Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 4 -
NHỮNG CON MÈO LỬA

Charlie tê cứng người. Nó không ngờ đã bị ông cậu trông thấy. Nhưng rồi câu hỏi kia lại vang lên, “Charlie, tại sao mày lại bám theo ta?”
Từ sau một thân cây, Charlie bước ra.
“Sao ông cậu biết?” Nó lí nhí.
Ông cậu Paton quay lại nhìn nó.
“Nếu đúng như mày đang nghĩ, thì ta trả lời luôn: ta không có mắt sau gáy.”
“Không, con không nghĩ thế,” Charlie nói. “Nhưng làm sao ông cậu biết?”
“Nhóc, ta thấy mày ngay lúc quẹo ở góc đường. Thật ra ta cũng có đoán trước. Ta nghĩ mày cũng khó mà ngủ được sau buổi tối hãi hùng vừa rồi.” Ông cậu Paton cười nhếch mép.
“Tài phép của ông cậu đó hả?” Charlie hỏi. “Kích sáng bóng đèn ấy?”
“Đáng khinh quá phải không? Ta hỏi mày chứ cái trò đó được tích sự gì? Giá mày đừng thấy thì hơn.”
Ông cậu Paton ngắm nghía mấy ngón tay chắc khỏe của mình:
“Nào, đưa mày về thôi. Tối nay ta làm đủ rồi.”
Ông nắm tay Charlie và cả hai cùng đi về nhà.
Charlie đã nhìn thấy một khía cạnh mới của ông cậu. Nào có mấy người chỉ cần đứng đó không thôi mà kích được bóng đèn. Đúng ra, theo như nó biết, thì trước nay chưa có ai làm được điều này. Đèn điện hết sức cần cho cuộc sống về đêm của một thành phố. Ông cậu Paton hẳn đã có lúc tung hoành dưới phố - nơi mà ánh đèn lấp lánh và rực rỡ tứ bề.
“Đã bao giờ ông cậu… ừm… Ông cậu làm như vừa nãy với nhiều bóng đèn cùng lúc chưa?” Charlie hỏi. “Tỉ như ở nhà hát, rạp chiếu bóng hay là quán rượu ấy?”
Mất một lúc, Charlie nghĩ là Ông cậu Paton sẽ không trả lời, và lẽ ra nó không nên hỏi, thì ông bỗng lầm bầm:
“Có, cách đây lâu rồi. Ta đã làm điều đó vì một cô gái.”
“Ui! Chắc cô ấy ngạc nhiên lắm?”
“Cô ấy chạy mất,” Ông cậu Paton buồn rười rượi, “và không bao giờ nói chuyện với ta nữa.”
“Con hiểu rồi. Vậy ông cậu ra đường ban ngày không an toàn hơn sao? Ý con là, ban ngày thì không có nhiều đèn sáng.”
“Hừ! Mày giỡn chắc,” Ông cậu nói. “Mặt tiền của tiệm nào mà chả có đèn trưng hàng. Đâu đâu cũng có đèn. Vả lại ban ngày người ta sẽ trông thấy ta. Ngoài ra, cũng thành thói quen mất rồi. Chẳng qua ta không thích ánh sáng ban ngày nên không muốn phơi ra thôi.”
Họ về đến cửa nhà số 9, và Charlie vội vã trèo lại lên giường trước khi có ai đó trong nhà thức giấc. Nó thiếp đi ngay tức thì và mơ thấy Ông cậu Paton kích đèn trên mọi vì sao, cho đến khi tất cả nổ tung, hệt như pháo bông.
Sáng ra, Charlie tỉnh giấc với cảm giác bứt rứt khó chịu. Dù thích hay không, chẳng bao lâu nữa nó sẽ phải vô Học viện Bloor. Chỉ nghĩ thế thôi đã khiến nó phát bệnh. Cố lắm cả bữa sáng nó cũng chỉ nuốt được một lát bánh mì nướng. Nó cũng không hề đụng tới món trứng và thịt xông khói mà ngoại Maisie đã đặt trước mặt.
“Thằng nhỏ lo đấy. Đúng không, con?” Ngoại Maisie chặc lưỡi. “Cái nhà Yewbeam khốn khổ ấy. Sao con lại phải đến cái trường to đùng xấu xí đó chớ? Tụi ta sẽ ra tiệm kẹo mua một ít sô-cô-la cho con vui lên vậy.”
Nội Bone không có mặt. Bà luôn dùng điểm tâm trong phòng riêng. Còn Ông cậu Paton thì chỉ ăn vào đêm khuya, như Charlie trước giờ vẫn thấy thế.
Nó liếc mẹ nó, trông cô như đang ở trong một giấc mơ màng, cách xa đâu đó hàng hàng dặm.
“Con có phải mặc đồng phục đặc biệt gì không, mẹ?” Nó hỏi.
Mẹ nó giật mình ngước lên. “Áo chùng xanh,” cô đáp. “Các nhạc công mặc màu xanh. Xanh ngọc bích, một màu tuyệt đẹp.”
“Nhưng con không phải là nhạc công,” Charlie phản đối.
“Biết vậy,” mẹ nó đồng ý. “Nhưng họ không có khoa nào hợp với tài phép của con, Charlie à. Con sẽ được xếp vô khoa nhạc, giống như ba con. Có những lớp học sáo. Mẹ chắc sẽ như vậy.”
“Thế nữa?” Charlie nghi ngờ. Nó chưa bao giờ giỏi nhạc và nó chỉ thổi sao khi nào bị bắt phải thổi. “Khi nào thì con phải bắt đầu?”
“Nội trong vòng một tháng,” mẹ nó đáp.
“Lẹ vậy sao?” Charlie hốt hoảng. “Ngay giữa học kỳ?”
“Mẹ xin lỗi, Charlie,” mẹ nó nói, vẻ ân hận. “Nhà Yewbeam nghĩ như thế là tốt nhất. Họ bảo không được để phí một ngày nào, bởi vì con… à không… bởi vì họ đã dứt khoát.”
“Tội nghiệp thằng bé,” ngoại Maisie lẩm bẩm.
Trời lại đổ mưa, ngoại Maisie lôi ra một cái áo mưa màu hồng tươi. Mẹ Charlie rút từ tủ âm tường ra một cây dù. Cô không thích mặc áo mưa.
“Ngoại với mẹ ra cửa hàng không lâu đâu,” cô bảo Charlie. “Con có muốn mẹ lấy tấm hình về lại không?”
Charlie hầu như đã quên phéng tấm hình thiệp sinh nhật của Benjamin. Không rõ vì sao lúc này nó hơi do dự, thấy mất tấm hình luôn cũng được.
“Thôi,” nó đáp. “Nhưng mẹ mua cho Benjamin một tấm thiệp sinh nhật được không? Chắc con không dùng hình con Hạt Đậu nữa đâu.”
Ngoại Maisie và mẹ vừa đi khỏi. Charlie tót lên lầu, vớ lấy chiếc phong bì màu cam. Nó mới mở phong bì, rút tấm hình ra thì nghe có tiếng chuông cửa. Chẳng ai ra mở. Chắc chắn nội Bone đã ra phố, còn Ông cậu Paton thì ban ngày đến chuông điện thoại còn không trả lời nữa là chuông cửa.
Vẫn cầm tấm hình trên tay, Charlie lao xuống mở cửa.
Một người đàn ông lạ hoắt, đứng ngay bậc thềm. Lạ hơn nữa, có ba con mèo quẩn quanh chân ông.
“Onimous và Những Con Mèo Lửa,” người đàn ông tự giới thiệu. “Đội diệt chuột.” Ông moi từ trong chiếc áo khoác giả lông ra một tấm danh thiếp.
“Onimous?” Charlie hỏi.
“Phải,” người đàn ông nói. “Onimous. Có hơi khác một tí. Orvil. Orvil Onimous.” Ông cười với Charlie một nụ cười thật rộng, phô cả hàm răng sắc bóng. “Tôi tin là nhà ta đang có vấn đề. Chuột hả?”
Đoạn ông thực hiện một cú nhảy thật tức cười, rồi đáp xuống ngay cạnh Charlie.
“Cháu không biết,” Charlie đáp. Nó vẫn được dặn là không để cho người lạ vô nhà. Nhưng cái ông này đã lọt vô nhà mất rồi. Nó hỏi: “Có người gọi ông đến hả?”
“Có một cái gì đó gọi tôi đến. Ngay lúc này thì tôi không thể nói được đó là thứ gì. Có thể cậu sẽ không tin tôi.”
“Thật thế á?” Charlie nổi cơn tò mò.
Lũ mèo nãy giờ vẫn theo bén gót ông Onimous, giơ đi đi lại lại vơ vẩn dọc hành lang ở cửa ra vô. Chúng là những con mèo lạ lùng nhất. Con đầu tiên màu đồng rực, con thứ hai màu cam tươi và con thứ ba màu vàng chói. Con màu đồng có vẻ như biết Charlie. Nó đứng lên trên hai chân sau và lắc nắm cửa nhà bếp cành cạch.
“Bình tĩnh nào, Dương Cưu,” ông Onimous nhắc. “Mi sẽ không bao giờ học được sao?”
Con Dương Cưu đã xoay được nắm đấm cửa. Cửa nhà bếp bật mở và con mèo phóng vô trong, theo sau là hai con kia.
“Xin lỗi về chuyện này,” ông Onimous nói. “Nó là một con nóng nảy, con Dương Cưu ấy. Con Sư Tử cũng hơi có tí huênh hoang, nhưng con Nhân Mã lại rất có phong cách. Xin lỗi, tốt hơn là tôi phải dòm chừng chúng.”
Trước khi Charlie kịp quay lại, ông Onimous đã sượt qua mặt nó và phóng vô nhà bếp, gọi “Bọn Mèo Lửa, đừng có làm ta mất mặt đấy. Làm ăn tử tế coi nào.”
Giờ thì cả ba con mèo đang đi đi lại lại trước cái kho chứa thực phẩm. Charlie nhớ ra mớ trái cây nẫu, và trước khi đám mèo tự mở bung một cánh cửa nữa, Charlie mở cánh cửa đó ra cho chúng vô.
Thế là bắt đầu những cú vồ, cú phóng cùng những tiếng gầm gừ. Rõ ràng là trong kho đầy chuột. Loáng một cái, bọn mèo đã tóm gọn lũ chuột, hết con này đến con kia, rồi xếp những cái xác chuột thành hàng ngay ngắn dọc theo bờ tường.
Charlie lùi ra xa. Trước giờ nó không hề biết là trong kho thực phẩm có chuột. Sao ngoại Maisie và mẹ nó cũng không nhận ra nhỉ? Có lẽ lũ chuột mới kéo đến hồi sáng này, do mùi trái cây thối đưa đẩy. Charlie khá là thích chuột, cho nên nó ước gì không phải chứng kiến cảnh hàng thây xám ngoét đang ngày càng dài thêm.
Khi hàng xác đã dài được mười lăm con, lũ mèo tỏ vẻ đã hoàn tất công việc. Chúng ngồi xuống và liếm cật lực bộ lông tinh tươm của mình.
“Một tách cà phê có được không nhỉ?” Ông Onimous hỏi. “Tôi mệt lả rồi.”
Charlie thấy rõ nãy giờ ông Onimous không hề nhấc một ngón tay, chẳng làm tí gì để gọi là cực nhọc cả. Bọn mèo quán xuyến hết. Nhưng ông Onimous đã ngồi vô bàn ăn, nhìn hau háu vô ấm nước. Charlie không nỡ lòng nào làm ông thất vọng. Tay nó vẩn cầm tấm hình, cho nên nó đặt tấm hình xuống và đi rót nước vô ấm.
“A,” ông Onimous kêu lên. “Đây rồi. Cái này sẽ giải đáp được mọi chuyện.”
“Cái gì giải đáp ạ?” Charlie nhìn vô tấm hình, mà lúc này ông Onimous đang giơ ra trước ánh sáng.
Ông Onimous chỉ con mèo ở cuối tấm hình. “Con Dương Cưu đấy,” ông giải thích. “Cách mấy năm rồi, nhưng nó vẫn không quên. Nó biết là cậu đã phát hiện ra nó. Chính vì thế mà nó dẫn tôi tới đây.”
“Sao cơ?”
Charlie cảm thấy xây xẩm. Nó ngồi phịch xuống.
“Có phải ông nói đó là con Dương Cưu?” Nó chỉ vô con mèo màu đồng, “Con Dương Cưu biết cháu đã xem hình nó?”
“Không hẳn thể,” ông Onimous gãi đầu trông như lông thú của mình. Charlie nhận thấy móng tay ông cần phải được cắt tỉa đến nơi đến chốn. Ngoại Maisie không bao giờ để sống một ai có mớ móng tay dài ngần ấy.
Ấm nước sôi e e và Charlie pha cà phê cho ông Onimous. “Ông uống cà phê như thế nào?” Nó hỏi, đặt cái tách trước mặt vị khách.
“Vui lòng cho ba cục đường.” ông Onimous đáp.
Charlie nóng lòng thảy ba cục đường vô tách cà phê.
Ông Onimous hớn hở hẳn lên. Ông nhấp một ngụm, mặt lại sáng lên lần nữa, và rồi, chồm gần tới Charlie, ông nói, “Nó biết cậu đã được nối kết, con Dương Cưu ấy. Và đúng vậy; cậu có tấm hình. Những con mèo này không phải là mèo bình thường; chúng hiểu chuyện. Chúng chọn tôi vì tôi có phong thái đặc biệt đối với thú vật. Chúng dẫn tôi đi đây đi đó, cố dẹp trừ bọn gian tà. Tôi chỉ đi theo và giúp đỡ khi có thể. Trường hợp này,” ngón tay ông chạm vô người đàn ông ẵm đứa nhỏ, “là tệ hại nhất. Con Dương Cưu lúc nào cũng điên tiết lên về chuyện ấy. Biết bao lần nó cố lập lại trật tự, nhưng chúng tôi cần cậu, Charlie”
“Cần cahu1?” Charlie hỏi.
“Cậu là một trong những người có phép thuật, đúng không nào?” Ông Onimous hạ giọng, như thể đó là một bí mật, không biết nói to lên.
“Họ nói thế,” Charlie đáp. Nó không thể không nhìn vô tấm hình, theo ngón tay ông Onimous chỉ mà như buộc tội lên mặt người đàn ông. Ngay khi vừa nhìn vô, Charlie nghe tiếng đứa bé khóc.
Con Dương Cưu xồ tới, bám những cái vuốt lên dùi Charlie, gào lên một tiếng xé màng nhỉ. Tiếng gào của nó lập tức được con Sư Tử cam và con Nhân Mã vàng hưởng ứng. Tiếng ồn thật khủng khiếp, Charlie phải dúm người lại, áp tay bịt chặt vô lai lỗ tai.
“Im” Ông Onimous ra lệnh. “Cậu nhỏ đang suy nghĩ.”
Đợi tiếng gào của lũ mèo tắt hẳn, ông Onimous nói:
“Cậu thấy đấy, cậu đúng là có liên hệ với tấm hình. Giờ hãy kể cho tôi nghe tất cả về việc này đi.”
Mặc dầu rõ ràng là lập dị, nhưng trông ông Onimous rất tử tế, đáng tin cậy, và Charlie thì đang hết sức cần có sự trợ giúp. Nó kể cho ông Onimous nghe về cuộc náo loạn với những tấm hình, những giọng nói, những bà cô khủng khiếp nhà Yewbeam và quyết định của họ gởi nó đến Học viện Bloor. “Và thực lòng cháu chẳng muốn tới đó.” Charlie kết luận. “Cháu nghĩ cháu thà chết còn hơn.”
“Nhưng, Charlie à, đó là nơi cô bé đang ở,” ông Onimous giảng giải, “đứa bé mất tích ấy. Ít nhất thì đó cũng là suy luận của con mèo. Và chúng không bao giờ sai.”
Ông đứng lên, “Nào nào, lũ mèo, chúng ta phải đi thôi.”
“Ông bảo đứa bé trong hình bị mất tích sao?” Charlie hỏi. “Làm thế nào mà người ta có thể đánh mất một đứa bé?”
“Tôi không nói được,” ông Onimous bảo. “Cậu hãy mang tấm hình trả lại đúng chỗ của nó, và có lẽ người ta sẽ nói cho cậu biết.”
“Nhưng cháu không biết nó là của ai,” Charlie nói, bắt đầu phát hoảng. Ông Onimous sắp sửa biến đi mà chẳng giúp được nó cái gì.
“Dùng cái đầu của cậu đi, Charlie. Đó là tấm ảnh phóng to chứ gì? Hãy tìm bản gốc, cậu sẽ thấy trên đó ghi một cái tên và địa chỉ.”
“Thật à?”
“Chắc chắn,” ông Onimous vuốt vuốt mặt nhung mịn màng của tấm áo choàng, bẻ cổ áo lên và hướng ra cửa.
Charlie đứng đực ra, bối rối, những câu hỏi nổ bong bong trong đầu. Khi chạy ra được tới cánh cửa vẫn còn để mở, thỉ tất cả những gì của vị khách mà nó có thể thấy được chỉ còn là một cái bóng đang bé lại, biến mất dần, theo sau là môt dải màu nóng, giống như cái đuôi rực rỡ của một ngôi sao chổi.
Charlie đóng cửa lại rồi vọt lên lầu. Chụp vội chiếc phong bì màu cam, nó lắc lấy lắc để và từ đó rơi ra một tấm hình nhỏ - bản gốc của tấm hình phóng to dưới nhà. Nó lật mặt sau ra, quả đúng vậy, có một cái tên và một địa chỉ được viết theo lối chữ in đậm, bay bướm:
Cô Julia Ingledew
Nhà số 3 phố Nhà Thờ
Phố Nhà Thờ ở đâu, và lám cách nào mà tới được đó? Bắt buộc nó phải rời nhà trước khi ngoại Maisie và mẹ về. Họ sẽ không đời nào đồng ý cho nó lang thang một mình, tới một nơi mà nó không biết. Và nếu nó không hành động ngay bây giờ, không chừng sẽ không kịp về dự sinh nhật Benjamin. Nhưng nó phải để lại tin nhắn kẻo mẹ lại lo sốt vó.
Theo như Charlie nhớ thì nó chưa từng bao giờ vô phòng Ông cậu Paton. Tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY treo thường trực trên cánh cửa. Dạo này Charlie bắt đầu thắc mắc ông cậu làm cái gì suốt ngày trong đấy. Thỉnh thoảng có tiếng thình thịch nho nhỏ vọng ra. Còn thường thì im lặng.
Hôm nay Charlie sẽ phải làm ngơ tấm biển.
Nó gõ cửa, ban đầu ngập ngừng, sau mạnh dần lên.
“Gì đó?” Giọng Ông cậu Paton cáu kỉnh.
“Ông cậu Paton, cho con vô nghe?” Charlie hỏi.
“Chi vậy?” Ông cậu Paton hỏi.
“Vì con phải đến chỗ kia, và con muốn ông cậu giải thích cho mẹ con.”
Một tiếng thở dài thượt. Charlie không dám mở cửa cho đến khi tiếng ông cậu lạnh lùng:
“Vô đi, nếu mày thấy cần phải vô.”
Charlie vặn nắm đấm cửa và lách vô. Nó bật ngửa trước những gì trông thấy. Phòng ông cậu ngập ngụa những giấy là giấy. Giấy treo tòn teng trên kệ, giấy rơi lả tả trên bậu cửa sổ, giấy phủ hết mặt bàn giấy, giấy quấn dập dềnh như thủy triều quanh mắt cá chân ông. Cái giường kê ở đâu nhỉ? Có lẽ là dưới một đống mền bằng sách, Charlie đoán vậy. Sách xếp đầy hết những bức tường, nghễu nghện từ sàn tới trần nhà, thậm chí sách còn leo lên quanh bàn thành từng chồng cao xiêu vẹo.
“Sao?” Ông cậu Paton hỏi, ngước mắt lên từ sau một ụ giấy.
“Ông cậu làm ơn cho con biết phố Nhà Thờ ở đâu được không?” Charlie hồi hộp hỏi.
“Chứ mày nghĩ nó ở đâu? Dĩ nhiên là cạnh nhà thờ rồi.”
Vào ban ngày, Ông cậu Paton là một người khác hẳn - lạnh nhạt và đầy hăm dọa.
“Ô,” Charlie kêu lên, thấy mình đúng là thằng khùng. “Vâng, con sẽ tới đó ngay bây giờ. Nhưng ông cậu nói với mẹ con được không? Mẹ con sẽ muốn biết con đi đâu và…”
“Ừ, ừ,” Ông cậu Paton lầm bầm, kèm theo cái phát tay nhẹ hều, ra hiệu cho Charlie biến đi.
“Cảm ơn, ông cậu,” Charlie líu ríu, ráng đóng cửa lại khẽ khàng hết sức.
Nó trở về phòng riêng, hối hả khoác lên cái áo gió, nhét vội tấm hình vô chiếc phong bì màu cam, bỏ vô túi. Rồi nó ra khỏi nhà.
Từ cửa sổ phòng mình, Benjamin thấy Charlie đi ngang qua, vẻ kiên quyết.
Nó mở cửa sổ ra và hỏi với theo:
“Bồ đi đâu đấy?”
Charlie ngẩng lên.
“Tới phố Nhà Thờ.”
“Mình với con Hạt Đậu đi theo được không?” Benjamin hỏi.
“Không,” Charlie gạt phắt. “Mình đi mua quà cho bồ. Bồ sẽ phải ngạc nhiên cho coi.”
Benjamin đóng cửa sổ lại. Nó tự hỏi liệu Charlie sẽ kiếm được thứ quà quỷ quái gì trong nhà thờ? Một cây viết khắc tên cái nhà thờ ấy à? Nhưng nó có khối viết rồi.
“Hừ, tao chả quan tâm,” Benjamin thì thầm với con Hạt Đậu. “Miễn là nó đến dự sinh nhật tao.”
Con Hạt Đậu quật đuôi đùm đụp xuống cái gối của Benjamin. Nó đang nằm ở nơi mà nó không được phép nằm: trên giường. May là không ai ngoài Benjamin biết chuyện này.
Nhà thờ nằm trong khu phố cổ. Những con phố rải sỏi hẹp ti tí. Những cửa hàng còn bé hơn; và trong những ô kính được thắp sáng dìu dịu, quần áo cùng đồ trang sức đắt tiền được trưng trên những súc lụa và nhung. Trông dãy phố như thể là nhà riêng của ai đó giàu có, đến nỗi Charlie có cảm tưởng rằng mình đang xâm phạm bất hợp pháp chốn này.
Khi ngôi nhà thờ cổ kính lù lù hiện ra phía trên đầu, thì cũng là lúc những cửa hàng nhường chỗ cho một dãy nhà cũ kỹ. Thế nhưng, nhà số 3 phố Nhà Thờ lại là một hiệu sách. Trên cửa gắn một tấm biển đề: TIỆM SÁCH INGLEDEW – theo kiểu chữ cổ. Sách nằm trong những ô kính bày hàng trông xưa cũ và bụi bặm. Có vài cuốn được bọc da, với gáy sách mạ vàng.
Charlie hít một hơi thật sâu rồi bước vô. Một tiếng chuông khẽ ngân lên ngay lúc nó đặt chân vô tiệm, và một phụ nữ xuất hiện nơi tấm rèm quây phía sau quầy thu ngân. Cô ấy không già như Charlie nghĩ, nhưng chừng cỡ tuổi mẹ nó. Mái tóc dày màu hạt dẻ chải dựng trên đầu và đôi mắt màu nâu nâu.
“Chào cháu, cháu cần gì nào?” Người phụ nữ hỏi.
“Có ạ. Cô là Julia Ingledew phải không ạ?”
“Phải.” Người phụ nữ gật đầu.
“Cháu đến về chuyện tấm hình của cô,” Charlie nói.
Người phụ nữ vội đưa tay lên bụm miệng.
“Trời!” Cô nói. “Cháu tìm thấy nó à?”
“Vâng ạ,” Charlie nói, đoạn đưa ra chiếc phong bì màu cam.
Người phụ nữ mở phong bì và hai tấm hình rơi xuống mặt bàn.
“Ôi, cám ơn,” cô kêu lên. “Cô không biết nói với cháu làm sao, nhưng có lại được mấy tấm hình này cô mừng quá.”
“Vậy cô có cầm tấm hình của cháu không?” Charlie hỏi. “Tên cháu là Charlie Bone.”
“Vô đây,” cô Ingledew nói, ngoắc cho nó theo cô đi qua tấm rèm.
Charlie cẩn thận bước vòng qua quầy thu ngân, chui khỏi tấm rèm che bức tường sách. Nó thấy mình lọt vô một căn phòng chả giống hiệu sách tí nào. Cũng lại là sách, nhưng được cột chặt trên kệ hoặc xếp thành đống ngổn ngang. Đó là một căn phòng ấm cúng, đại loại vậy; đậm đặc hương của những từ hoa mỹ và những ý tưởng thâm sâu. Một ngọn lửa cháy lép bép trong cái lò sưởi nhỏ xíu, và những chiếc đèn bàn hắt ánh sáng qua những cái chụp đèn màu da thuộc.
“Đây rồi,” cô Julia Ingledew ồ lên và cô lôi ra từ ngăn kéo một chiếc phong bì màu cam.
Charlie cầm lấy cái phong bì và hấp tấp mở ra. “Vâng, đúng là con Hạt Đậu,” nó nói, “Con chó của bạn cháu. Cháu tính làm một tấm thiệp sinh nhật từ hình này.”
“Ý hay đó,” cô Ingledew trầm trồ. “Riêng tư hơn. Cô luôn thích những gì riêng tư. Nó chứng tỏ mình biết quan tâm, đúng không?”
“Dạ,” Charlie nói mà không chắc lắm.
“Thế đấy… Cô rất biết ơn cháu, Charlie Bone,” cô nói. “Cô thấy cháu xứng đáng được thưởng một thứ gì đó. Cô không có nhiều tiền, nhưng cô nghĩ…”
“Không có gì mà cô,” Charlie xua đi, hơi lúng túng, mặc dù nó có thể dùng món tiền nhỏ đó để mua quà cho Ben.
“Không, không, thật mà. Cô nghĩ cháu đúng là người cần phải nhận món quà đó. Cô cảm thấy hình như chúng đang chờ đợi cháu.”
Cô chỉ về góc phòng, và Charlie thấy ngay rằng ấn tượng đầu tiên của mình về căn phòng này đã sai bét. Căn phòng không phải chứa toàn là sách. Một chiếc bàn trong góc chất đống các loại hộp: hộp gỗ, hộp kim loại, và cả những thùng các-tông to bự.
“Có gì trong những cái thùng và hộp đó vậy cô?” Charlie hỏi.
“Của em rể cô đấy,” cô Ingledew trả lời. “Đó là tất cả những gì chú ấy để lại. Chú ấy mới mất tuần rồi.”
Charlie cảm thấy một cục nghẹn chạy tọt lên cổ họng. Nó lúng túng, “Ưm…”
“Ô không, đó không phải hộp đựng cốt của chú ấy đâu, Charlie” Cô Ingledew vội nói. “Mà là… cô phải gọi chúng là gì nhỉ… phát minh của chú ấy. Mới được gởi đến hôm qua. Chú ấy đã gởi bưu điện một ngày trước khi chết. Có Chúa mới biết tại sao chú ấy lại để những thứ ấy lại cho cô.”
Cô cầm lấy một cái hộp, mở nắp lấy ra một con chó bằng kim loại, trông như chó máy.
“Cô chẳng dùng làm gì cả,” cô bảo. “Cháu có muốn lấy không?”
Charlie nghĩ đến con Hạt Đậu, rồi đến Benjamin.
“Nó có làm được gì không ạ?” Charlie hỏi. Những món phát minh thường vẫn hay làm được cái gì đó.
“Dĩ nhiên rồi. Để cô coi nào.”
Cô giật đuôi con chó. Nó sủa lên hai tiếng, và một giọng nói cất lên:
“Tôi là số 2. Quý vị vừa giật đuôi tôi, như vậy quý vị biết cách kích hoạt tôi. Để tua tới: ấn tai trái tôi. Để tua lùi: ấn tai phải tôi. Để thu băng: ấn mũi tôi. Để dừng lại: nhấc chân phải tôi. Để thay băng: mở bụng tôi.”
Giọng chỉ dẫn này Charlie nghe quen quen.
“Có dùng được gì không?” Cô Ingledew hỏi. “Hay cháu thích món khác?”
“Tuyệt lắm,” Charlie nói. “Tuyệt. Nhưng giọng nói… Em rể cô… Có phải…?”
“Đúng. Em rể cô, tiến sĩ Tolly. Thiết bị này là một trong những phát minh đầu tiên của chú ấy, nhưng chú ấy chẳng bao giờ bận tâm tới việc đem đi bán nó cả. Lần nào phát minh ra cái gì mới cũng vậy. Chú ấy lười lắm, Charlie à. Thông minh, nhưng lười chảy thây.”
“Cái ông trong hình chính là chú ấy, phải không?” Charlie không để lộ là nó nhận ra giọng nói. Làm sao nó có thể để lộ được!
“Phải, đó là tiến sĩ Tolly. Có lần chú ấy đã chế ra một thứ kinh khủng.” Miệng cô Ingledew mím chặt lại như sợi chỉ.
“Vậy tại sao cô muốn tấm hình của chú ấy?” Charlie hỏi.
Người bán sách quắc mắt thoắt một cái, như thể muốn nhảy xổ vô vồ lấy nó. “Đứa bé mới là thứ cô muốn. Tấm hình là tất cả để cô nhớ được về nó.”
Rồi đột nhiên cô Ingledew kể cho Charlie nghe về cái ngày thê lương khi em gái của cô, Nancy, qua đời: ngay trước ngày sinh nhật thứ hai của con gái, và một vài ngày sau, chồng của Nancy, tiến sĩ Tolly, đã đem đứa con gái đi cho như thế nào.
“Cháu không nghĩ là người ta lại có thể đem con đi cho,” Charlie buột miệng, dựng tóc gáy.
“Ừ,” cô Ingledew nhất trí. “Cô bị ép phải giữ bí mật. Lẽ ra cô phải nhận con bé, cháu biết đấy. Nhưng cô đã ích kỷ và vô trách nhiệm. Lúc đó cô nghĩ là mình không nuôi nổi. Kể từ đó, không một ngày nào trôi qua mà cô không hối hận về quyết định của mình. Cô cố tìm kiếm xem nó được đem cho ai, nhưng tiến sĩ Tolly không bao giờ hé răng với cô. Con bé đã biệt dạng trong cái hệ thống lọc lừa, giả dối và mánh khóe. Giờ nó đã mười tuổi rồi và cô sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để chuộc được nó về.”
Charlie nhấp nha nhấp nhổm. Nó lại rơi vô một tình huống chẳng thích thú gì. Phải chi nó đừng nghe thấy những giọng nói trong tấm hình. Làm sao nó có thê nói với cô Ingledew rằng ba con mèo nghĩ đứa bé mất tích đang ở trong Học viện Bloor. Cô ấy sẽ không đời nào tin nó.
Trong một góc tối tăm, chiếc đồng hồ đứng to cộ đánh mười hai tiếng, Charlie nói:
“Cháu phải về nhà không mẹ cháu lo.”
“Phải đấy. Nhưng cầm con chó này, Charlie, và…”
Cô Ingledew thình lình phóng tới chỗ cái bàn, moi từ cuối chống hộp với thùng lên một cái thùng dài màu bạc.
“lấy cả cái này nhé?”
Không đợi trả lời, cô cứ ấn tọt vô một cái bao in dòng chữ TIỆM SÁCH INGLEDEW. Đưa cái baocho Charlie, cô nói:
“Cháu bỏ con chó vô luôn đi, có đủ chỗ mà.”
Cái bao nặng không thể tưởng tượng nổi. Charlie thận trọng đặt cái hộp đựng con chó lên trên cái thùng kim loại. Xong, nó lảo đảo đi ra cửa, tự hỏi làm thế quái nào nó có thể tha nổi cái bao này về tới nhà.
Cô Julia Ingledew giúp nó len ngược trở lại mấy bậc cầu thang, mở cửa ra, lại một tiếng chuông thánh thót cất lên.
“Cháu hy vọng cô không bực nếu cháu hỏi,” Charlie rụt rè, “nhưng có gì trong thùng này thế ạ?”
Câu trả lời khá bất ngờ:
“Cô không biết,” cô Ingledew đáp. “Và cô cũng không muốn biết, Tiến sĩ Tolly đã đổi đứa bé lấy cái thùng này. Dù cái thùng này là cái gì đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào đáng giá bằng con bé, đúng không?”
“Đúng… đúng ạ,” Charlie nói. Nó đặt cái bao xuống đất.
“Làm ơn mang đi đi, Charlie. Có lẽ cháu là người thích hợp để giữ nó. Cô cần phải tống khứ nó ra khỏi nhà, cháu biết đấy.” Cô hạ thấp giọng và đảo mắt một vòng khắp phố. “Và cô có thể yêu cầu cháu giữ bí mật được không?”
“Hơi khó,” Charlie nói, càng lưỡng lự hơn khi nghĩ đến chuyện phải nhận cái thùng. “Cháu không thể kể với bạn thân nhất của cháu à?”
“Không được nói với người mà cháu không tin bằng cả mạng sống mình,” cô Ingledew đáp.