abriel lái xe quay lại đường Narkiss qua một cơn mưa to bất chợt rồi vào căn hộ của mình tìm bộ bàn ghế dành cho bốn người, không khí đầy mùi gà nướng và món cà tím nổi tiếng của Gilah Shamron với gia vị Marốc. Một phụ nữ ốm yếu nhỏ người với đôi mắt buồn và bộ tóc xám xoăn tít đang ngồi trên tràng kỷ cạnh Chiara nhìn những tấm ảnh váy cưới. Khi Gabriel hôn lên má bà, anh cảm thấy mùi tử đinh hương và làn da mịn màng như lụa. “Ari đâu?”, anh hỏi. Bà chỉ ra ban công. “Bảo ông ấy đừng hút thuốc nhiều nhé, Gabriel. Cháu là người duy nhất ông ấy chịu nghe đấy”. “Cô chắc nhầm cháu với ai rồi, Gilah ạ. Chồng cô có khả năng chỉ nghe những gì ông ấy muốn nghe còn người cuối cùng ông ấy lắng nghe là cháu”. “Ari đâu có nói thế. Ông ấy kể cho cô nghe về vụ tranh cãi dữ dội của cháu ở Luân Đôn. Ông ấy nói mình thậm chí còn không tìm cách thuyết phục cháu rút khỏi vụ giao tiền vì biết rằng cháu đã quyết định”. “Có lẽ cháu thông minh nếu làm theo lời khuyên của ông ấy”. “Thế nhưng cô gái người Mỹ đó sẽ chết”, bà lắc đầu. “Không đâu, Gabriel, cháu đã làm đúng, cho dù người ta nói gì về cháu ở Luân Đôn và Amsterdam. Khi cơn bão qua rồi, họ sẽ suy nghĩ lại và phải cảm ơn cháu”. “Cháu tin chắc là cô đúng đấy, Gilah”. “Hãy đến ngồi với ông ấy. Cô nghĩ ông ấy hơi thất vọng. Không dễ gì chấp nhận việc mình già đi đâu”. “Kể cho cháu nghe nào”. Anh tự rót cho mình một ly rượu vang đỏ rồi mang ra ban công. Shamron ngồi trong một chiếc ghế sắt bên dưới mái bạt sọc, nhìn nước mưa nhỏ xuống từ lá cây khuynh diệp. Gabriel lấy điếu thuốc từ đầu ngón tay ông rồi quăng qua ban công xuống lối đi bộ ướt mưa. Shamron nói. “Xả rác ở nước này là phạm luật đấy. Cậu đã ở đâu vậy?”. “Ông biết mà”. “Cậu định nói tôi cho người theo dõi cậu à?”. “Tôi có ý gì đâu. Tôi biết ông đang cho người theo dõi tôi mà. Vì vậy, đó thật sự chỉ là một thông báo thôi”. “Về nhà rồi, không có nghĩa là cậu đã an toàn đâu. Cậu có quá nhiều kẻ thù xung quanh – quá nhiều kẻ thù nên không thể nào làm việc bình thường trong một studio nhìn xuống những bức tường của Phố Cổ mà không có vệ sĩ”. “Chiara sẽ không cho tôi làm việc trong nhà”. Gabriel ngồi xuống ghế cạnh Shamron. “Ông giận vì tôi làm trong một studio gần Phố Cổ hay ông giận vì tôi đang làm việc mà không phải làm cho ông nào?”. Shamron cặm cụi đốt một điếu thuốc nữa mà không nói gì. “Công việc phục chế cũng có tác dụng đấy, Ari. Lúc nào cũng có lợi, nó làm tôi quên”. “Quên cái gì?”. “Việc giết bốn người trong công viên Hyde Park. Giết một người trên sân của tu viện Westminster. Giết Ishaq trên cánh đồng ở Essex. Tôi sẽ tiếp tục chứ?”. “Không cần thiết đâu”, Shamron nói. “Khi nào thì xong bức Rembrandt này? Tiếp theo đó là gì?”. “Tôi may mắn còn sống đấy, Ari. Chỗ nào cũng thấy đau. Hãy để tôi lành lặn cái đã. Hãy để tôi hưởng thụ cuộc sống vài ngày trước khi ông bắt đầu kéo tôi trở lại Văn phòng”. Shamron hút thuốc, nhìn mưa rơi trong im lặng. Là một cây cổ thụ tận tuỵ, ông đánh dấu thời gian trôi qua không phải bằng lễ hội của người Do Thái mà bằng nhịp điệu của vùng đất này – ngày mưa đến, ngày hoa dại bừng nở trong thung lũng Galilee, ngày đầu thu khi gió mát thổi trở lại. Đối với Gabriel, anh cứ tự hỏi mình sẽ còn chứng kiến bao nhiêu chu kỳ nữa. “Đại sứ của chúng ta ở Luân Đôn nhận được một bức thư khá hài hước từ văn phòng Bộ Nội vụ sáng nay”, ông nói. “Để tôi đoán nào”, Gabriel nói. “Họ muốn tôi làm chứng cho uỷ ban điều tra vụ bắt cóc và giải cứu Elizabeth Halton”. Shamron gật đầu. “Chúng ta đã nói rõ cho người Anh rằng họ sẽ phải tự thực hiện cuộc điều tra mà không có sự hợp tác của chúng ta. Sẽ không có hành động lặp lại như việc làm chứng của cậu trước Quốc hội sau vụ ở Vatican. Cách duy nhất để cậu quay lại nước Anh là để nhận chức hiệp sĩ”, Shamron mỉm cười với chính mình. “Cậu có tưởng tượng được không?”. “Đông Luân Đôn sẽ bùng cháy”, Gabriel nói. “Thế còn quan hệ của chúng ta với MI5 và MI6 thì sao? Họ sẽ không gặp khó khăn nếu tôi từ chối điều tra chứ?”. “Thực ra còn ngược lại nữa kia. Ta đã liên lạc với lãnh đạo của cả hai cơ quan trên trong những ngày qua, họ đã nói rõ rằng điều cuối cùng họ muốn chính là để cậu ra làm chứng. Tiện thể, Graham Seymour cũng gởi lời hỏi thăm cậu”. “Còn có một lí do hay ho nữa để tôi tránh xa Luân Đôn”, Gabriel nói. “Nếu đồng ý ra làm chứng vụ này, cuộc điều tra tự nhiên sẽ tập trung vào chúng ta và tội lỗi của người Israel. Nếu tôi tránh xa, điều đó có thể buộc họ đối diện với vấn đề thực sự”. “Vấn đề nào?”. “Luân Đôn – sào huyệt khủng bố”, Gabriel nói. “Họ đã cho phép thủ đô của mình trở thành mảnh đất nuôi dưỡng, thánh địa thiêng liêng và nơi trú chân an toàn cho những phần tử khủng bố Hồi giáo thuộc mọi thành phần. Đó là mối đe doạ cho tất cả chúng ta”. Shamron gật đầu đồng ý, sau đó nhìn Gabriel. “Thế cậu còn làm gì ngoài việc lau chùi tranh Rembrandt rồi ở bên cạnh Leah ở núi Herzl?”. “Tôi thấy những kẻ theo dõi nhỏ bé của ông đã báo cáo cho ông chi tiết rồi còn gì?”” “Đúng theo chỉ đạo”, Shamron nói. “Cô ấy thế nào?”. “Lúc nào cô ấy cũng trong sáng”, Gabriel nói. “Rất trong sáng. Có khi cô ấy nhìn mọi thứ còn rõ ràng hơn tôi. Cô ấy lúc nào cũng vậy?”. “Làm ơn cho tôi biết là cậu không định hoãn tiếp chứ”. “Ngược lại đấy. Thế những người theo dõi của ông không cho ông biết việc tôi đang tìm nơi làm lễ cưới sao?”. “Thật ra thì có. Tôi xin mạn phép được yêu cầu Shabak vạch ra kế hoạch an ninh khẩn cấp cho một đám cưới tầm cỡ như thế. Tôi e rằng yêu cầu sẽ cao đến nỗi có vẻ đây không giống đám cưới chút nào đâu”. Ông từ từ dụi thuốc. “Cậu có cần lời khuyên từ một ông già không?”. “Tôi không cần gì hơn thế nữa”. “Có lẽ cậu và Chiara nên xem xét tổ chức một buổi lễ nhỏ hơn và thân mật hơn”. “Chúng tôi đã dự định thế”. “Cậu đã nghĩ đến ngày nào trong đầu chưa?”. “Gabriel nói cho ông biết. “Tháng Năm sao? Sao phải chờ đến Tháng Năm? Cậu không học được gì từ vụ này sao? Cuộc sống quý giá lắm, Gabriel à, và cũng ngắn kinh khủng. Tôi có thể không còn sống đến Tháng Năm đâu”. “Tôi e rằng ông sẽ chỉ cần phải ghé qua thôi mà, Ari. Chiara cần thời gian lên kế hoạch đón khách. Chúng tôi không thể nào tổ chức sớm hơn”. “Kế hoạch thế nào? Kế hoạch gì? Cậu và tôi có thể thực hiện việc đó ngay chiều nay mà”. “Đám cưới chứ có phải chiến dịch đâu, Ari”. “Ai nói vậy?”. “Chiara”. “Tất nhiên đám cưới không phải là chiến dịch”, ông vịn tay lên thành ghế. “Chiara đã phải chịu đựng khá nhiều sự lung lay và vô lý ở phía cậu. Nếu là cậu, tôi sẽ tự lên kế hoạch đám cưới để làm cô ấy ngạc nhiên”. “Cô ấy là người Do Thái gốc Ý đấy, Ari. Cô ấy nóng tính và không thích điều ngạc nhiên”. “Tất cả phụ nữ điều thích những điều bất ngờ, anh chàng ngốc ạ”. Gabriel phải thừa nhận là mình cũng thích ý tưởng đó. “Tôi sẽ cần giúp đỡ”, anh nói. “Thế thì chúng tôi sẽ giúp cậu”. “Giúp thế nào?”. Shamron nói. “Thằng nhóc ngớ ngẩn”. Đó là phía khuất của một nghi lễ bí mật, của những người làm những việc mà không ai muốn hay dám làm. Nhưng chưa bao giờ trong lịch sử nhiều biến động của Chiến dịch đặc biệt, họ lại lên kế hoạch cho một đám cưới, dĩ nhiên là một đám cưới thật sự kia. Họ tập trung vào buổi sáng hôm sau ở phòng 456C, công sự ngầm của Gabriel tại đại lộ King Saul. Yaakov và Yossi, Dina và Rimona, Mordecai và Oded, Mikhail và Eli Lavon. Gabriel đi đến trước phòng dán một tấm ảnh Chiara lên bảng thông báo. “Mười ngày nữa, tôi sẽ cưới người phụ nữ này”, anh nói. “Đám cưới phải có mọi thứ cô ấy muốn nhưng cô ấy không được biết hay nghi ngờ thứ gì. Ta phải làm việc nhanh và không phạm sai lầm”. Giống như tất cả những chiến dịch thực thụ, cuộc họp bắt đầu bằng việc thu thập thông tin tình báo. Họ lục tung những quyển tạp chí cưới của Chiara để tìm những dấu hiệu ý nghĩa và hỏi Gabriel tỉ mỉ về mọi thứ cô ấy đã từng nói với anh. Biết rằng những câu trả lời của anh không đầy đủ, Dina và Rimona lên lịch cho cuộc gặp ăn trưa bất ngờ với Chiara buổi chiều hôm sau ở một nhà hàng sành điệu của Tel Aviv. Họ trở về đại lộ King Saul khi đã chếch choáng hơi men nhưng có toàn bộ thông tin cần thiết để tiến hành. Buổi sáng hôm sau, Gabriel và Chiara ở đường Narkiss bị đánh thức bởi một nhân viên từ phòng Nhân sự thông báo cho Chiara biết cô đã vượt mức báo động về sức khoẻ toàn diện. Người đàn ông từ phòng Nhân sự cho biết hôm đó sẽ có một buổi khám sức khoẻ. Cô có thể đến đại lộ King Saul ngay lập tức không? Không có việc gì tôt hơn để làm trong ngày, cô tuân theo yêu cầu và đến mười giờ cô trải qua một cuộc thăm khám kỹ lưỡng của hai bác sĩ trực thuộc văn phòng – một trong hai người chẳng phải là bác sĩ, mà là thợ may từ phòng Nhận diện. Ông ấy ít quan tâm đến những chuyện như huyết áp và nhịp tim mà quan tâm nhiều hơn đến chiều dài cánh tay, chân, cỡ hông và ngực. Cuối buổi chiều đó, cô vào phòng 456C hỏi Gabriel xem anh có phải rời phòng trong bộ quần áo chống đạn không. Gabriel nói không cần thiết. Còn ba ngày nữa, mọi thứ điều đâu vào đấy trừ một người đặc biệt. Chiara. Trong một bước của chiến dịch này, Gabriel không thể nhờ ai khác ngoài bà Gilah Shamron, bà đã gọi điện cho Chiara cuối buổi tối hôm đó để thông báo họ có thể đến Tiberias tham dự buổi tiệc sinh nhật đầy bất ngờ của Shamron vào thứ bảy. Cô đồng ý yêu cầu của bà Gilah mà không bận tâm xem Gabriel có kế hoạch gì cuối tuần đó không. Cô hỏi. “Ông ấy bao nhiêu tuổi rồi?”. “Đó là một bí mật được nhà nước giữ kín, nhưng người ta đồn rằng ông ấy đã chiến đấu trong cuộc nổi dậy chống chính quyền La Mã”. “Thế anh có biết ngày sinh của ông ấy rơi vào tháng ba không?”. “Biết chứ, tất nhiên rồi”, anh trả lời vội vã. Thực ra, đáng lẽ thời điểm ấy là cuối tháng tám và người cố gắng tổ chức bữa tiệc bất ngờ cho Shamron vẫn còn đi loạng choạng, nhưng Chiara không hề biết gì. Trời mưa nặng hạt suốt tuần, một tình huống mà họ chưa hề dự kiến, nhưng đến giữa buổi sáng ngày thứ bảy, mặt trời lại nắng rực rỡ và không khí như vừa được rửa sạch. Mùi thông đá, hoa nhài và khuynh diệp lan toả khắp nơi. Họ dậy muộn và ăn sáng qua loa trên ban công rồi gói ghém vài thứ vào một chiếc túi ngủ qua đêm và khởi hành đi Galilee. Gabriel lái xe xuống khu Bab al Wad đến đồng bằng duyên hải rồi lên hướng bắc đến thung lũng Jezreel. Họ dừng ở đó vài phút để đón Eli Lavon từ một ngôi nhà trên đỉnh Tel Megiddo sau đó tiếp tục đến khu vực Tiberias. Ngôi biệt thự màu mật của Shamron chỉ cách phía Bắc thành phố vài dặm, trên một vỉa đá nhìn xuống biển Galilee. Hai chục chiếc xe xếp thành đường thẳng, trong sân trước là chiếc Suburban của ngừơi Mỹ mang biển số ngoại giao. Adrian Carter và Sarah Bancroft đang đứng ở lan can của nhà Shamron, trò chuyện với Uzi Navot và Bella. “Gilah không nói với em là Carter cũng đến”, Chiara nói. “Có lẽ bà ấy đã quên nói”. “Làm sao bà ấy lại quên nói chuyện Phó giám đốc CIA từ tận Washington đến đây? Còn Sarah đang làm gì ở đây thế?”. “Gilah già rồi, Chiara à. Cho bà ấy nghỉ ngơi đi”. Gabriel leo ra ngoài trước khi Chiara có thể nêu một câu hỏi khác, rồi rút chiếc túi ngủ qua đêm từ cốp xe ra và dẫn nàng lên những bậc thang. Gilah đang đứng trong sảnh khi họ vào trong. Những căn phòng lớn đã bị dời hết đồ nội thất và nhiều bàn tròn được xếp chỗ. Chiara nhìn vào cách bày trí trong khu vực và cách sắp đặt hoa, sau đó đi qua chỗ Gilah rồi bước lên bậc thềm, nơi đó có một trăm chiếc ghế màu trắng dựng thành dãy quanh một cái bục treo đầy hoa. Nàng cứ nhìn quanh, há hốc mồm rồi nhìn Gabriel. “Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy?”. Gabriel cầm chiếc túi rồi nói. “Anh sẽ mang cái này lên phòng của chúng ta”. “Gabriel Allon, quay lại đây đi”. Nàng vội đuổi theo anh xuống hành lang dẫn đến phòng của họ. Khi bước vào trong, nàng nhìn thấy chiếc váy cưới đặt trên giường. “Chúa ơi, Gabriel, anh đã làm gì thế?”. “Anh hy vọng là sẽ bù đắp được những lỗi lầm của anh”. Nàng khoác tay anh, hôn anh rồi lấy bàn tay luồn qua tóc. “Em bối rối quá. Em sẽ làm gì đây?”. “Mọi người đã mang một nhà tạo mẫu tóc từ Tel Aviv đến đây. Một người rất giỏi”. “Thế còn gia đình của em?”. Anh nhìn đồng hồ. “Vài phút nữa họ sẽ đến”. “Thế còn nhẫn” Anh rút một chiếc hộp đựng trang sức từ túi áo khoác rồi mở ra. “Chúng đẹp quá”, nàng xúc động nói. “Anh đã nghĩ ra mọi chuyện”. “Đám cưới chính là chiến dịch”. “Không phải đâu, anh ngốc quá”. Nàng vỗ vào tay anh đùa vui. “Thế buổi lễ diễn ra lúc mấy giờ?”. “Bất cứ khi nào em muốn”. “Thế mặt trời lặn lúc mấy giờ?”. “Năm giờ tám phút”. “Ta sẽ bắt đầu lúc năm giờ chín phút”. Nàng lại hôn anh. “Và đừng muộn nhé”.