Hồi
Tâm hữu linh tê

    
ến Phi từ trong hỗn độn sực tỉnh lại.
Chàng hoàn toàn mất đi ý niệm và cảm giác đối với thời gian, thời gian trăm ngàn năm có thể chỉ ngắn ngủi trong một búng tay.
Sau khi bị Tôn Ân đánh trọng thương, chàng không hề mất đi ý thức, lại đã đoạn tuyệt tiếp xúc với nhân thế, nhân thể chỉ giống như một giấc xa vời, bất quá chàng biết nữ nhân mình yêu thương nhất đang đối diện với nguy hiểm đáng sợ, ký ức duy nhất đó làm chàng kiên trì quay lại, tuyệt không buông bỏ, không thể chết như vầy.
Cái duy nhất có thể cứu chàng là Kim Đan đại pháp, hơn nữa còn cần phải là Kim Đan đại pháp tầng bậc tối cao.
Cho nên chàng chìm đắm vào trạng thái thai tức, tất cả quay về bản thể tiên thiên, du hành cùng thiên địa vũ trụ, cho đến khi Kim Đan vận chuyển, làm cho chàng không những lập tức khỏi bệnh mau chóng, hơn nữa toàn thân lại có một cảm giác thong thả sung sướng mới mẻ.
Yến Phi ngầm thở dài một hơi, thầm nghĩ: “Cuối cùng đã quay về”.
Chàng từ từ hồi phục ký ức trước lúc chịu đòn trí mệnh của Tôn Ân.
Bất thình lình, chàng minh bạch tại sao có thể thua Tôn Ân.
Chàng chưa đạt tới tâm cảnh “tâm không trở ngại”, bởi chàng vẫn không buông được Kỷ Thiên Thiên. Nói một câu thành thật, sự chênh lệch giữa chàng với Tôn Ân không phải là xa xăm không thể bắt kịp, mà chính là chút thắc mắc âu lo đối với Kỷ Thiên Thiên làm cho chàng trói tay trói chân, không có cách trở ngược bại cục.
May mà gặp đại nạn mà không chết, càng làm cho tất cả đều khác biệt, sau khi đạp chân vào quỷ môn quan nửa bước lại rút về, Kim Đan đại pháp của chàng đã đạt đến cảnh giới sơ thành.
Linh giác của chàng đã gia tăng gấp mấy lần.
Giờ phút này, chàng cảm ứng được Kỷ Thiên Thiên. Yến Phi tâm linh sắc bén, nghĩ đến là vì Kỷ Thiên Thiên đang nhớ nhung chàng mãnh liệt, cho nên làm cho chàng cảm giác được nàng.
“Thiên Thiên ơi! Yến Phi không chết!”.
Một lúc sau, chàng cảm thấy mình có vẻ đang ngồi trong thùng xe, đang nhìn ra cửa sổ xe, bên ngoài là cảnh đẹp cao nguyên, có một cây tùng già cỗi cao thật cao, hình tượng cổ quái, trở thành tiêu điểm cho thị tuyến như mộng ảo của chàng, mọi thứ khác đều mơ hồ.
Màng tai tựa như nghe thấy tiếng vó ngựa tiếng bánh xe của đại đội nhân mã đang hành quân.
Yến Phi giật nảy mình, vụt tỉnh lại.
Đè trên mình chàng là một lớp đất sâu cỡ năm thước, phun bắn như dung nham, toàn thân Yến Phi từ trong lòng đất vọt lên, về lại hiện thực dưới ánh sáng ban ngày, thong dong hạ xuống trên thảm cỏ bên cạnh.
Dương quang từ trên đỉnh rừng sâu rải rắc xuống, đã đến giờ mặt trời lặn, Điệp Luyến Hoa vẫn an nhiên giắt trên lưng, bùn đất trên mình lục cục rơi xuống.
Chàng không nghĩ tới ai đã đưa chàng đến đây? Tại sao lại mai táng chàng? Bởi chàng rõ rõ ràng ràng biết Biên Hoang Tập đã mất, Kỷ Thiên Thiên còn bị địch nhân bắt đi, cưỡng bách nàng Bắc thượng. Tình cảnh hồi nãy là một địa phương khoảng một dặm ngoài mặt Bắc Biên Hoang Tập, chàng nhận ra cây tùng quái đản kia. Lúc đó chàng cảm ứng được nơi chốn của Kỷ Thiên Thiên, đồng thời thông qua tâm linh của nàng nhìn thấy cùng một cảnh vật.
Lời dự đoán của tiểu tử Cao Ngạn không sai, sau lần thứ hai chết đi sống lại, chàng thật đã biến thành một nửa thần tiên.
Thân theo ý niệm, Kim Đan đại pháp tự nhiên lưu chuyển, chàng thần tốc như quỷ mị lướt trong rừng sâu, đến một nơi cao có thể nhìn xa bên ngoài rừng.
Dõi nhìn bốn phương, Biên Hoang Tập nằm xa xa phía Đông, cách chàng ít ra cũng hai mươi mấy dặm.
Yến Phi hú dài một tiếng, nhắm phương hướng Biên Hoang Tập lướt nhanh đi.
Bất kể đối phương có phải có thiên quân vạn mã, hay Mộ Dung Thùy võ công cái thế tới cỡ nào, chàng thề phải cứu Kỷ Thiên Thiên khỏi tay đối phương. Không ai có thể đem người yêu dấu của chàng rời khỏi Biên Hoang, ai cũng không thể.
o0o
Đầu óc Tiểu Thi vẫn in hằn trận chiến thảm liệt suốt ba ngày đêm trước khi Biên Hoang Tập thất thủ, bên tai không ngừng vang lên tiếng kêu gào của các chiến sĩ lúc lâm tử, tuy đã là chuyện xảy ra mười mấy ngày trước.
Bị bắt cùng bọn họ có sáu trăm Hoàng nhân, bao gồm cả Bàng Nghĩa, những người khác sống chết không biết ra sao. Trong toàn trận chiến công phòng, song phương đều chịu thương vong nặng nề, số lượng thật sự sợ rằng vĩnh viễn không ai rõ, cộng lại chắc cũng quá vạn người.
May là có hiệp nghị “xây thành chia đất” do Tôn Ân và Mộ Dung Thùy nghị định, không những phải xây lại tường thành, còn phải dùng tường cao hai lớp phân cách Nam Bắc lưỡng thành, cắt phân Biên Hoang Tập. Hoang nhân bị bắt giữ liền bị bức đi xây dựng công trình dựng tường tre, tuy khốn khổ không thể tả, vẫn còn có thể giữ chút hơi thở.
“A”!
Tiểu Thi kinh hãi nhìn Kỷ Thiên Thiên ngồi ở hàng trước la thất thanh, Thiên Thiên mỉm cười đón ánh mắt của ả, hoa dung tuy thảm đạm, đôi mắt lại bắn ra sinh cơ chưa từng xuất hiện từ khi bị bắt.
Lọt vào mắt ngoài cửa sổ xe là đội kỵ binh thủ hạ tinh nhuệ của Mộ Dung Thùy, đội xe ngựa dài thườn thượt nhắm phương Bắc thẳng tiến.
Qua mỗi một khắc, bọn họ càng rời xa Biên Hoang Tập thêm một chút, càng có khả năng vĩnh viễn không về lại Biên Hoang Tập được.
Tiểu Thi cúi xuống hỏi: “Tiểu thư không có chuyện gì chứ?”.
Kỷ Thiên Thiên thần sắc bâng khuâng lắc đầu, nhãn thần bắt đầu tích tụ lại, thấp giọng: “Yến Phi chưa chết”.
Tiểu Thi ngấm ngầm thất kinh, lòng nghĩ lẽ nào tiểu thư vì nhớ nhung Yến Phi quá độ mà tinh thần xuất hiện vấn đề? Nếu không làm sao lại vô duyên vô cớ nói ra câu đó. Hai là vì thủ pháp độc môn của Mộ Dung Thùy cấm chế nàng đã sinh ra ảnh hưởng không tốt?
Tiểu Thi hỏi: “Sao tiểu thư biết?”.
Kỷ Thiên Thiên thấp giọng: “Đây là một cảm giác không có cách nào giải thích được, tựa hồ như chàng ở đằng xa hô hoán báo cho ta biết chàng bình an. Ta thật cảm thấy được chàng, có cảm giác chàng đang trong lòng ta”.
Tiểu Thi không vui mà lại lo, thầm nghĩ tình huống của Kỷ Thiên Thiên có thể còn nghiêm trọng hơn ả tưởng, đây là tương tư nhớ nhung mà thành bệnh, hơn nữa là tâm bệnh khó trị nhất.
Yến Phi ra đi không trở lại, tự nhiên có chết chứ không có sống, đã bại vào tay Tôn Ân. Kỷ Thiên Thiên một mực không nói tới chuyện đó một câu, chỉ cắn răng tác chiến, cho đến giây phút đào vong.
Kỷ Thiên Thiên lại nói: “Khóa Lục Nhâm không thể sai, cha nuôi càng không thể nào sai. Ài! Ta cũng đã từng rất lo lắng!”.
Tiểu Thi lòng kêu không hay, thuận theo lời nói của nàng mà hỏi: “Tiểu thư lo cái gì?”.
Kỷ Thiên Thiên đáp: “Mộ Dung Thùy chuyến này bắt ép chủ tỳ bọn ta về Bắc, trước khi lên đường đã cử hành lễ rời thành, lại bắt bọn ta công nhiên hiện thân tham dự nghi thức, đánh trống giăng cờ, ngươi không cảm thấy lạ sao?”.
Tiểu Thi hơi an tâm, suy luận của Kỷ Thiên Thiên không thác loạn chút nào, lắc đầu: “Tôi nghĩ Mộ Dung Thùy muốn thị uy, đặc biệt là thị uy với Từ gia, vì Từ gia không tranh lại y”.
Kỷ Thiên Thiên nghĩ tới tình hướng đối kháng Mộ Dung Thùy không chịu giao mình cho Từ Đạo Phúc, nói: “Ngươi xem thường Mộ Dung Thùy, y là người đáng sợ nhất trong những người ta từng gặp, còn một người nữa là Tôn Ân. Hạng người như Mộ Dung Thùy hay Tôn Ân, tuyệt không thể hành sự theo cảm giác riêng tư. Y đang thiết trí cạm bẫy, mồi dụ là bọn ta”.
Tiểu Thi đầu óc mù mờ: “Thi Thi không hiểu”.
Kỷ Thiên Thiên nói: “Cái ta muốn nói là sự tình đâu có bi quan như bọn ta tưởng tượng. Bộ đội chủ lực của Biên Hoang Tập bọn ta đã thành công đột vây đào tẩu, ẩn mình khắp Biên Hoang trùng chỉnh tập hợp binh viên, khiến Mộ Dung Thùy và Tôn Ân cảm thấy bị uy hiếp. Không tốn một năm thì thành tre Biên Hoang Tập khẳng định không có cách nào hoàn thành, mà Mộ Dung Thùy và Tôn Ân lại không có cách nào dồn trú đại quân trường kỳ ở Biên Hoang Tập, cho nên cố ý dẫn bọn ta về nước, dụ huynh đệ Biên Hoang đến cứu bọn ta trước khi bọn ta qua sông. Qua sông rồi, bọn họ sẽ không còn cơ hội”.
Tiểu Thi vừa kinh hãi vừa vui mừng: “Thật sẽ có người cứu bọn ta sao?”.
Kỷ Thiên Thiên nói: “Đây là chuyện đương nhiên. Đồ Phụng Tam, Mộ Dung Chiến, Thác Bạt Nghi đâu dễ gì bị trói buộc, bọn họ đều là anh hùng, nhất định không cho phép Mộ Dung Thùy dẫn bọn ta qua sông về nước”.
Tiểu Thi lo lắng: “Nhưng tiểu thư lại nói đây là cạm bẫy”.
Kỷ Thiên Thiên thấp giọng: “Y đã đến!”.
Tiểu Thi dựa lưng lại vào ghế.
Có mười mấy thân binh đi theo, Mộ Dung Thùy tướng tá uy vũ như thiên thần quất ngựa đến bên xe, từ từ chậm lại, đi song song với xe ngựa.
Kỷ Thiên Thiên lúc này tâm tình tốt hẳn ra, nhìn thẳng đối phương, vị cao thủ chỉ ba thương đã đánh bay bội kiếm của mình quả là có mỵ lực và thần thái hớp hồn có thể điên đảo thiên hạ.
Từ sau khi bị giam cầm, y luôn luôn ôn hòa giữ lễ, mỗi một chuyện đều đến trưng cầu ý mình, giải thích lý do không thể không làm thế này thế kia, làm cho nàng đến giờ phút này vẫn khó sinh ác cảm đối với y.
Mộ Dung Thùy mỉm cười chào hỏi: “Tiểu thư đi đường mệt nhọc quá”.
Kỷ Thiên Thiên liếc y, khẽ thở dài: “Tôi muốn một mình cho thanh tĩnh”.
Mộ Dung Thùy không nghĩ ngợi gì, điềm đạm thốt: “Nếu tiểu thư đồng ý với ta là không tự làm hại mình hay chạy trốn, ta có thể giải khai cấm chế”.
Kỷ Thiên Thiên không vui: “Ông cố ý an bài Tiểu Thi và tôi đi chung, tôi có thể chạy đi đâu chứ?”.
Mộ Dung Thùy nhẫn nại dịu giọng: “Chuyện bất đắc dĩ, xin tiểu thư tha thứ. Tiểu thư có thể nói chuyện mà”.
Kỷ Thiên Thiên buông rèm, ngăn cách thị tuyến của y.
Mộ Dung Thùy cười khà khà, cùng thủ hạ giục ngựa bỏ đi.
o0o
Bọn Tôn Vô Chung đưa Lưu Dụ đến ngoài cửa chính Thứ sử phủ, xe ngựa vào ra không ngừng qua cửa lớn, mây sầu bao phủ, lồng đèn màu lam treo cao trên cửa, làm người ta thấy tim cũng chìm đắm.
Lưu Dụ nhớ tới hồi nãy rượu thịt ê hề, liền sinh ra cảm giác tội lỗi vụng trộm, đang định đi vòng cửa sau vào phủ, lại bị Tống Bi Phong vừa ra tiễn khách kêu, chỉ còn nước làm cứng đi tới.
Tống Bi Phong mỉm cười: “Sắc mặt của ngươi vẫn không mấy dễ coi, không nên uống rượu”.
Lưu Dụ biết hắn ngửi được hơi rượu, lòng nghĩ với tâm tình hiện tại, không say bất tỉnh nhân sự là có kềm chế ghê gớm lắm rồi. Tâm tình cảu Tôn Vô Chung cũng không tốt hơn mình bao nhiêu, uống rượu là phương pháp tiêu sầu duy nhất, nhưng cũng là biện pháp không thông minh nhất.
Lưu Dụ bần thần, ừ ừ iệc iệc cho qua, muốn ngậm nhịn cho rồi.
Tống Bi Phong nắm tay gã dẫn vào tiền viện đậu đầy xe ngựa, vòng qua chủ đường chỗ tế trường, theo hành lang đi sâu vào phủ, thấp giọng: “Tư Mã Diệu đã hạ chỉ khâm chuẩn sau khi liệm An công sẽ đưa về Kiến Khang an táng ở Tiểu Đông Sơn, do đó có thể thấy Tư Mã Diệu vẫn một ý vỗ về bọn ta, sợ bọn ta làm phản”.
Lưu Dụ lòng không yên: “Huyền soái có tìm ta không?”.
Tống Bi Phong lắc đầu: “Huyền soái bận chào đón khách nhân, e rằng sau khi xong chuyện mới tìm ngươi được, lúc đó ông ta sẽ cho ngươi biết an bài mới về chuyện nhân sự”.
Lưu Dụ biết Tạ Huyền không tìm gã, lòng rất không thoải mái, nghe tiếng ngạc nhiên: “An bài mới gì?”.
Tống Bi Phong đôi mắt bắn ra thần sắc đồng tình, nhẹ nhàng thốt: “Ta nói trước để ngươi chuẩn bị tâm lý, đại thiếu gia muốn điều ngươi dưới trướng Lưu Lao Chi, làm tham quân của hắn. Đây là lối điều hành bình đẳng, cấp bậc Phó tướng không đổi”.
Lưu Dụ như bị sét đánh trúng đầu, biết chuyện thất sủng đã thành sự thật sắt đá, Tạ Huyền không còn để gã theo cạnh, Lưu Dụ gã chỉ là một tướng lãnh cấp thấp trong Bắc Phủ binh, gần như quay lại nguyên hình.
Tống Bi Phong nói: “Đi bên này!”.
Lưu Dụ thất thểu cất bước, hồn tiêu phách tán theo hắn quẹo trái vào trong viện, một đám người đi tới trước mặt, gã lại như không thấy, không nghe.
Thanh âm của Tống Bi Phong vang bên tai: “Tôn tiểu thư! Đạm Chân tiểu thư!”.
Cái tên Đạm Chân vừa lọt vào tai, Lưu Dụ như bị sét đánh, ngước đầu nhìn.
Một đôi mắt xinh đẹp trong sáng nóng bỏng hàm ẩn u oán đang nghênh đón mục quang của gã, tựa như than thở về sự vô tình của gã, lại tựa như chê cười gã không đủ gan dạ.
Lưu Dụ quên thi lễ, ngây dại nhìn bảy tám nữ nhân danh sĩ do Tạ Chung Tú và Vương Đạm Chân dẫn đầu đi ngang qua, mũi còn lưu lại hơi hướm thơm tho của bọn họ.
Tống Bi Phong lãnh đạm bàng quan, chợt lại kéo tay áo gã tiếp tục hành trình, hỏi: “Tiểu Dụ ngươi tựa hồ không phải chỉ là giao tình bình thường với Đạm Chân tiểu thư, có đúng không? Nghe nói Đạm Chân tiểu thư là do ngươi dọc đường cứu về Quảng Lăng!”.
Lưu Dụ nào còn tâm tình hồi đáp hắn, nhìn thấy Vương Đạm Chân tựa hồ vẫn còn chút tình cảm với gã, so với sự chìm đổ sự nghiệp của mình quả là có cảm khái cực kỳ.
Hàm hồ gật gật đầu, chỉ mong lập tức trốn về phòng, khóc rống một trận, sao cũng được, chỉ là không muốn mất mặt mũi trước công chúng ở đây.
Làm người còn có ý tứ gì nữa?
Về đến chỗ chắc sắp phải dời đi, Tống Bi Phong nói: “Tiểu Dụ ngồi xuống, ta muốn nói vài câu với ngươi”.
Lưu Dụ bất lực ngồi xuống, lòng nghĩ nói gì cũng vô dụng, y rõ Tạ Huyền hơn bất cứ một ai, một khi đã quyết định, tuyệt không để bất cứ một ai cải đổi, Tạ An là ngoại lệ duy nhất, nhưng ông ta đâu còn nữa.
Tống Bi Phong từ từ ngồi xuống đối diện, nói: “Tiểu Dụ không cần coi ta là người của Tạ gia”.
Lưu Dụ ngạc nhiên: “Nói vậy là sao?”.
Tống Bi Phong điềm đạm thốt: “Ta trước khi làm việc cho An công, đã từng có một hiệp nghị với An công, sau khi ông ta tạ thế, ta sẽ phục hồi lại tự do, hiệp nghị đến ngày mai có hiệu lực, trong phủ người trên kẻ dưới ai ai cũng rõ chuyện này”.
Lưu Dụ nghe vậy liền đan thắt đủ thứ cảm nghĩ, chính gã không có cái may mắn đó, một là tiếp tục làm quân nhân, một là làm lính đào ngũ vĩnh viễn trốn chạy, không có lựa chọn thứ ba.
Tống Bi Phong mỉm cười: “Cho nên ngươi có thể coi ta là bằng hữu của Tiểu Phi, nói chuyện không cần kị hiềm gì, ta sẽ không tiết lộ cho đại thiếu gia biết chuyện ngươi không muốn y biết”.
Lưu Dụ sinh ra cảm giác kỳ quái, ngạc nhiên thốt: “Đại thúc tựa hồ đặc biệt quan tâm chiếu cố đến ta”.
Tống Bi Phong vui vẻ: “Ngươi có đoán được nguyên nhân không?”.
Lưu Dụ hỏi: “Có phải vì ta là bằng hữu của Yến Phi?”.
Tống Bi Phong nói: “Đó có lẽ là một nguyên nhân, lại không phải là nguyên nhân chính”.
Lưu Dụ cúi đầu: “Ta thật không rõ”.
Tống Bi Phong đôi mắt bắn ra thần sắc quan hoài, bình tĩnh nói: “Trước khi An công tạ thế, từng nói về ngươi trước mặt ta”.
Lưu Dụ ngây người: “An công thấy ta ra sao?”.
Tống Bi Phong mục quang loang loáng quan sát gã, trầm giọng: “Ông ta nói ngươi trời sinh là chất liệu thống soái, rất có mị lực lãnh tụ, càng có thể là hy vọng duy nhất cho tương lai phương Nam”.
Lưu Dụ cười khổ: “An công quá nâng cao ta”.
Tống Bi Phong lắc đầu: “An công chưa từng nâng cao bất cứ một ai, chỉ lấy chuyện mà luận sự, ông ta nhìn người chưa từng nhìn sai”.
Lưu Dụ buồn bã không nói gì.
Lời nói đó nếu nghe thấy trước khi đến Biên Hoang Tập, gã sẽ tự hào phi thường, hiện tại lại chói tai phi thường.
Tống Bi Phong nói: “Ngươi hiện tại có lẽ nghe không lọt tai, bất quá không hề gì, cuối cùng sẽ có một ngày ngươi sẽ minh bạch. Tiện đây đề tỉnh ngươi một chuyện, Vương Cung vì để ứng phó sự ép hôn của Tư Mã Đạo Tử, phải trong thời hạn ngắn ngủi đem Đạm Chân tiểu thư hứa gả cho con trai của Ân Trọng Kham là Ân Sĩ Duy để đoạn tuyệt vọng tưởn si tâm của Tư Mã Nguyên Hiển. Hy vọng ngươi minh bạch dụng tâm của ta kể chuyện này cho ngươi nghe”.
Lưu Dụ toàn thân như bị sét đánh trúng đỉnh đầu, tay chân lạnh ngắc, bồng bồng bềnh bềnh.
Không trách gì Vương Đạm Chân lại dũng cảm bộc lộ tình cảm với mình như vậy, bởi nàng căn bản không muốn gả cho Ân Sĩ Duy.
Ân Trọng Kham là trọng thần của Nam Tấn, lãnh nhiệm chức Thứ sử Kinh Châu, có quan hệ tốt đẹp với Hoàn gia, thậm chí có thể coi là người phe Hoàn Huyền, họ Ân dĩ nhiên có tư cách không sợ Tư Mã Đạo Tử.
Tống Bi Phong đứng dậy, thở dài: “Con người vừa chào đời là liền gặp chuyện không công bình, cái bọn ta có thể làm là làm sao phấn đấu trong hoàn cảnh trói mình mà làm ra thành tích tốt đẹp nhất. Khốn khó nhất thời có là gì chứ? Chỉ có thời đại chiến tranh mới có thể tạo ra danh tướng, cũng chỉ có loạn thế mới có thể thấy được minh chủ. Hy vọng Tiểu Dụ vĩnh viễn nhớ lời nói của ta”.
Lưu Dụ liền đứng dậy tiễn đưa.
Cả tòa viện tĩnh lặng cô liêu, những người khác có thể đã đến linh đường, Lưu Dụ buồn bã ngồi nơi bậc cửa, sinh ra cảm giác tiêu tán tro tàn.
Nếu sự tình có thể trùng diễn lại, gã tin chắc mình sẽ chạy trốn với Vương Đạm Chân. Gã sao lại có thể nhẫn tâm để nàng lọt vào lòng kẻ khác?
Nàng không thích Ân Sĩ Duy, đó là vì quan hệ mật thiết giữa cha hắn với Hoàn Huyền, còn là vì hắn là hậu duệ của cao môn đại tộc, mà cái Vương Đạm Chân khinh ghét nhất chính là đám con cháu nhà quyền quý. Chỉ lý do đó đã đủ làm cho gã hy sinh tất cả, chỉ cần nàng có hạnh phúc là được. Gã sẽ toàn tâm toàn ý yêu thương nàng, tất cả mọi thứ khác không còn quan trọng nữa.
Đáng tiếc gã đã bỏ lỡ cơ hội.
Hiện tại gã đến gần nói chuyện riêng với nàng cũng không xong.
Tiếng bước chân truyền đến.
Một ả tỳ nữ bước chân nhanh nhẹ theo hành lang đi đến, nhìn thấy Lưu Dụ ngồi ở bục cửa không sợ dơ dáy, cau cau mày, hỏi: “Xin hỏi có phải là Lưu Phó tướng Lưu đại nhân không?”.
Lưu Dụ lúc này cả Tạ Huyền cũng không muốn gặp, cũng không nghĩ tới Tạ Huyền có muốn tìm gã sao lại không phái tùy tùng mà sai một tiểu tỳ nhỏ xíu, gật đầu cứng đờ như khúc gỗ.
Tiểu tì như sợ bị người ta nghe thấy, cúi thấp nhỏ giọng: “Mau theo tôi đi, Đạm Chân tiểu thư đang đợi người”.
Lưu Dụ vụt từ dưới đất búng người lên, trong nháy mắt cả đất trời như khác biệt hẳn.
Chuyến này gã tuyệt không thể để Vương Đạm Chân thất vọng.