìn vào khung kính. Anh nhìn Gabriel.”Tuần trước cô ấy thú nhận là sẽ thú vị hơn nếu như tớ ra ngoài làm nhiệm vụ. Trước đây chúng tớ gặp nhau mỗi tháng một lần, nếu may mắn. Còn giờ …”. Anh cau mày. “Tớ nghĩ Bella đang bắt đầu có cảm giác tiếc nuối những giây phút nhớ nhung vì phải xa nhau. Ngoài ra, tớ cũng thèm cảm giác của những lần la cà khắp các sảnh của sân bay. Theo tính toán của tớ, tớ đã dành ra hai phần ba sự nghiệp để đợi chờ ở các nhà ga, sân bay, trạm xe lửa, nhà hàng và phòng khách sạn. Những nơi đó hứa hẹn sự lý thú và sôi động, nhưng sự thực, hầu như nó chỉ mang lại nỗi chán chường thê lương với những thoáng sợ hãi vô lý”.
“Tớ thích sự chán ngắt hơn là sự náo động, bạo loạn. Sống ở một nước chán ngắt không tốt hơn hay sao?”.
“Thế thì chẳng phải là Israel rồi”.
Navot đỡ túi quần áo da cho Gabriel rồi dẫn anh vào hành lang với những chiếc đèn nê-ông sáng chói. Họ cao ngang nhau và bước đi với dáng điệu khá giống nhau. Trong khi Gabriel góc cạnh và ốm yếu, Navot lại to béo và mạnh mẽ với cái đầu tròn trĩnh như ụ pháo đặt lên trên bờ vai của lực sĩ và một cái hông mập mạp thể hiện việc ăn uống vô độ. Trong nhiều năm trời, Navot đã lang bạt khắp Tây Âu trong vai trò của một nhân viên tình báo. Hiện anh làm chỉ huy Chiến dịch Đặc biệt. Theo lời của Giám đốc tình báo Israel – Ari Shamron, Chiến dịch Đặc biệt chính là “phần bí mật nhất của một cơ quan bí mật”. Họ làm những việc không ai muốn làm hoặc dám làm. Họ là những sát thủ, kẻ bắt cóc, tin tặc và tống tiền. Đó là những người trí thức có thành tích phạm tội còn hơn cả tội phạm. Đó là những người biết nhiều thứ tiếng và luôn phải biến hoá. Đó cũng là những người phải coi khách sạn sang trọng nhất Châu Âu hay khu phố tồi tàn nhất ở Berut và Bátđa là nhà. Navot mới vào nghề và anh được thăng chức vì Gabriel đã từ chối. Giữa họ không có hiềm khích mâu thuẫn. Navot là người đầu tiên thừa nhận mình chỉ là lính hoạt động bên ngoài, còn Gabriel Allon mới là một huyền thoại.
Hành lang dẫn tới một cánh cửa an ninh, nó tiếp tục dẫn đến một khu vực giới hạn sát vòng xoay giao thông chính bên ngoài nhà ga sân bay. Một chiếc Sedan Renault mới tinh đang chờ sẵn trong khu vực đỗ xe riêng. Navot mở cốp xe rồi đẩy túi xách của Gabriel vào trong. Anh nói. “Mình đã cho tài xế nghỉ đêm nay. Mình muốn có giây phút riêng tư, cậu biết là dân tài xế là thế nào rồi đấy. Bọn họ chỉ ngồi lê đôi mách sau tay lái suốt ngày và không biết làm gì ngoài chuyện phiếm. Bọn họ còn tệ hơn cái máy may”.
Gabriel ngồi vào ghế dành cho hành khách rồi đóng cửa xe. Anh nhìn vào ghế sau, nó đầy sách và hồ sơ của Bella. Bella là một chuyên gia về Xyri và từng lăn lộn qua nhiều cơ quan chính phủ. Cô thậm chí còn thông minh hơn cả Navot, và đây chính là nguồn gốc của khá nhiều căng thẳng trong quan hệ lâu dài và hay biến động của họ.
Navot khởi động xe của Bella bằng một cú xoay chìa khoá thật mạnh, anh đạp ga cho xe băng ra cổng sân bay.
“Thế bức tranh ra sao rồi?”, anh hỏi.
“Cũng hay đấy, Uzi”.
“Đó là bức của Botticelli phải không?”
Gabriel chỉnh. “Của Bellini. Bức Khóc than Chúa qua đời”.
Gabriel định nói thêm siêu phẩm này đã hình thành nên thần thái của bức vẽ sau bàn thờ ở giáo đường San Francesco ở Pesaro, nhưng anh lại thôi. Việc là một trong những người phục chế nghệ thuật giỏi nhất thế giới đã biến Gabriel thành mục tiêu cho sự ganh tỵ giữa các đồng nghiệp trong nghề. Anh hiếm khi bàn công việc với họ, ngay cả với Navot, người đã trở thành bạn thân của mình.
“Botticelli, Bellini, tên nào đối với mình cũng vậy”, Navot lắc đầu. Tưởng tượng xem, một anh chàng Do Thái đẹp trai như cậu phục chế một kiệt tác của Bellini cho Giáo hoàng. Hy vọng là ông ta trả cho cậu khá”.
“Ông ấy trả theo mức chung thôi, cộng thêm một chút”.
“Cũng công bằng thôi. Rốt cuộc thì cậu đã cứu rỗi cuộc đời của ông ta”.
“Cậu cũng tham gia vào việc này mà Uzi”.
“Nhưng tớ không phải là người có được bức tranh của ông ấy, dù tớ đang thực hiện việc đó”.
Họ lái xe đến cuối con dốc. Trên đầu là một biển báo giao thông màu xanh trắng. Bên trái là Tel Aviv, còn bên phải là Jerusalem. Navot rẽ sang phải rồi hướng về phía đồi Judean.
Gabriel hỏi:”Tình hình ở Đại lộ King Saul thế nào?”
Đại lộ King Saul là địa chỉ lâu đời của cơ quan tình báo hải ngoại của Israel. Cơ quan này có một cái tên dài ngoằng ít liên quan gì đến bản chất công việc của nó. Những người như Gabriel và Navot chỉ đơn giản gọi đó là “Văn phòng”.
“Hãy xem việc được đi xa là may mắn”.
“Tệ thế sao?”.
“Cuộc phiêu lưu của chúng ta đến Libăng là một tai hoạ rành rành. Không có cơ quan nào của chúng ta không bị ảnh hưởng uy tín, trong đó có Văn phòng. Cậu biết mọi thứ hoạt động thế nào mà. Khi phạm những lỗi lầm lớn đến thế, phải động não, càng nhiều càng tốt. Không ai an toàn, đặc biệt là Amos. Uỷ ban Thẩm vấn muốn biết tại sao Văn phòng không nhận ra Hezbollah được vũ trang tốt đến như thế và lý do tại sao mạng lưới rộng lớn những cộng tác viên được trả lương hậu hĩnh có vẻ như không thể nhận thấy giới lãnh đạo của Hezbollah bắt đầu gây hắn”.
“Điều cuối cùng Văn phòng cần thực hiện nay là một cuộc tranh giành quyền lực mới và một cuộc chiến tìm người kế tục không đúng lúc, khi mà Hezbollah đang dự tính một chiến tranh khác. Không đúng lúc khi Iran đang trên bờ vực vũ khí hạt nhân. Và càng không đúng lúc, khi có những lãnh thổ sắp bùng nổ”.
“Shamron và những người khôn khéo nhất còn lại đưa ra quyết định là Amos phải chết. vấn đề duy nhất là hành quyết hay Amos được phép tự xử sau một thời gian nghỉ ngơi?”.
“Làm sao cậu biết Shamron đứng ra sắp xếp những chuyện này?”.
Navot, với vẻ lạnh lùng sắc sảo, nói rõ nguồn tin của anh chính là Shamron. Đã nhiều năm qua kể từ khi Shamron thực hiện chuyến thị sát cuối cùng với cương vị là sếp, Văn phòng vẫn là sắc phong riêng cho ông. Văn phòng có nhiều người như Gabriel và Navot, những người được Shamron tuyển dụng và đào tạo, những người hoạt động theo một tín ngưỡng, thậm chí nói một ngôn ngữ do ông viết ra. Shamron được mọi người ở Israel biết với cái tên Memuneh, người mang trọng trách, và vẫn thế cho đến ngày ông quyết định đất nước này đã đủ an toàn để cho ông ra đi.
“Uzi, cậu đang chơi một trò chơi nguy hiểm. Shamron vẫn đang có ảnh hưởng. Vụ đánh bom nhằm vào chiếc xe ông ta đã cướp đi của ông ấy rất nhiều. Ông ấy không còn là người như trước. Không có gì bảo đảm ông ấy sẽ vượt lên trong cuộc chạy đua với Amos, và tớ không cần nhắc cậu, cậu cũng biết cánh cửa đến Đại lộ King Saul cho những người như cậu chỉ ra con đường một chiều. Nếu cậu và Shamron thất bại, cậu sẽ ra đứng đường, giống như những điều tra viên đã thất nghiệp của Văn phòng”.
Navot gật đầu đồng ý. “Và sẽ không có một Giáo hoàng để ném cho tớ một chút công việc vụn vặt nào đó”.
Xe bắt đầu đến Bab Al Wad, một hẻm núi giống hình bậc thang dẫn từ khu đồng bằng ven biển đến Jerusalem. Gabriel cảm giác tai mình bị ù do thay đổi độ cao.
“Thế Shamron có ý tưởng về người kế nhiệm không?”.
“Ông ấy muốn một người không phải là lính quản lý Văn phòng”.
Đó là một trong nhiều điều dị thường về Văn phòng, và điều đó ít có ý nghĩa đối với người ngoài. Shamron là người cuối cùng leo lên đến đỉnh từ hàng ngũ những người thực hiện chiến dịch và kể từ đó, ông ấy lúc nào cũng kiểm soát được mọi thành viên.
“Nên đó là lý do rại sao cậu đang âm mưu với Shamron? Cậu đang nhắm vào vị trí của Amos phải không? Cậu và Shamron đang lợi dụng sự sụp đổ ở Libăng để làm nơi tổ chức binh biến. Cậu sẽ nắm hoàng cung và Shamron sẽ ngồi giật dây từ toà biệt thự của mình ở Tiberias”.
“Tớ cứ hy vọng cậu nghĩ Shamron sẽ tin tưởng giao cho tớ chìa khoá vào Văn phòng yêu quý của ông ấy, nhưng tớ không phải thế. Memuneh còn có người khác trong đầu”.
Gabriel lắc đầu nhè nhẹ. “Tớ sao? Tớ là kẻ ám sát, Uzi. Người ta sẽ không đưa kẻ ám sát lên làm sếp”.
“Cậu còn hơn một chuyên viên ám sát”.
Gabriel lặng thinh nhìn ra cửa sổ, nơi những ngọn đèn đường vàng vọt của một khu định cư Do Thái lần lượt trải dọc theo sườn đồi xuống vùng bằng phẳng của Bờ Tây. Ở phía xa là trăng lưỡi liềm treo trên bầu trời Ramallah. Anh hỏi. “Điều gì làm cho Shamron nghĩ tớ muốn làm sếp? Tớ đã lẩn tránh khi ông ấy muốn đưa tớ lên làm sếp của Chiến dịch Đặc biệt mà”.
“Thế cậu định nhắc tớ một cách không tế nhị rằng tớ được giữ vị trí đó chỉ vì cậu không muốn chứ?”.
“Uzi, tớ muốn nói rằng tớ không thích hợp ở Tổng hành dinh và chắc chắn cũng không muốn dành những tháng ngày của đời mình cho các buổi họp hành liên miên của ban An ninh trong văn phòng Thủ tướng. Tớ không muốn tỏ ra tốt đối với người khác và cũng không muốn làm hậu thuẫn trong âm mưu nhỏ nhoi của cậu là chống lại Amos”.
“Thế cậu định làm gì nào? Cứ ngồi đó đợi Giáo hoàng giao thêm việc sao?”.
“ Cậu đang bắt đầu nói giống Shamron rồi đấy”.
Navot không để ý đến nhận xét đó. “Cứ ngồi yên trong khi tên lửa dội xuống Haifa như mưa, trong khi đám giao sĩ ở Tehran chế tạo bom hạt nhân hay sao? Phải chăng đó là kế hoạch của cậu khi bỏ cuộc giao chiến này lại cho người khác?”. Navot nhìn vào kính chiếu hậu rất lâu. “Vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Tiền đồ Israel đang vỡ vụn dưới sức ép của cuộc chiến không bao giờ kết thúc này. Lớp người đi trước đang dần mất đi, còn người dân không tin thế hệ lãnh đạo mới sẽ gánh nổi trọng trách tương lai. Những người có khả năng đang tìm chỗ lánh nạn cho chính mình. Đó là bản năng của người Do Thái sao? Điều đó nằm trong bộ mã di truyền của chúng ta vì tinh thần Holocaust. Hiện nay người ta có thể nghe được những gì mà cách đây 10 năm họ đã không nghe được. Mọi người đang tự hỏi toàn bộ nỗ lực có phải là một sai lầm hay không. Họ tự lừa dối mình rằng quê hương của người Do Thái không phải ở Palestine mà là ở Mỹ”.
“Mỹ”
Navot dán mắt xuống đường. “Em gái mình sống ở Bethesda, Maryland. Ở đó đẹp lắm. Cậu có thể ăn trưa trong quán cà phê ngoài trời mà không sợ người đi ngang qua bàn cậu ngồi là một tên tử vì đạo sẵn sàng làm cậu nổ tung ra từng mảnh”. Anh liếc nhìn Gabriel. “Có lẽ đó là lý do tại sao cậu thích Italy đến thế. Cậu muốn xây dựng một cuộc sống mới cho chính mình cách xa đất nước Israel. Cậu muốn bỏ lại máu và nước mắt cho những người khác”.
Ánh nhìn u ám của Gabriel cho thấy anh đã đổ máu và nước mắt cho đất nước mình nhiều hơn ai hết. “Mình là một người phục chế chuyên về những bậc thầy cổ đại của Italy. Những bức tranh đó đang nằm ở Italy, không phải ở đây đâu Uzi”.
“Gabriel à, trùng tu nghệ thuật chỉ là công việc tạo vỏ bọc cho cậu thôi. Cậu không phải là nhà phục chế nghệ thuật, mà cậu là kẻ phụng sự thầm lặng của Nhà nước Israel và cậu không có quyền giao việc chiến sự cho người khác. Còn nếu cậu nghĩ cậu đang định tìm một cuộc sống yên ả cho mình ở Châu Âu thì hãy quên chuyện đó đi. Người Châu Âu lên án chúng ta về vụ Libăng, nhưng họ không hiểu Libăng chỉ là dấu hiệu cho những sự kiện sắp xảy ra. Bộ phim này rồi sẽ trình chiếu trong các rạp ở khắp Châu Âu. Đó chính là chiến trường tiếp theo”.
Gabriel suy nghĩ, chiến trường tiếp theo ư? Không, nó đã là chiến trường trong hơn 30 năm qua. Anh nhìn lên chiếc bóng đang đổ xuống của núi Herzl, nơi người vợ trước của anh từng sống trong bệnh viện tâm thần, bị khoá trong một nhà tù ký ức với một cơ thể bị tàn phá do kẻ thù của mình gây ra. Con trai anh ở lại phía bên kia của Jerusalem, dưới nấm mộ anh hùng trên núi Olives. Giữa hai người là thung lũng Hinnom, một lò thiêu cổ mà người Do Thái và Hồi giáo tin rằng là lò thiêu trừng phạt những người ác sau khi chết. Gabriel đã trải qua những ngày huy hoàng ở thung lũng này. Rõ ràng là Uzi Navot muốn anh quay lại.
“Cậu đang nghĩ gì vậy Uzi? Chắc chắn cậu đi chặng đường dài đến sân bay đâu phải để kéo mình tham gia vào kế hoạch chống lại Amos”.
“Mình có vài việc lặt vặt muốn nhờ cậu giúp”. Navot nói.
“Tớ đâu phải thằng lính sai vặt”.
“Không đùa đâu, Gabriel”.
“Không sao. Thế việc lặt vặt đó là gì”
“Amsterdam”
“Tại sao lại là Amsterdam?”.
“Vì chúng ta có một người trong gia đình ở đó đã bị ám sát”
“Ai?”
“Solomon Rosner”
“Rosner ư? Mình đâu biết Rosner là người của ta”.
“ Không phải là của chúng ta. Đó là người của Shamron”.