Dịch giả: HƯƠNG LAN
Chương 14
NHỮNG CON MÈO LỬA VÀ MỘT CHUYẾN DU HÀNH

Ở đằng sau nhà bếp xanh da trời, có một tủ âm tường để chổi. Những thứ chứa bên trong tủ âm tường này – giẻ lau, đồ hốt rác, cây lau nhà và chổi – che giấu cho một cánh cửa thấp, có nắm cửa giống như một cái mắc áo nhỏ bằng gỗ. Một cái chổi lông gà treo thường trực ở đó để ngụy trang. Nhưng nếu vặn tay nắm thì cánh cửa sẽ mở vô một hành lang sáng lờ mờ.
Ngày trước, khi bà bếp trưởng tới Học viện Bloor, bà được phân một căn phòng lạnh lẽo ở chái phía đông, nhưng bà không hề có ý định ở đó. Gia đình Bloor không hề biết đến tông tích thật sự của bà, họ không bao giờ tưởng tượng được rằng bà bếp trưởng biết rành rẽ về tòa nhà cổ này con hơn cả chính họ nữa. Chẳng bao lâu sau, bà chuyển vô ở căn phòng bí mật dưới lòng đất mà họ không hề biết tới.
Làm sao gia đình Bloor có thể đoán được rằng bà bếp trưởng tới đây với một mục đích duy nhất là giúp đỡ những đứa trẻ, con cháu của Vua Đỏ? Bản thân cũng có phép thuật (một điều nữa mà gia đình Bloor chẳng mảy may biết), bà bếp trưởng luôn có một niềm thôi thúc mãnh liệt là phải bảo vệ những đứa trẻ có thể gặp rắc rối vì tài phép của chúng. Và bà suy đoán chắc chắn rằng trong tất cả những đứa trẻ có phép thuật học ở Học viện Bloor, thì Charlie Bone, với tính nhiệt thành và vụng về khi cố gắng giúp người khác, là đứa cần bà để mắt tới nhất.
Charlie có khuynh hướng cứ đâm đầu vô mọi việc mà không cân nhắc gì cả, và bây giờ, nó vừa làm một điều ngu ngốc nhất. Với sự trợ giúp của bà bếp trưởng, nó cần phải sửa chữa lại sai lầm đó.
May Phúc dẫn đường cho Charlie tới nhà bếp, nhưng chỉ thế thôi, nó không chịu đi xa hơn nữa. Nó nằm ì ra trước cửa, gác đầu lên hai bàn chân trước, rõ ràng con chó này có thói quen canh gác lãnh địa của bà bếp trưởng vào ban đêm.
Charlie mò mẫm qua những tủ âm tường để chổi. Trước kia nó đã từng vô căn phòng dưới đất của bà bếp trưởng hai lần rồi, nhưng theo như nó biết, thì chỉ có thêm Gabriel là một người nữa trong trường biết về căn phòng này, và anh ấy đã thề giữ bí mật.
Charlie khó nhọc lách qua những chai dầu đánh bóng, những thùng, can, chổi và những đống giẻ lâu. Nó vặn nắm đấm trên cánh cửa nhỏ. Cửa rít lên, mở ra. Charlie bước vô hành lang đằng sau cánh cửa, và chạy về phía một dãy cầu thang. Nó đi vô một tủ âm tường khác và gõ vô một ô ván ở lưng cánh cửa.
“Phải con đó không, Charlie Bone?” Giọng của bà bếp trưởng.
“Dạ,” Charlie đáp khẽ.
“Thế thì vô đi.”
Charlie bước vô một căn phòng trần thấp, với những ghế bành thoải mái, sờn cũ và đồ đạc bằng gổ bóng sáng. Vào mùa đông, những lò sưởi của bà bếp trưởng rực than hồng, nhưng hôm nay lửa tắt và căn phòng có bầu không khí tù túng của mùa hè.
Một trong những chiếc ghế bành quay mặt vô lò sưởi nguội lạnh và, trong ánh sáng đèn dầu, Charlie trông thấy một chiếc giày đen và cái vạt áo thụng đen. Có người nào đó nữa ở trong phòng.
Bà bếp trưởng đặt một ngón tay lên môi:
“Suỵt!”
Charlie rón rén đi vòng qua chiếc ghế và giật mình, hết hồn hết vía. Kìa, đang ngủ say sưa, là Skarpo, thầy phù thủy.
“Ông ấy tới đây bằng cách nào vậy?” Charlie thì thào.
“Ta cũng định hỏi con câu đó đó. Con đã làm gì vậy, Charlie Bone.”
“Đó không phải là lỗi của con, thiệt đấy. Con không nghĩ là việc này lại xảy ra được. Bà biết đấy…”
Charlie cảm thấy hơi ngượng ngùng, khai tiếp:
“Con đi vô bức tranh vẻ ông ấy. Và chắc là ông ấy đã ra theo cùng con. Nhưng lúc đó con không trông thấy ông ấy.”
“Chậc! Chậc!” Bà bếp trưởng lắc đầu. “Người đàn ông đáng thương này trong tình trạng hoảng loạn kinh khủng lúc ta tìm thấy ông ta. Đang nằm bẹp trong tủ âm tường để chối của ta, khóc lóc và nài nỉ ta đưa về nhà. Ông ấy không thể chịu nổi ở đây. Ồn ào, đèn điện nhoáng nhoàng, quá nhiều người. Ông ấy hoảng sợ.”
“Chính ông ấy đã gây ra những việc khủng khiếp mà,” Charlie nói, quên cả thì thầm.
Mắt Skarpo thình lình mở bừng ra.
“Mi!” Ông ta thét lên, nhìn trân trân vô Charlie.
“Phải, là cháu,” Charlie bảo.
Thầy phù thủy xổ ra một tràng những từ gì đó mà Charlie không thể hiểu nổi.
“Ông ấy nói gì vậy ạ?” Nó hỏi bà bếp trưởng.
Bà bếp trưởng mỉm cười nghiêm nghị.
“Ông ấy nói bằng biệt ngữ cổ xưa, nhưng hên là ta có xuất xứ cùng một nơi trên thế giới của ông ấy. Vì vậy ta có thể hiểu. Người đàn ông tội nghiệp này năn nỉ con đưa ông ấy về nhà.”
“Làm sao con làm được điều đó?” Charlie kêu lên. “Bức vẽ đang ở nhà, đến thứ Sáu con mới ra khỏi đây được.”
Skarpo,nhìn chằm chặp vô môi Charlie, quay qua bà bếp trưởng, nhíu mày. Rồi bằng giọng lạ lùng như hát, bà bếp trưởng giải thích vấn đề của Charlie.
Skarpo rên rỉ.
“Vì vụ này mà cháu đã bị rầy ra rồi,” Charlie nói. “Giáo sư Bloor cho rằng đó là lỗi của cháu – tất cả vụ chuông đổ, và ếch, và gà, và các thứ. Cháu sẽ bị làm thịt ngay nếu những thứ đó không ngừng lại. Vậy tốt hơn, ông hãy ngừng yểm bùa lên các vật, không thì cháu sẽ không sống được để mà giúp ông đâu.”
Skarpo nhăn nhó và lúng búng cái gì đó.
“Ta nghĩ là ông ấy hiểu,” bà bếp trưởng nói.
Rồi bà buông một tiếng thở dài:
“Ta nghĩ ta phải giữ ông ấy ở lại đây cho tới thứ Sáu. Mặc dù ta thật lòng nói với con rằng, ta chẳng thích thú gì việc phải chia phòng của mình với một thầy phù thủy. Tưởng tượng coi! Cha của ông ấy đã giong buồm từ Ý tới cùng với Rizzio, tức Mary, bạn chí cốt của Nữ hoàng xứ Scots.”
“Chứ không phải ông ấy bị giết à?” Charlie nói.
“Kinh khủng lắm,” bà bếp trưởng hạ giọng xuống. “Tốt hơn con nên quay về giường đi, Charlie, không thì con sẽ không bao giờ thức dậy nổi vào sáng mai đâu.”
Charlie định đi thì có một vấn đề bỗng bật ra trong đầu nó.
“Ông ấy sẽ rời khỏi đây bằng cách nào để không bị thấy?”
“Bằng đúng cách mà ông ấy đã vô đây,” bà bếp trưởng nói bí hiểm. “Chúc ngủ ngon, Charlie.”
Charlie không tin Skarpo. Sáng hôm sau, nó chờ đợi điều kinh khủng gì đó diễn ra. Nhưng không có voi hay mưa ếch nữa. Bầu trời trong và xanh, xúc xích vẫn là xúc xích, và không có gì xảy ra với ổ bánh mì thịt buổi tối.
“Quá tệ,” Fidelio, kẻ ăn chay, than thở.
Suốt bữa ăn tối, Charlie có thể cảm nhận đôi mắt lạnh băng của giáo sư Bloor bám theo nó, và nó có cảm tưởng hình như là ông hiệu trưởng thất vọng. Ông ta hẳn đã thích thú suy nghĩ về một hình phạt khủng khiếp nào đó dành cho Charlie.
Trong phòng Nhà Vua sau bữa tối, bầu không khí nặng chịch, tựa như có thể cắt được bằng dao, theo như cách diễn tả của nội Bone. Charlie nghe Zelda thì thầm về “Ngày Thứ Hai Đen Tối Của Bone”. Và Asa bật cười hô hố bằng một trong những tràng ghê hồn nhất của nó.
Đó là một tiếng đồng hồ thật khó chịu, với những tiếng trống vẫn còn đập thình thịch của Lysander làm nền, và cơn gió rít giận dữ của Tancred thổi giấy bay khỏi bàn. Như để đặt Tancred vô đúng vị trí của mình, Zelda bắt đầu di chuyển sách vở và bút ra khỏi tầm với của những chủ nhân. Tệ hơn cả là ánh nhìn thôi miên của Manfred dường như cứ chĩa liên tục vô Charlie.
Belle cũng đang nhìn Charlie. Nhưng gương mặt nó toát lên vẻ sưng sỉa và hằn học. Nó đang âm mưu cái gì thế nhì? Charlie tự hỏi.
Charlie không hé răng với ai về chuyến viếng thăm bà bếp trưởng lúc đêm khuya của mình, nhưng khi nó đang cùng Gabriel và Fidelio trên đường về phòng ngủ chung, Fidelio hỏi:
“Này, Charlie, chuyện gì xảy ra vậy? Em kiếm được ông bạn cũ rồi hả?”
“Ờ,” Charlie đáp.
Nó ngoái lại phía sau. Không có trong tầm nghe được, vì vậy nó mô tả được cuộc gặp với thầy phù thủy. Đám bạn nó đứng bất động giữa hành lang, dỏng tai lên chăm chú nghe.
“Vì thế mà dơi không biến thành vàng nữa,” Gabriel lầm bầm.
Bà giám thị sải bước về phía bọn chúng, la om tỏi:
“Tại sao ba đứa bây còn lớ xớ ở đây? Đi ngủ. Ngay!” Bà ta vỗ vỗ tay coi thật hung hãn.
Charlie thở phào nhẹ nhõm, những ngày còn lại trong tuần trôi qua mà không gặp phải những biến cố yêu thuật hay khốn đốn nào nữa. Mọi người thôi không nhìn nó một cách kỳ cục, cũng không xì xầm sau lưng nó nữa, và cho đến chiều thứ Sáu thì hầu hết cả trường đều bận rộn với vở kịch cuối học kỳ, họ đã quên hẳn “Ngày Thứ Hai Đen Tối Của Bone” rồi.
Charlie vẫn thường ao ước nó có thể tham gia vở kịch. Tất cả đám bạn nó đều có tham dự, nếu chúng không diễn xuất thì cũng trang trí phông nền, may trang phục, hay chơi nhạc. Ngay cả Billy Raven cũng được lôi kéo vô vai một tay trống tinh nghịch. Nhưng Charlie thì bị coi là vô dụng khi liên quan đến vui chơi giải trí.
Thế nhưng hôm nay, Charlie vui mừng vì được ra khỏi trường trong khi nhiều đứa khác phải ở lại để diễn tập. Tuy vậy, khi chiếc xe buýt trường về đến đường Filbert, bụng nó bỗng quặn lên, bồn chồn. Nếu Skarpo đã lẻn vô nhà mà nội Bone không trông thấy, thì ông ta đang ở đâu? Và ông ta đang làm gì?
Charlie xuống xe buýt và bước đi thật chậm dọc theo đường Filbert. Nó đang nghĩ đến cuộc mặc cả mà nó muốn thực hiện với Skarpo. Nó sẽ chỉ đồng ý đưa ông ta trở vô bức tranh khi nào ông ta có thể khuyên nó cách nào để Ollie Sparks hiện hình trở lại. Chắc chắn thầy phù thủy nào cũng phải biết cách làm điều đó.
Charlie leo lên những bậc cấp nhà số 9, vừa tính đi vô thì cửa đột ngột bật mở ra, và đứng sựng trước mặt nó là Skarpo.
“AAAA!” Charlie thét lên.
Thầy phù thủy cười, nhe hàm răng đen, và Charlie vội nhìn quanh xem có ai đang nhìn không. Nhưng chẳng có ai trên đường chú ý tới nó. Họ vốn đã quen với những cảnh tượng lạ lùng xảy ra với nhà số 9 rồi.
Thầy phù thủy nói cái gì đó, nghe như là “Vút!” và lôi Charlie qua ngưỡng cửa.
“Ông có ai thấy không?” Charlie thì thào. “Một phụ nữ? Một phụ nữ già ấy?”
Khong có phụ nữ nào,” Skarpo đáp.
Ông ta chụp cánh tay Charlie và lôi nó vô nhà bếp, nơi bức tranh đang dựng tựa vô một tô trái cây trên bàn. Skarpo hất đầu về phía bứa tranh và nói:
“Ngay!”
“Không phải ở đây,” Charlie nói. “Có người đi vô thì sao. Lên lầu.” Nó chỉ lên trần nhà.
Skarpo chụp lấy bức tranh và đẩy Charlie đi qua cửa. Ông ta vừa đi vừa liến thoắng, nhưng Charlie chẳng nhận ra được một từ nào. Vừa lầm rầm trong miệng, thầy phù thủy vừa đẩy Charlie lên lầu và đi dọc theo chiếu nghỉ tới phòng riêng của nó. Khi đã vô trong, Skarpo ngồi lên giường, để bức tranh trên đùi, quay mặt nhìn Charlie.
Thật kỳ quặc khi thấy thầy phù thủy ngồi đó, bộ râu quai nón đen bạc nhảy nhót lên xuống trong lúc nói, trong khi Skarpo của bức vẽ đứng bất động hoàn toàn trong căn phòng đầy ánh nến.
“Ngay bây giờ!” Skarpo gầm vang. “Đi mau!”
“Thật ra thì, sẽ không thực hiện thoe cách đó được,” Charlie nói. “Ông phải làm một điều cho cháu trước đã.;'>
“Trong vườn của bà Eustacia, chắc chắn. Bà ta trồng tất cả những thứ nào mà mày từng nghe nói tới. Nhưng ta khuyên mày đừng có léo hánh tới đó, Charlie. Đó là một nơi nguy hiểm.”
“Con không sợ,” Charlie nói. “Con đã tới đó rồi.”
“Ôi không, Charlie,” Ông cậu Paton rên rỉ.
Và rồi ông rơi vô một giấc ngủ đầy kích động khác, cứ ú a ú ớ, mắt nhắm nghiền, miệng méo xệch, răng nghiến trèo trẹo.
Tâm trí Charlie đã quyết, bằng cách nào đó rồi nó cũng sẽ tìm được cách lẻn vô vườn bà cô Eustacia. Nhưng trước hết, nó cần phải tìm hiểu xem có roi ngựa nó như thế nào đã. Nó không muốn bứt phải một thứ cây độc địa và chết người; mà nó không hề nghi ngờ là những thứ cây đó vẫn được trồng đầy quanh vườn bà cô Eustacia.
Sáng thứ Bảy, sau khi mẹ nó rời nhà đi chợ rồi, Charlie tới thăm cô Ingledew. Trong tiệm sách có một bầu không khí phấn chấn và tất bật thật đáng ngạc nhiên. Đó vốn thường là nơi yên tỉnh, nhưng hôm nay, Charlie thấy Olivia, Tancred và Lysander đi lại đĩnh đạc đằng sau quầy, đầu đội những chiếc mũ lông dị kỳ.
Emma và Tancred được phân công nhiệm vụ thiết kế mũ nón cho vở kịch, và Tancred rủ Lysander đi cùng để cho cậu ta vui lên. Rõ ràng là chiêu này có tác dụng. Không còn nghe thấy tiếng trống kinh khủng đeo đẳng theo Lysander nữa, thậm chí Lysander còn phá lên cười khanh khách khi Tancred thổi chiếc mũ lông vàng của nó bay lên trần nha2.
“Trông em nghiêm trọng quá vậy, Charlie,” Tancred nhận xét. “Đừng lo, tụi này không quên Ollie đâu. Bọn anh đang lập một kế hoạch, nhưng vở kịch đang cấp bách trước mắt mà.”
“Chính xác là vở kịch về cái gì vậy?” Charlie hỏi, thắc mắc về những cái nón hoa hòe hoa sói.
“Nó kiểu như một dạng pha trộn giữa Cái hộp quẹtMười Hai Công Chúa Nhảy Múa,” Olivia nói. “Tớ là một trong những nàng công chúa đấy.”
“Thế, ai đóng vai lớn nhất?”
“Họ chưa quyết định,” Olivia đáp. “Manfred muốn Lydia Pieman đóng vai chính. Tớ nghĩ hắn có cảm tình với chị ấy. Zelda sẽ ghen tị tới phát điên mất.”
Dì của Emma xuất hiện và nhắc bọn trẻ vui lòng thử nón ở trong phòng phía sau.
“Cô không muốn khách hàng nghĩ nơi này đã biến thành cửa hàng quần áo đâu đấy,” cô vừa nói vừa mỉm cười.
Charlie giải thích là nó tới không phải để thử nón, mà vì một nhiệm vụ khẩn cấp thì đúng hơn.
“Để giúp Ông cậu của cháu,” nó nói.
“Ra vậy,” cô Ingledew cố tỏ ra không lưu tâm, nhưng Charlie có thể thấy điều ngược lại.
“Bà nội của cháu một hai cho rằng cô đang theo đuổi Ông cậu Paton,” cô nói. “Cô muốn tỏ thái độ rõ ràng là cô hoàn toàn không phải như vậy.”
“Vâng ạ,” Charlie nói. “Vấn đề là, tình trạng của Ông cậu Paton đang xấu đi. Bây giờ ông không ăn gì nữa.”
“Ồ, Charlie, cô không hề biết. Ông cậu Paton đáng thương. Có phải… Cô ân hận quá,” cô Ingledew đột nhiên đầy vẻ kích động.
“Cháu nghe nói tới một loại cây thân thảo, gọi là cỏ roi ngựa, có thể chữa được cho Ông cậu,” Charlie nói.
Cô Ingledew nhíu mày:
“Cháu nghe thấy điều đó ở đâu?”
“Tớ đảm bảo là từ lão phù thủy,” Olivia chen vô.
“Đúng không?” Emma hỏi. “Đúng không, Charlie?”
“Kể cho mọi người nghe đi,” Tancred thúc giục. “Không anh thổi bứt áo chú mày ra bây giờ.”
Charlie vội tùm chặt lấy dây nịt của nó.
“Rồi rồi,” nó đồng ý, miệng cười toét.
“Cô không biết cháu đang nói về cái gì?” Dì của Emma nói. “Và cô cũng không chắc mình có muốn biết không.”
“Khổ một cái là cháu không biết cỏ roi ngựa nó ra sao,” Charlie nói. “Và cháu nghĩ thể nào cũng có hình nó ở một trong những cuốn sách tuyệt vời của cô.”
Vừa lúc đó có hai vị khách bước vô cửa hàng, và cô Ingledew bảo bọn trẻ vô kiếm trong đám sách ở trong phòng.
“Tra vần “T” để kiếm cuốn ‘Thảo dược với nghề trồng vườn’ xem.”
Chính Lysander là người kiếm thấy cuốn sách, một phần do nó là đứa cao nhất bọn, và tất cả những sách vần “T” đều nằm ở kệ trên cùng.
“Đây rồi!” Nó nói, đặt cuốn sách để mở lên bàn, và chỉ vô một bức hình. Cỏ roi ngựa hình như là một loài cỏ mọc thành bụi, là màu xanh lá cây-vàng, với những bông hoa li ti màu hoa cà ở đầu mỗi búp chồi.
“Sách ghi rằng, người ta đã từng tin là nó chữa trị được tất cả mọi thứ, kể cả là ma.”
“Thảo mộc linh thiêng,” Olivia đọc ghé qua vai Lysander. “Người La Mã dùng nó để trị bệnh truyền nhiễm, và để ngăn chặn yêu ma, tà thuật.”
“Em biết kiếm nó ở đâu rồi,” Charlie nói, nhìn đăm đăm vô bức tranh.
“Ở ĐÂU?” Cả bốn cặp mắt đều chĩa vô Charlie.
“Trong vườn của bà cô em,” nó nói. “Ở Ngách Tối.”
“Bọn này sẽ cùng đi với đằng ấy,” Olivia sốt sắng.
“Không cần…” Charlie vừa tính nói…
Thì Lysander đã cương quyết:\
“Cần chứ sao không cần. Tụi này sẽ đi. Anh cần phải làm cái gì đó hữu ích, không thì anh phát khùng mất.”
Charlie buộc phải thừa nhận là có bạn cùng đi tới Ngách Tối sẽ tốt hơn, dẫu có lo rằng năm đứa trẻ sẽ dễ gây chú ý tại cái nơi hoang lạnh, im lìm đó.
“Em bị dính với tụi này rồi,” Tancred thêm.
Năm người bạn rời tiệm sách, bảo với cô Ingledew là chúng đi kiếm cỏ roi ngựa. Cô thận trọng gật đầu, nhưng vì mải bận tiếp hai vị khách già đang tìm một cuốn sách nấu ăn, nên cô không thể hỏi bọn trẻ thêm câu nào nữa. Tuy nhiên, khi các khách hàng đã rời khỏi tiệm, nhìn thấy cuốn sách bọn trẻ vừa xem hồi nãy, cô xem xét kỹ bức tranh vẽ một loại cây rậm lá, có hoa màu tim tím.
“Một loại cây linh thiêng,” cô lầm thầm đọc, “tà thuật… yêu ma…”
Cánh cửa xịch ra, kèm theo một tiếng “koong” thật to, và hai đứa con gái bước vô tiệm.
“Tôi có thể giúp gì được nào?” Cô Ingledew hỏi.
“Chúng cháu không muốn mua sách,” con bé đẹp hơn, tóc vàng nói. “Chúng cháu đang đi kiếm mấy đứa bạn.”
“Tụi cháu nghĩ tụi cháu vừa thấy bọn nó đi ra khỏi tiệm sách của cô,” con bé kia tiếp; nó lùn hơn và phúng phính hơn người bạn đồng hành với nó.
“À, vậy là các cháu muốn gặp Emma, cháu gái của tôi,” cô Ingledew nói.
Hai vị khách của cô Ingledew giờ đã xộc vô tới quầy, và con bé tóc vàng quay ngược cuốn sách để mở lại và đọc:
“Cỏ roi ngựa. Thú vị làm sao!”
“Ờ,” dì của Emma nói, đóng cuốn sách lại.
“Vậy, cô làm ơn nói cho tụi cháu biết Emma và tụi kia vừa đi đâu, được không ạ?” Con nhỏ mập tròn hỏi.
“Tôi không biết.”
“À! Chúng cháu có hẹn gặp nhau mà,” con bé tóc vàng nói.
“Tiếc quá!” Cô Ingledew nói.
Cô linh cảm rõ ràng là hai đứa con gái kia đang nói dối. Cô không thích chúng, nhất là con nhỏ mặt đẹp. Hai mắt nó cứ đổi màu liên hồi, đó là điều gây khó chịu nhất.
“Thôi vậy,” con bé tóc vàng thở dài. “Chúng cháu đi đây, xem có đuổi kịp chúng không.”
Nó nhếch mép một nụ cười rộng ngoác, nhe hàm răng trắng bóng.
“Tạm biệt!” Cô Ingledew kẹp cuốn sách dưới tay và nhìn hai đứa con gái đi khỏi.
“Chúng muốn cái gì không biết nữa?” Cô lẩm bẩm.
Charlie và các bạn vừa tới Vòng Cung Ụ Xám, thì thấy một bóng người xộc ra từ một ngõ hẻm tối dẫn khỏi khúc cua.
“Bà cô Venetia!” Charlie thì thào với tụi bạn. “Lẹ lên! Trước khi bà ấy thấy tụi mình.”
Chúng băng vội qua đường, núp sau thân cây thông lớn ở giữa khúc cua, trong khi bà Venetia Yewbeam bước đều về phía đường cái. Bà ta xách một chiếc giỏ mua hàng bằng da bự, có in chữ “Y” màu vàng chói bên hông giỏ. Khi bà ta tiến tới gần hơn, Charlie kéo cả bọn núp xa hơn nữa dưới tàn cây. Bà cô của nó dừng lại, và trong một thoáng, Charlie tưởng bà sẽ băng qua đường và sục sạo. Nhưng sau vài giây, bà Venetia lại đi tiếp.
Khi bà cô nó quẹo ra đường chính rồi, Charlie dẫn cả đám cô con hẻm ảm đạm, mang tên Ngách Tối.
“Nơi gì mà thê lương,” Olivia thì thầm. “Ai mà muốn sống ở đây cơ chứ?”
“Máy bà cô của mình,” Charlie đáp.
Chúng đi qua những ngôi nhà vô chủ, nơi lũ chuột giật mình phóng khỏi thùng rác, và những kẻ lang thang càu nhàu từ dưới những bậc cấp tầng hầm nhớp nháp, và rồi chúng đối mặt với một loạt căn nhà số 13.
“Căn nào?” Lysander hỏi.
“Ừm, bà Venetia sống ở căn cuối. Như vậy, nếu tính theo tuổi tác thì bà cô Eustacia chắc phải sống ở căn chính giữa,” Charlie nói.
“Đằng ấy nghĩ bà ấy có ở nhà không?” Olivia hỏi.
“Không biết,” Charlie nói gọn. “Nhưng còn lâu mình mới gõ cửa hỏi.”
“Vậy làm sao tụi mình vô vườn được?” Emma nói.
Charlie chưa nghĩ tới điều đó. Hên là Tancred đã nghĩ tới rồi.
“Đằng này này!”
Tancred vẫy gọi cả bọn từ một cánh cổng nhỏ có chấn song sắt. Phía bên kia cổng, một lối hẹp chạy giữa nhà số 12 và nhà số 13. Rõ ràng, có một lối ra những khu vườn đằng sau nhà.
Cánh cổng kêu kít lên một tiếng thật lớn khi chúng bươn bà đi qua, và Charlie lo lắng liếc nhìn vô hông nhà số 13. Nhưng chỉ có một cửa sổ, tuốt trên bức tường cao, lại là cánh cửa có rèm kéo xuống.
Phía sau những ngôi nhà, những mảnh sân và vườn được phân ranh rõ rệt bằng những bức tường đá màu xám cao. Một lối hẹp chạy giữa những khu vườn của Ngách Tối và vườn của những căn nhà khác trong vòng cung. Nhưng, không giống như tường của những căn khác, tường của mấy căn nhà mang số 13 không có cổng.
“Em phải leo vô đi,” Lysander bảo Charlie. “Em có thể đứng lên lưng anh này.”
“Còn tụi này cảnh giới,” Emma bảo.
“Anh sẽ đi cùng Charlie,” Tancred nói.
“Không, để em” Olivia hét lên. “LÀM ƠN MÀ!”
“Suỵt!” Charlie nhắc nhở. “Cả hai cùng đi.”
Ngay khi Charlie leo lên lưng Lysander và nhìn qua tường, nó nhận ra n gay là mình cần phải có thêm hai cặp mắt nữa để phụ tìm kiếm. Khu vườn bạt ngàn cây. Những loại thân thảo, loại có hoa, loại cây bụi, và loại cỏ dại mọc san sát bên nhau trong khuôn viên những bức tường. Một thảm thực vật thật sự.
“Chao!” Olivia thốt lên khi trông thấy khu vườn. “Tụi mình phải bắt đầu từ đâu đây?”
Chúng quyết định sẽ đi thành hàng, khởi đầu tìm kiếm từ bức tường, đi dài ra tới ngôi nhà. Charlie thấy ngay là việc sẽ chẳng dễ gì. Cây cỏ ken đặc tới nỗi thật khó mà không dẫm lên chúng. Olivia, trong đôigiày tím gồ ghề, tàn phá cây nhiều hơn tụi con trai. Con nhỏ cứ hết trượt vô những bụi cây cao lớn nhất lại đạp phải những bụi hoa thanh mảnh nhất. Charlie cố không nhìn Olivia, mà tập trung hướng mắt vô đám cây trước mặt mình.
Thỉnh thoảng một đứa trong bọn phấn khích reo lên, “Đây rồi,” “Thấy nó rồi,” và rồi lại “Ồ, không phải.”
Khi chúng tiến gần tới ngôi nhà, bỗng Charlie nghe thấy cái gì đó rớt xuống bức tường chắn giữa vườn nhà bà cô Eustacia và sân nhà kế bên. Nó nhảy qua những lùm cây cuối cùng để coi đó là cái gì.
Một viên đá màu xám, trơn láng đậu ở trên mặt tường. Trong nó quen đến lạ lùng. Và rồi Charlie chợt nhớ ra.
“thầy Boldova,”ó là một cảm giác quái dị nhất, vì đôi bản tay ở sau lưng hình như đang thọc hẳn vô cơ thể nó, để chúng có thể vừa kéo vừa đẩy. Nó bắt đầu nghẹt thở trong đám mây bụi đang trôi ào ạt vô mặt. Nó nhắm mắt lại và hắt hơi dự dội.
Hỗn hợp quen thuộc của sáp đèn cầy và đồ thối rữa xộc đầy lỗ mũi Charlie. Nó dụi mắt và thấy, xa xa phía trước, ánh dèn cầy lập lòe. Giờ thì đã gần hơn, và rồi tới căn phòng của thầy phù thủy, chiếc bàn dài, những biểu tượng trên tường, cái đầu lâu dưới sàn. Và ở giữa phòng là chính được không, với ánh nhìn vô hồn trong đôi mắt vàng tối.
Chắc mẩm là mình sẽ rớt vô phòng của thầy phù thủy, Charlie ngạc nhiên thấy mình bổng dưng đang giật lùi lại. Nó vươn tay ra, cố túm lấy người đàn ông ở trong bức tranh, nhưng hai tay nó chỉ chụp được không khí. Nó đạp hai chân về phía trước, cố gắng chạm cho được mặt đất, rồi với một cú giật choáng váng, nó bị lật úp và rớt xuống.
Nó đáp xuống một cái “bịch”, đau điếng, vập mặt xuống sàn phòng. Đúng kế bên là thầy phù thủy đang nằm mẹp, với vạt áo thụng trùm ngược lên kín tới đầu. Từ bên dưới áo thụng thoát ra một tiếng rên rỉ bị nghẹt lại.
“Chuyện gì vậy?” Charlie thở dốc.
Thầy phù thủy tốc áo thụng ra khỏi mặt và ngồi lên. Ông ta lắc đầu một hồi và nói:
“Chụt!”
“Cái gì?” Hơi lảo đảo, Charlie đứng lên. “Ý ông muốn nói gì? Chúng ta sắp tới nơi rồi mà. Có chuyện gì vậy?”
“Khung có chụt,” Skarpo nói, giận dữ chỉ vô Charlie. “Ngưi đã ăn cắp chụt.”
“Chụt?” Charlie ngơ ngẩn nhìn thầy phù thủy mất một lúc, cố hiểu lời ông ta, và rồi cuối cùng, nó chợt hiểu ra.
“À, con chuột. Dĩ nhiên rồi, ông không thể trở về nếu không có con chuột. Cháu nghĩ mọi thứ phải đúng y như cũ, hệt như lúc ông đi ra.”
“Ừừ,” Skarpo rền rễm.
“Lần cuối cùng cháu trong thấy nó là nó ở trong phòng của Ông cậu cháu. Từ đó tới nay cũng lâu rồi.”
Skarpo bật đứng lên, lo lắng, không chịu rời mắt khỏi Charlie. Họ lao sang phòng của Ông cậu Paton. Cả hai cùng đồng thanh nói về con chuột bị mất và chuyến đi bất thành.
“Yên lặng coi,” Ông cậu Paton than van. “Đầu ta đang nứt đôi ra đây này, tại sao cái gã đàn ông này vẫn còn ở đây?”
“Cần phải kiếm con chuột, không thì ông ấy sẽ không thể nào về lại được.” Charlie giải thích.
“Lố bịch,” Ông cậu Paton nói. “Con chuột ấy biệt dạng lâu rồi. Các người sẽ không tìm thấy nó ở đây đâu. Nó ở đâu đó dưới ván sàn ấy. Chắc chắn ở đó có đủ vụn bánh cho nó ăn nhiều tháng liền.”
Skarpo rớt phịch xuống một chiếc ghế, hai tay ôm vùi lấy đầu, và thân mình bắt đầu lắc tới lắc lui, rền lên như còi hụ.
“Ôi trời ơi,”Ông cậu Paton giơ hai tay bịt chặt lấy tai. “Charlie, kiếm cho ta cái điện thoại.”
Ông cậu Paton đã tự sắm cho mình một chiếc điện thoại di động, để đặt hàng qua bưu điện. Ông thường sử dụng để đặt mua sách là chính, mặc dù thỉnh thoảng có những bộ đồ không đúng ni được gởi tới, chỉ để rồi nhanh chóng bị gởi trả lại.
Cuối cùng Charlie cũng tìm thấy điện thoại của Ông cậu, bị chôn vùi dưới một đống giấy trên bàn.
“Ông cậu tính làm gì vậy?” Nó hỏi, đưa điện thoại cho Ông cậu.
“Ta tính gọi cho ông Onimous,” Ông cậu Paton vừa nói vừa quay số, “những con mèo sẽ kiếm ra.”
“Những con mèo? Chúng sẽ giết nó mất.” Charlie la lên.
Ông cậu không đếm xỉa tới lời nó.
“Alô, ông Onimous đấy à,” ông nói, “Paton Yewbeam đây. Chúng tôi gặp chút rắc rối, Charlie và tôi và è… một người nữa. Tôi rất biết ơn nếu ông vui lòng mang những con mèo lửa nổi tiếng tới chỗ chúng tôi. Nếu chúng có sẵn ở đó, dĩ nhiên.”
Ông dừng lại khi một giọng nói nhẹ nhàng, trầm bổng rò rỉ ra khỏi điện thoại.
“Thế à? Thật tuyệt vời.” Ông cậu Paton liếc nhìn thầy phù thủy. “Nếu lẹ lẹ được thì quý hóa quá. Cám ơn ông!”
Skarpo đã thôi rền rú và đang ngó Ông cậu Paton với vẻ thích thú.
“Những ngón tay ngưi sờ vô có ma thuật,” ông ta nói, vẩy vẩy ngón tay về phía chiếc điện thoại.
“Ừ. Ông nói thế cũng được,” Ông cậu Paton đồng ý, tránh ánh mắt Charlie. “Giờ thì… ông… ông Skarpo phải không ạ? Đòi hỏi phải kiên nhẫn một chút. Rất mau thôi, một người bạn tốt của chúng tôi sẽ tới… tới giúp. Đồng thời, tôi bắt buộc phải đề nghị ông giữ im lặng. Như ông đã nhận thấy đấy, tôi chẳng được khỏe khoắn gì, và thêm một tiếng ồn ào nào nữa sẽ kết liễu tôi ngay. Cám ơn!”
Thầy phù thủy chăm chú lắng nghe những lời của Ông cậu Paton. Rõ ràng là Skarpo bị “khớp” lắm. Thỉnh thoảng ông ta lại ậm ừ trong cổ họng, nhưng ngoài những tiếng ấy ra, căn phòng yên lặng đến nỗi có thể nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường mà Ông cậu Paton để quên trong tủ ly tách.
Cả ngôi nhà cũng yên ắng, cho tới khi mẹ Charlie đi làm về. Charlie xuống lầu, vô nhà bếp để kể cho mẹ nó biết những chuyện đang xảy ra. Nó líu lưỡi nói mau tới nỗi tất cả những lời nói tuôn ra lộn xộn, nhưng cô Bone cũng nhanh chóng nắm được những ý chính mà Charlie đang cố diễn tả. Cô thả chiếc giỏ mua hàng và ngồi xuống.
“Kỳ lạ thật, Charlie. Ý con nói là một thầy phù thủy thời trung cổ… bằng xương bằng thịt… đang ngồi trong phòng của Ông cậu Paton?”
“Con nghĩ ông ta chắc chắn thuộc thời Tudo(°) hơn là thời trung cổ,” Charlie nói. “Cha ông ta có liên quan gì đó tới Mary, Nữ hoàng Scots.”
“Mẹ không thể hiểu nổi. Mẹ không ngờ là tài phép của con sẽ lại dẫn tới điều này. Bà nội của con có biết không?”
“Biết. Nhưng bà nội xỉu khi nhìn thấy ông ấy.”
“Mẹ chẳng ngạc nhiên.”
Chuông reng và Charlie chạy ra mở cửa.
“Chúng tôi tới đây, Charlie, hân hạnh phục vụ cậu,” ông Onimous nhảy tót vô hành lang, theo sau là ba con mèo.
“Xin chào quý bà,” ông nói khi cô Amy Bone lò đầu ra khỏi cửa.
“Xin ông cứ tự nhiên,” cô nói và rút vô nhà bếp.
Sự hiện diện của lũ mèo luôn luôn khiến Charlie cảm thấy vi sướng vô kể. Giống như là trong thấy mặt trời hiện ra sau một ngày mưa dầm, u ám. Chúng quấn quanh chân nó, cọ đầu vô đầu gói nó, và trám kín hành lang bằng những tiếng rừ rừ lớn, trong khi Charlie giải thích tình hình cho ông Onimous.
“Ông cậu Paton nghĩ những con mèo lửa có thể kiếm được con chuột,” Charlie nói, “nhưng chắc là chúng sẽ giết nó mất?”
“Ồ không. Không hề, nếu chúng biết người ta muốn chúng làm điều gì,” ông Onimous vội bảo. “Lên lầu, những con vật mỹ miều của ta!”
Lũ mèo nhảy phóng lên lầu, con Dương Cưu dẫn đầu, con Sư Tử màu cam theo sau, và con Nhân Mã vàng đi cuối cùng, trông tựa như một quầng sáng di động.
Rủi thay, nội Bone chọn đúng lúc này để mở cửa phòng bà ra.
“Mèo!” Nội thét ầm.
Con Dương Cưu liền quào vô bà, con Sư Tử rú lên và con Nhân Mã gầm gừ.
Nội Bone bước lùi vô phòng và đóng sầm cửa lại.
“Ta sẽ không ra cho tới khi những con vật đó cút khỏi nhà,” bà thét vang.
“Vậy càng tốt cho con,” Charlie lẩm bẩm.
Nó dẫn ông Onimous và lũ mèo vô phòng riêng của Ông cậu Paton. Tại đây, ông Onimous cúi xuống giường người bệnh và nói:
“Tôi có nghe nói đền nỗi hoạn nạn của ông, ông Yewbeam. Hãy nghỉ ngơi đi. Chắc chắn chúng tôi sẽ làm tất cả để giúp đỡ.”
“Cám ơn, Orvil,” Ông cậu Paton lào khào. “Nhưng chính người đàn ông kia mới lè kẻ cần được giúp nhất,” Ông cậu Paton chỉ Skarpo.
Ông Onimous nhảy lên một cái nhẹ. Ông đã không nhận ra thầy phù thủy, đang ngồi thu lu trên ghế bành đằng sau bàn làm việc của Ông cậu Paton.
“Ôi! Xin thứ lỗi, thưa ngài. Thật vinh hạnh. Orvil Onimous.”
Ông chìa một bàn tay có móng dài như vuốt ra.
Thầy phù thủy cho phép ông Onimous được bắt tay mình, nhưng dường như ông ta không nhận thấy ông Onimous. Ánh mắt ông ta đang dán tịt vô ba con mèo.
“Những con vật xinh đẹp,” Skarpo lẩm bẩm. “Những sinh vật cổ xưa. Không nghi ngờ, những con báo. Của ngưi hả?”
“Chúng không thuộc về ai cả,” ông Onimous đáp. “Tuy nhiên, chúng đã từng là của nhà Vua. Dĩ nhiên, tôi đang nói về Vua Đỏ.”
“Vua Đỏ. Ừ.” Skarpo gật đầu, mắt ông ta vẫn không rời lũ mèo, nhìn chúng hau háu.
“Ông không thể mang chúng trở lại cùng với ông đâu,” Charlie nói dứt khoát.
Bộ râu quai nón của Skarpo rung rinh.
“Ta không phải là ăn trộm, nhóc.”
“Chứ…”
Charlie ráng kìm nén để không nhắc tới cây gậy phép bị đánh cắp. Tình huống này đã đủ rối rắm rồi.
“Thế, bức tranh đâu, Charlie?” Ông Onimous hỏi.
Charlie phóng về phòng nó, mang bức tranh qua. Và ông Onimous, trỏ một ngón tay vô con chuột vẽ rồi nói:
“Thấy chưa, bọn mèo lửa? Cái con chuột đang thò đầu ra khỏi túi này này?”
Lũ mèo nhìn ngón tay của ông Onimous, và rồi hướng anh mắt quả quyết về phía Skarpo. Ánh mắt sáng quắc của chúng quét từ gương mặt tới một nếp gấp tối phía bên hông chiếc áo thụng của ông ta, nới mà, bây giờ, không có con chuột nào nữa. Óc tinh hiểu của chúng thật đáng kinh ngạc. Giây sau, chúng đã lùng sục khắp các phòng, dưới gầm giường, và ra khỏi cửa.
Charlie ngó ra hành lang để coi lũ mèo làm gì. Toàn bộ ngôi nhà tràn ngập ánh ánh sáng vàng rực; rồi đầy những tiếng vỗ nhỏ, tiếng cào nhẹ, tiếng meo và tiếng gừ gừ. Những móng vuốt khéo léo vặn nắm cửa, mở những ngăn tủ, nâng thảm, nhấc giấy, kéo rèm, lật tấm trải giường, mở ngăn kéo, xê dịch những thùng, hộp, giày, quần áo. Và rồi bộ ba dừng lại hít hít và lắng nghe.
Charlie nín thở và lắng nghe cùng với chúng. Không lâu sau. Một tiếng thụp đột ngột, một tiếng chít và một tiếng ngao. Sau đó, chúng chạy lên lầu. Nhân Mã đi trước, móng kẹp chặt một con chuột.
Lũ mèo lửa tuôn vô phòng Ông cậu Paton và con Nhân Mã meo lên thật to, đặt con chuột hoảng sợ, nhưng không bị xây xát gì, lên đùi thầy phù thủy.
“Chụt!” Skarpo la lên, chộp lấy con chuột. “Giỏi quá, những con vật dũng cảm.”
Ông ta vuốt đầu con mèo vàng. “Cám ơn, mày.”
Đút con chuột vô túi, Skarpo đứng lên, làm cử chỉ cúi chào Ông cậu Paton và ông Onimous.
“Thưa các quý ông, tạm biiiệcc!”
Rồi ông ta dựng bức tranh tựa vô một đống sách trên bàn làm việc của Ông cậu Paton và quay cho mặt Charlie đâu vô đó.
“Ngay!” Ông ta ra lệnh.
“Được.” Charlie nhìn Ông cậu và ông Onimous. “Các ông giúp con quay lại… nếu con bịt kẹt nhé?”
“Bọn mèo lửa sẽ bảo vệ an toàn cho cậu,” ông Onimous nói. Và lũ mèo tiến sát gần Charlie khi toàn bộ quy trình khó chịu, bị đẩy với lôi, bắt đầu lại từ đầu.
Nhưng lần này, trong khi Charlie vút đi, nó cảm thấy có một luồng khí ấm áp bao bọc lấy toàn thân nó, và khi nó nhìn đôi mắt vô hồn của thầy phù thủy, nó vẫn để ý thấy có những chùm ánh sáng đỏ và vàng ở bên cạnh mình. Khi con mắt của thầy phù thủy bắt đầu sống động lên, Charlie biết nó đã mang ông ta về nhà thành công. Bây giờ nó phải rút lui trước khi Skarpo bắt đầu giở trò bịp bợm.
Tuy nhiên, lần này xem ra Skarpo không hề có ý định dối gạt Charlie.
“Đi đi, Charlie Bone,” ông ta bảo, vẫy tay. “Và nhớ thảo dược cho cái ông đau mắt.”
Những gì xảy ra tiếp theo chắc chắn không phải là lỗi của Skarpo. Đằng sau chiếc bàn của thầy phù thủy có một cửa sổ, và ánh mắt của Charlie bị hút ra dải bờ biển lóng lánh bên ngoài kia. Nó chưa kịp tự lôi mình thoát khỏi, thì đã thấy mình đang bay qua cửa sổ.
Khi trôi trên mặt nước đầy ánh trăng, Charlie một lần nữa lại cảm nhận sự hiện diện ấm áp của những con vật tinh anh, và nó không sợ hãi. Mảng tối của một khu rừng nổi lên ở xa xa, và nó cảm thấy ngạt thở vì cố đoán xem việc gì sẽ xảy ra khi nó tiến lại gần hơn. Giờ, nó đang trôi trên rừng cây tới một nơi mà những chiếc là trên ngọn cao nhất rực rỡ ánh lửa.
Nó nhìn xuống một trảng trống, nơi có một người đàn ông đứng nhen một đống lửa. Người đàn ông này mặc áo thụng đỏ, da ông tiếp với màu nâu ấm áp của đất. Charlie cảm thấy ông là người buồn bã nhất thế giới.
Những tia lửa từ đống lửa bắt đầu bắn lên bầu trời, và khi người đàn ông ngước nhìn theo chúng thì ông trông thấy Charlie. Những nét buồn rầu rời khỏi gương mặt ông, và đột nhiên ông nhoẻn miệng cười rạng rỡ. Bằng giọng trầm lắng, du dương, ông gọi to ba cái tên, và ba con vật bước ra khỏi bóng tối. Ánh lửa nhảy múa trên bộ lông đốm nhạt của chúng, và chúng giương những đôi mắt vàng nhìn lên Charlie.
(°)Tudor: vương triệu Tudo (vua nước Anh) từ năm 1485-1603

Truyện Charlie Bone TẬP I - Lúc Nửa Đêm - - 1 -- - 2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - - 8 - - 9 - - 10 - - 11 - - 12 - - 13 - - 14 - - 15 - - 16 - ẽ tỉa vài lá cho con giấu dưới áo sơ-mi mang về. Phần còn lại thì cứ để ở đây khi nào con cần tới nó.”
Charlie trao cỏ roi ngựa cho bà Gunn và nhận hai ổ bánh mì chuối (một cho nó và một cho con Hạt Đậu), sau đó nó và Fidelio đem con chó vàng ra công viên chạy cho rộng cẳng.
Vào lúc 4 giờ, sau vài chiếc bánh mì kẹp nữa (phó mát Stilton (°), bơ đậu phộng, trứng và quả lý chua), Charlie rời Mái Ám Gia Đình Gunn và đem Hạt Đậu trở lại quán Cà Phê Thú Kiểng. Nó hứa với ông Norton là ngày hôm sau nó sẽ gọi điện lại, nhưng giờ nó lo quay về nhà trước khi mẹ nó gặp phải nội Bone đang giận dữ.
Tuy vậy, khi Charlie về tới nhà số 9 thì nội Bone đã rời nhà, và mẹ nó đang định pha cho Ông cậu Paton một tách trà.
“Để con làm cho, mẹ?” Nó nài nỉ.
Nó lôi vài búp cỏ roi ngựa từ dưới áo thun ra và đặt lên bàn.
“Con muốn Ông cậu Paton thử uống một ít cỏ này.”
Cô Bone nhíu mày:
“Con kiếm nó ở đâu vậy, Charlie?”
“Từ vườn của bà cô Eustacia,” nó thú nhận. “Đúng ra là con đã bứng trộm, và chắc sẽ có một chút rắc rối đấy.
Mẹ nó cười, vẻ lo lắng.
“Chắc chắn rồi,” cô nói. “Hy vọng là nó có tác dụng trước khi bà nội trở về.”
Rồi cô ngắt ra vài lá, để vô một cái tách, và đổ đầy nước sôi vô.
Charlie nhìn làn nước chuyện thành màu xanh lá cây tươi sáng. Trông màu nước thật nguy hiểm. Liệu thầy phù thủy Skarpo có lừa họ?
“Mẹ mong là nó lợi nhiều hơn hại,” co Bone bảo. “Coi bộ nó có đặc tính rất mạnh.”
“Đây là cơ may cuối cùng của Ông cậu Paton, mẹ à” Charlie nói liều.
Nó chờ cho trà cỏ roi ngựa nguội bớt, rồi đem tách trà lên phòng cho Ông cậu, cùng với số cỏ còn lại kẹp dưới nách.
Ông cậu Paton đang nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Những tấm rèm được kéo xuống, và nhìn luồng ánh sáng heo hắt lọt vô căn phòng, không ai có thể đoán được rằng ngoài kia là một buổi chiều hè nắng gắt.
Charlie đặt tách trà lên bàn bên cạnh giường của Ông cậu và thì thào:
“Ông cậu Paton, con mang trà cho Ông cậu nè.”
Ông cậu Paton rên rỉ.
“Làm ơn nhấp một ngụm đi. Nó sẽ làm Ông cậu khỏe hơn.” Charlie nói.
Ông cậu Paton chống một cùi trỏ, nhổm người lên.
“Đây,” Charlie chìa tách trà ra.
Mắt Ông cậu Paton vẫn nhắm lơ mơ, và bàn tay ông run rẩy khi cầm lấy cái tách. Charlie nhìn trân trối khi Ông cậu nó nâng tách trà lên môi.
“Nào,” Charlie thúc giục. “Uống đi.”
“Bất cứ ai cũng sẽ nghĩ là mày đang cố sức đánh thuốc độc ta.” Ông cậu Paton phát ra một âm thanh nghẹn ứ, ngồ ngộ, mà chắc hẳn là một tiếng cười phá lên.
“Con đang cố giúp Ông cậu mà,” Charlie thì thào đầy nhiệt thành.
Ông cậu nó mở hẳn mắt ra và nhìn Charlie.
“Tốt,” ông nói, đoạn hớp một ngụm trà.
“Ợợ! Cái gì thế này?”
“Cỏ roi ngựa đó,” Charlie đáp. “Ông cậu có nhớ thầy phù thủy Skarpo nói rằng nó có thể chữa khỏi cho Ông cậu không. Con có mang theo chỗ còn lại đây này.”
Nó đặt mấy cành cỏ có cả lá lên giường Ông cậu.
“Trông như cỏ dại,” Ông cậu Paton quan sát. “Ta có thể đoán chắc là mày vừa mới ở đâu về, Charlie,” ông cười khà khà và nhấp thêm một ngụm nữa, rồi một ngụm nữa.
Charlie chờ trong khi Ông cậu uống cạn tách trà.
“Không tệ,” Ông cậu Paton lầm bầm. “Không tệ chút nào. Chúa phù hộ cho mày, Charlie.”
Ông nằm lại xuống gối và nhắm mắt lại.
Charlie đón lấy cái tách không từ tay Ông cậu và rón rén đi ra khỏi phòng.
“Có tác dụng không?” Cô Bone hỏi ngay khi Charlie trở lại nhà bếp.
“Con không biết, mẹ. Nhưng Ông cậu có vẻ dịu hơn. Phải đợi một lúc mới biết chắc được.”
Hai mẹ con bỗng nhiên nói chuyện thật khẽ và di chuyển thật nhẹ nhàng hết sức. T.V là dẹp, không bàn tới. Như thể không khí trong nhà bỗng tràn ngập những tâm linh mong manh và huyền bí, mà luồng gió nhẹ nhất hay âm thanh nhỏ nhất cũng có thể phá vỡ.
Trời sập tối dần, nhưng nội Bone vẫn chưa về nhà. Charlie tưởng tượng về một cuộc họp đang diễn ra ở Ngách Tối. Có thể họ đang bàn kế hoạch nhằm đặt nó vô đúng vị trí, một lần cuối rồi thôi. Nó liếc nhìn mẹ, đang đọc sách ở bên bàn bếp, và hy vọng rằng cho dù chuyện gì xảy ra tới với nó chăng nữa, thì cũng sẽ không làm đau lòng mẹ nó.
Thình lình, cô Bone ngước lên khỏi trang sách.
“Con có nghe thấy không?”
Charlie có nghe. Ở trên lầu, một cánh cửa đang mở ra. Ván sàn rung cót két. Một thoáng sau, có tiếng nước chảy. Bồn tám đang hứng nước.
Khi vòi nước ngừng chảy, không gian im ắng tới độ Charlie có thể nghe thấy cả nhịp tim của chính nó. Và rồi, một mùi hương lạ lặng lẽ phủ trùm khắp ngôi nhà, một mùi hương pha lẫn phép thuật.
(°) Phó mát Stilton: một loại phó mát của Anh, có màu trắng và những đường chỉ màu xanh lục, rất nặng mùi.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: hoalacocay
Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Nhà xuất bản Trẻ
Được bạn: Ct.ly đưa lên
vào ngày: 28 tháng 6 năm 2011

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--