Chương 20
Căn Cứ Không quân Andrews

    
ai giờ 17 phút chiều thứ bảy.
“Thế sáng kiến kỳ tài này là của ai?”, Sarah Bancroft hỏi. “Của anh hay của Adrian?”.
Gabriel nhìn người phụ nữ ngồi đối diện trong cabin hành khách của chiếc phản lực Gulfstream V của CIA. Cô có mái tóc vàng dài đến vai, da trắng như tuyết, mắt như bầu trời hè không một gợn mây. Cô mặc áo thun vải len ca-sơ-mia, quần jeans bạc màu mảnh khảnh và đôi giày da cân đối, cô hấp dẫn một cách nguy hiểm.
“Thật ra là ý của Adrian”.
“Em không thích lời đề nghị đó”.
“Anh cũng vậy”.
“Thế sao anh đồng ý?”
“Vì đó là một mắt xích từ Hội kín hoặc do chính em. Thực ra anh chọn em”.
“Thật vui khi biết có người cần đến mình”.
“Anh đâu có muốn. Adrian đòi hỏi bọn anh phải đưa một người từ CIA tới và em là sự lựa chọn ít có hại nhất. Xét cho cùng thì anh đã đào tạo em. Em biết nhân viên của anh và biết bên anh hoạt động thế nào. Em biết sự khác biệt giữa sĩ quan bodel và neviot. Em nói ngôn ngữ mà tụi anh sử dụng”, anh cau mày.
“À, gần như thế. Anh cho rằng em không nói tiếng Hebrew chính là lợi thế. Có nghĩa là bọn anh vẫn có thể nói xấu sau lưng em”.
“Em toàn tưởng tượng ra những điều đó”.
Gabriel nói tiếp. “Cứ yên tâm đó toàn là lời khen cả Sarah. Em là người học nhanh nhất chưa từng thấy. Nhưng khi đó bên anh đã biết em sẽ như thế nên chọn em ở vị trí đầu tiên”.
Thật ra chính Adrian Carter là người chọn cô ấy. Anh đã tìm thấy được bức tranh, Carter nói. Tôi sẽ mang đến cho anh cô gái đó. Bức tranh mà Gabriel tìm thấy chính là tác phẩm đã thất lạc của Van Gogh tên là Marguerite Gachet bên bàn trang điểm, nó từng bị biến mất sau cái chết của Vincent, rồi rơi vào bộ sưu tập của một luật sư ở Paris. Carter đã tìm được một kiệt tác đã mất của chính mình, một sử gia nghệ thuật đa ngôn ngữ, một người được giáo dục ở châu Âu, người đang phụ trách bảo tàng Phillíp ở Washington D.C. Gabriel đã lợi dụng cô ấy để xâm nhập vào giới kinh doanh quanh một nhà tài phiệt người Arập tên là Zizi al-Bakari và kể từ đó cuộc sống của cô không còn bình yên như trước nữa.
“Anh biết không, Gabriel, nếu em không lầm thì đó là lời khen đầu tiên anh dành cho em. Trong thời gian chuẩn bị cho chiến dịch al-Bakari, anh không hề nói với em một lời. Anh bỏ em giữa chỗ những người dẫn đường và những thành viên khác trong đội. Sao thế?”. Được đáp lại bằng sự im lặng, cô tự trả lời câu hỏi của mình. “Có lẽ anh phải giữ khoảng cách. Bằng không anh đã không thể đưa em vào trại của Zizi. Ai biết được chứ? Có lẽ anh cũng thích em”.
“Tình cảm của anh dành cho em chỉ thuần tuý là vì nghề nghiệp thôi, Sarah”.
“Em đâu có ý gì khác đâu”. Cô im lặng một lúc. “Anh biết không, sau khi chiến dịch chấm dứt, em nhớ các anh kinh khủng. Các anh là gia đình thực sự đầu tiên em có được”, cô ngập ngừng rồi nói thêm. “Em thậm chí đã nhớ anh, Gabriel”.
“Anh suýt giết chết em đấy”.
“Ồ thế à”, cô nhìn xuống và làm hình một tháp chuông nhà thờ bằng những ngón tay không đeo nhẫn. “Không phải lỗi của anh mà là lỗi của em. Đó là một chiến dịch lớn. Em đã tiết lộ cho anh một chút bí mật. Cơ quan CIA không giỏi bằng Văn phòng của anh. Những chiến dịch của bọn em giống như gạch và vữa. Còn của bọn anh thì giống …”, cô dừng lại để tìm đúng từ, “như nghệ thuật vậy”, cô nói. “Chúng giống như một trong những bức tranh của ông nội anh”.
“Ông nội anh là người theo Chủ nghĩa biểu hiện của Đức”, Gabriel nói. “Một số bức tranh của ông chứa hơi nhiều hỗn loạn và bạo lực”.
“Những chiến dịch của anh cũng thế”.
Sarah dựa người vào ghế, móc một chiếc giày lủng lẳng vào chỗ để tay nơi ghế Gabriel ngồi. Một hình ảnh chợt loé lên trong ký ức của Gabriel. Sarah, mang khăn che mặt màu đen, bị xích vào một chiếc bàn tra tấn trong một ngôi nhà gỗ ở vùng núi Thuỵ Sỹ.
“Anh lại nhìn em kiểu đó nữa rồi”, cô nói.
“Kiểu nào?”.
“Kiểu anh từng nhìn vào bức tranh Van Gogh mà ta bán cho Zizi. Anh từng nhìn em và Marguerite Gachet y hệt vậy. Anh tự hỏi xem bức tranh có thể sửa được không hay là đã hư hại đến mức không sửa chữa được nữa”.
“Thế câu trả lời là gì?”
“Tấm vải của bức tranh không sao, Gabriel. Không cần phải sửa chữa gì. Thực ra, treo nó vẫn là một việc hoàn toàn thích hợp”.
“Không còn ác mộng? Không còn những khoá học với những nhà tâm lý của CIA nữa sao?”
“Em không muốn đi xa đến thế”. Cô nhìn xuống lần nữa, rồi một cái bóng hình như lướt qua mắt cô. “Không ai ở Langley biết liệu Elizabeth Halton có trải qua chuyện này tốt hơn em không. Có lẽ là lí do tại sao Adrian chọn em cho công việc này. Ông ta là cựu sĩ quan hiện trường. Ông ta luôn biết cách tìm ra những phương án hữu hiệu nhất”.
“Anh biết mà”.
Cô ngước nhìn anh khi chiếc Gulfstream hạ cánh xuống đường băng. “Thế ta sẽ đi đâu?”.
“Đầu tiên ta sẽ dừng một thời gian ngắn ở Tel Aviv để họp với đội của anh. Sau đó ta sẽ đi Amsterdam để nói chuyện nhẹ nhàng với một người sẽ giúp ta tìm ra Elizabeth Halton”.
“Người đó em biết không?”.
“Có lẽ là không”.
“Kể cho em nghe về người đó đi”, cô nói.
Gabriel chờ đến khi máy bay lên hẳn mới kể cho cô nghe mọi chuyện.
Vào buổi sáng hôm sau, ngay khi bình minh vừa ló dạng, họ đã đến đại lộ King Saul ở Tel Aviv. Gabriel dừng nhanh tại bàn nghiệp vụ lấy hình ảnh theo dõi đầu tiên của Eli Lavon và xem những báo cáo gửi từ Amsterdam đến, sau đó anh dẫn Sarah đi dọc theo một hành lang ngầm dẫn tới một cánh cửa đánh số 456C. Trong nhiều năm qua, căn phòng này không được sử dụng làm gì ngoài việc chứa máy tính và đồ đạc văn phòng cũ, nơi đây thường được nhân viên ca đêm sử dụng làm chỗ hẹn hò lãng mạn. Giờ nó được mọi người khắp đại lộ King Saul gọi là Hang ổ của Gabriel. Có một tấm bảng bằng giấy dán lên cửa với dòng chữ viết bằng nét chữ Hebrew: UỶ BAN NGHIÊN CỨU SỰ ĐE DOẠ KHỦNG BỐ Ở TÂY ÂU. Tấm bảng đã có tác dụng tốt đối với anh qua hai chiến dịch quyết liệt. Gabriel quyết định tạm thời cứ để vậy. Anh mở khoá số rồi mở đèn bước vào trong. Căn phòng vẫn y nguyên như khi anh đi khỏi cách đây một năm. Một bức tường đầy những hình ảnh, một bức tường có sơ đồ đế chế kinh doanh toàn cầu, bức thứ ba có một bộ sưu tập những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng. Chiếc bảng phấn của Gabriel đứng chơ vơ trong góc, mặt bảng trống không, chỉ duy nhất có một cái tên: SARAH BANCROFT. Cô chậm rãi theo anh vào trong, giống như là bước vào một căn phòng bị bỏ quên từ thời thơ ấu, cô nhìn những bức ảnh: Zizi al-Bakari chụp với cô con gái, Nadia bên cạnh; Abdul và Abdul, những luật sư học ở Mỹ; Herr Wehri, Giám đốc ngân hàng Thuỵ Sỹ, Bin Talal, Trưởng bộ phận an ninh, Jean-Michel, huấn luyện viên người Pháp và người hành hạ Sarah. Tất cả đều phục vụ Zizi. Cô quay người nhìn sang Gabriel.
“Anh lên kế hoạch cho mọi thứ từ đây à?”.
Anh gật đầu chậm rãi. Cô nhìn quanh căn phòng với ánh mắt đầy hoài nghi.
“Vậy mà em đã nghĩ là mọi thứ ở đây, phải hiện đại lắm…”, giọng cô lạc hẳn, rồi nói tiếp. “Và phải ấn tượng hơn rất nhiều”.
“Đây là văn phòng, Sarah, không phải là Langley. Bọn anh thích làm việc theo cách cũ”.
“Dĩ nhiên rồi”, cô nhìn tấm bảng. “Em chưa thấy tấm bảng viết phấn nào kể từ khi kết thúc bậc tiểu học”.
Gabriel mỉm cười, bắt đầu gỡ những tàn dư của chiến dịch al-Bakải khỏi những bức tường trong phòng khi những thành viên khác trong đội đi chầm chậm qua cửa. Không cần giới thiệu, vì Sarah biết hết và quý mến tất cả. Người đến đầu tiên là Yossi, một trí thức cao ráo, hói đầu, từ ban Nghiên cứu của Văn phòng, người đã học những kiến thức cổ điển ở Oxford và vẫn nói tiếng Hebrew với cách nhấn giọng của người Anh. Người kế tiếp là Dina Sarid, một cuốn từ điển bách khoa toàn thư thực thụ về khủng bố đến từ ban Lịch sử, người có thể nhắc lại thời gian, địa điểm và số thương vong của mỗi sự kiện bạo lực chống lại Israel. Mười phút sau có mặt Yaakov, một sĩ quan hiện trường dày dạn kinh nghiệm trận mạc đến từ phòng các vấn đề Arập của Shabak, theo sau là Rimona, Thiếu tá của IDF, nhà phân tích cho AMAN, cơ quan tình báo quân sự Israel. Oded, một nhân viên hoạt động chiến trường đa năng, con nhà nòi chuyên về các vụ bắt cóc, đến lúc tám giờ mang theo bữa sáng cho mọi người, và Mordecai, một người mảnh khảnh xử lý tất cả mọi thứ về điện tử, đến mười lăm phút sau, trông như thể đêm trước anh ta đã không ngủ chút nào. Người cuối cùng đến là Mikhail, một tay súng mắt xám sinh ra ở Nga, người đã một tay hạ sát một nửa lực lượng khủng bố của Hamas và Thánh chiến Hồi giáo Palestine. Nhờ Mikhail và khả năng sử dụng súng hoàn thiện của anh mà đến giờ Sarah vẫn cón sống. Cô hôn lên má anh ta khi Gabriel bước đến trước phòng ghim những hình ảnh theo dõi của Lavon lên bảng thông báo.
“Mọi người đã biết nhau cả rồi”, anh nói. “Đã đến lúc phải đi thẳng vào công việc. Đây là người sẽ dẫn chúng ta đến chỗ Elizabeth Halton. Hắn là thành viên sáng lập tổ chức Thanh kiếm Allah, hiện đang sống ở Amsterdam. Chúng ta sẽ làm cho hắn biến mất trong không khí. Sau đó sẽ vắt khô hắn. Ta phải làm việc nhanh gọn và không được phạm sai lầm”.
Văn phòng tự hào về khả năng ứng biến qua những thời điểm khủng hoảng, nhưng ngay cả Văn phòng, dù được ca ngợi cũng bị áp lực bởi những yêu cầu của Gabriel. An toàn là mối quan tâm lớn nhất của anh, và ban quản lí bất động sản, bảo trì và mua lại bất động sản cho Văn phòng, là đối thủ cứng đầu nhất của Gabriel. Không như những thành phố như Paris, Luân Đôn và Rome – nơi mà Văn phòng có hàng chục căn hộ an toàn, Amsterdam không có nơi nào được bảo vệ tốt. Điều đó có nghĩa là cần phải mua ngay nhà ở và mua trên thị trường công khai, đó là việc mà ban Quản lý bất động sản không bao giờ muốn. Đến 10 giờ, họ đã có được hợp đồng thuê sáu tháng đối với căn hộ hai phòng ngủ trên con kênh đào Herengracht, đến 11 giờ họ thuê được một chiếc du thuyền làm nhà sang trọng ở khu Prinsenrgacht tên là Heleen. Nhưng Gabriel cần một căn nhà đủ lớn cho cả đội và nó phải đủ xa để sự có mặt của họ không bị phát hiện. Anh đã hình dung ra mảnh đất đó – một ngôi nhà ọp ẹp ở miền quê ở ngoại ô Oldenburg mà họ đã sử dụng trong chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa – và cuối cùng anh xen vào quyết định của ban Quản lý bất động sản để họ phải nghe theo ý mình.
Khi ban Quản lý bất động sản đầu hàng, những việc còn lại giống như chơi bài domino. Đến trưa, ban Hành trình đã sắp xếp được một loạt những chiếc xe thuê không thể truy tìm tung tích. Và đến 1 giờ, phòng Căn cước đã lo đủ hộ chiếu cho phép mọi thành viên trong đội đi lại bằng hộ chiếu châu Âu. Ban Ngân hàng không đồng ý yêu cầu của Gabriel là cần có một chiếc vali đầy tiền mặt nhưng lúc 1 giờ 30 anh đã sắp xếp được, mười phút sau đội vũ trang rời ngân hàng mang theo một chiếc cặp đựng 50 ngàn đô la và một chiếc cặp khác 50 ngàn tiền euro đang lưu hành.
Đến giữa buổi chiều, những thành viên đầu tiên trong đội đã lặng lẽ ra khỏi đại lộ King Saul hướng ra sân bay Ben Guiron. Oded, Mordecai và Rimona rời lúc 3 giờ30 đáp chuyến bay đi Bỉ. Một tiếng sau Yossi, Yaaskov và Dina rời đi trên chuyến bay của hãng Lufthansa đến Frankfurt. Gabriel và Sarah đi cuối cùng, và sau 8 giờ một chút, họ đã có ghế ngồi trên khoang hạng nhất chuyến bay tối của Hãng hàng không El Al đi Pais. Khi những hành khách còn lại làm thủ tục lên máy bay, Gabriel gọi điện thoại cho Chiara cho biết mình đã về nước và chuẩn bị đi tiếp. Cô không hỏi anh đi đâu. Cô không cần biết.