Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 10 -
CĂN PHÒNG CỦA VUA ĐỎ

Olivia và Charlie bị điệu ra cửa rồi bị tống ra ngoài hành lang.
“Sao bây giờ?” Charlie rầu rĩ hỏi.
“Đến phòng để áo khoác đi, ở đó nói chuyện được,” Olivia thì thầm.
Charlie đi theo Olivia xuống tiền sảnh, qua một cánh cửa bên dưới hình hai chiếc mặt nạ màu vàng, một mặt cười một mặc khóc. Phòng để áo khoác tím thú vị hơn phòng để áo khoác xanh da trời nhiều. Ở đây chứa đầy nhóc các loại trang phục lạ lùng: nón cắm lông, nón kỵ sĩ, nón chóp nhọn… Trên các bức tường treo đầy hoa và mặt nạ; sàn nhà la liệt những ủng với giầy, đủ mọi kích cỡ và kiểu dáng.
Olivia hất văng đôi giày tím đang mang ra, xỏ chân vô một đôi giày mềm, gót thấp, trông mộc mạc.
“Thấy cái này được không?” Nó hõi Charlie. Charlie nhún vai.
“Đừng có lằm mặt rầu rĩ vậy chớ. Chuyện đâu đến nỗi tệ lắm đâu. Tớ bị phạt cấm túc hoài. Tớ đi thám hiểm. Tớ đã biết được bao nhiêu chuyện hay ho về chỗ này.”
“Nhưng rủi không kiếm lại được áo chùng thì sao? Mình sẽ lại bị cấm túc nữa.”
“Tớ nghĩ tớ biết kiếm nó ở đâu,” Olivia bảo Charlie. “Lúc giải lao tớ có vô phòng giữ áo khoác của đằng ấy để tìm ba lô của tớ… mà đằng ấy đã tử tế nhặt lại giùm đấy. Còn một người duy nhất ở đó là cái anh chàng mặt dài, tóc rũ rượi. Lúc tớ bước vô là nó chạy vọt ra, coi bộ lắm la lấm lét bí mật gì đó. Nó cầm một cái áo chùng xanh ngọc bích.”
“Bồ có biết tên người đó không?” Charlie hỏi.
“Gabriel gì-gì-đó,” Olivia trả lời. “Nếu nó đã đổi áo của đằng ấy rồi thì tốt nhất là đằng ấy cứ mặc áo của nó đã, cho tới khi đằng ấy chứng minh được cái áo kia là của đằng ấy.”
“Cảm ơn, Olivia!” Charlie bắt đầu cảm thấy lạc quan hơn. “Mình sẽ mặc áo vô ngay đây.”
“Hẹn gặp đằng ấy vào bữa tối,” Olivia chào khi Charlie phóng vù qua tiền sảnh, vô phòng để áo khoác xanh da trời.
Khi Fidelio ra khỏi lớp học tiếng Anh, nó thấy Charlie đang mặc chiếc áo chùng rách tơi tả.
“Mừng là em đã hiểu ra,” Fidelio nói khẽ. “Theo anh tới căn-tin xanh da trời nào.”
Charlie đi theo. Căn-tin xanh da trời nằm ở chót cuối sau khi băng qua mấy cái hành lang dài, và Charlie cố nhớ đường đi bằng cách nghiên cứu những hình vẽ trên các bức tường. Quan trọng nhất là phải biết xem có thể tìm ra thức ăn ở đâu. Hầu hết các bức vẽ đều là chân dung của những người đàn ông, đàn bà nom nghiêm nghị. Cứ như họ vượt thời gian quay trở lãi vậy, nhìn trang phục là biết ngay họ thuộc thế kỷ nào. Nó bắt đầu nhận ra những cái họ: Raven, Silk, Yewbeam, Pike và Bloor. Charlie vốn không giỏi môn Lịch sử, nhưng nó chắc chắn những chân dung này đang dẫn dắt nó trở lại cái thời mà người ta vẽ lên tường.
Cuối cùng, chúng đi vô một căn phòng rộng rinh, ẩm thấp, bốc mùi bắp cải luộc. Trong khi xếp hàng lĩnh phần ăn của mình, Charlie kể cho Fidelio nghe về chuyến viếng thăm phòng để áo khoác xanh da trời của Olivia.
“Có một thằng trông lấm lét cầm một cái áo chùng,” Charlie nói. “Olivia nói tên nó là Gabriel gì-gì-đó.”
“Gabriel Silk,” Fidelio chỉnh. “Nó học dương cầm. Anh nghĩ thằng này có phép thuật. Nó chắc chắn là loại quái dấm.”
“Quái dấm?” Charlie hỏi.
Fidelio hất đầu về phía hàng học trò đã lĩnh phần ăn xong.
“Nó là cái thằng ở cuối hàng.”
Charlie thấy một thằng con trai cao nhỏng, gương mặt dài, tóc tai rũ rượi, màu lông chuột. Tất cả mọi thứ ở nó đều có vẻ hờ hững và lóng ngóng, kể cả hai bàn tay.
“Trông nó hình như vui vẻ hơn thường ngày,” Fidelio nói. “Úi! Nhưng giờ thì hết vui nỗi rồi.”
Gabriel Silk vừa đánh rớt chồng sách mà nó cố kẹp dưới nách, giờ lại đang chật vật giữ thăng bằng dĩa đồ ăn trong khi lượm lại mấy cuốn sách rơi.
“Em thắc mắc không biết phải đó là áo chùng của em không.” Charlie nói. “Mẹ em thêu tên tắt của em đằng sau áo. Mẹ em dùng chỉ xanh lá cây vì không tìm ra sợi chỉ trắng nào.”
“Tối nay tụi mình sẽ coi thử,” Fidelio nói. “Chắc chắn tới lúc đó nó mới cởi áo ra.”
Một cái dĩa đựng thứ gì nâu nâu và xanh lá cây được dúi vô tay Charlie, và nó đi theo Fidelio tới một cái bàn trống. Sau vài miếng, Charlie nhận ra Fidelio hình như đang thưởng thức món bắp cải trông phát ói và bỏ lại đống màu nâu.
“Anh ăn chay,” Fidelio giải thích. “Họ không bao giờ cho mình xơi cái gì mà mình có thể xơi được. Anh hy vọng em thích món thịt băm của anh.”
“Vậy ra đó là thịt băm à? Em ăn được… Anh ăn phần bắp cải của em đi.”
Hai đứa đang đổi thịt băm với bắp cải, đúng lúc đó Chrytal – giáo viên dạy đàn – đi ngang qua bàn chúng.
“Các trò biết như thế là không được phép mà,” cô nói kèm theo nụ cười.
Charlie có ấn tượng rằng cô Chrytal không phải là người nghiêm khắc. Mùi bắp cải đôi lúc bị mùi nước hoa thơm phức của cô đè bẹp.
“Xin lỗi, cô Chrytal,” Fidelio nói, cười ngoác đến mang tai. “Đây là Charlie Bone, trò ấy mới đến hôm nay.”
“Chào, Charlie,” cô Chrytal nói. “Nếu cô có thể giúp gì được cho em thì Fidelio sẽ biết kiếm cô ở đâu.”
Rồi cô lại hào phóng ban một nụ cười rạng rỡ cho Fidelio và đi khỏi. Thật dễ chịu khi biết ít nhất có một giáo viên thân thiện trong Học viện này.
Phần thời gian còn lại trong ngày trôi qua mà không có biến cố nào khó chịu. Charlie đi theo Fidelio từ phòng này tới phòng kia, ra căn-tin dùng bữa trà, rồi lại ra sân chạy cuốc cuối cùng trước khi trời tối. Nhưng khi đèn bắt đầu bật sáng tòa nhà xám, cao lớn, và bầu trời đêm phủ trùm các cửa sổ, nó mới thấy nhớ nhà. Và khi đi qua những hành lang trên đường đi ăn tối, nó hình dung ra căn bếp ấm cúng ở nhà số 9 và một dĩa mì Ý đặc biệt mà ngoại Maisie vẫn làm cho nó. Nó ngoái đầu nhìn cánh cổng đôi nặng nề, cao vợi ngăn cách với thế giới bên ngoài.
“Vậy không hay đâu, Charlie,” Fidelio thì thầm. “Họ sẽ không mở cửa cho đến thứ Sáu. Anh đã thử rồi.”
“Lúc mới đến anh có nhớ nhà không?” Charlie hỏi.
“Có. Nhưng không lâu. Thứ Sáu tới mau thôi mà.”
"Em sẽ không được về nhà vào thứ Sáu. Em bị cấm túc rồi,” Charlie nói ủ rũ. “Manfred phạt em.”
“Thật không tin nổi!” Fidelio rõ ràng bị sốc. “Mới ngày đầu tiên mà. Manfred chắc chắn là cố ý gán tội cho em rồi.”
Nhưng khi nhìn vẻ mặt bi thương của Charlie, nó vội thêm:
“Sắp có một sự ngạc nhiên cho em đây. Chúng ta sẽ gặp toàn trường. Và nhà ăn lớn là một nơi anh không biết làm sao diễn tả hết cho em được.”
Fidelio nói đúng. Chúng cùng nhau bước xuống những hành lang dội âm, đi về phía căn-tin xanh da trời, sau đó đi thêm nữa. Giờ, chúng đang đổ dốc, từ từ, vô một cái hang khổng lồ dưới lòng đất, và Charlie thấy những đứa trẻ khoác áo chùng xanh lá cây và áo chùng màu tím nhập bọn với chúng. Cái đám con nít đông đúc đó quành vô một cầu thang rộng, rồi lại đi xuống, xuống một hành lang dài khác, cái này lại dẫn tới một sảnh đường rộng mênh mông.
“Chúng ta đang ở bên dưới thành phố,” Fidelio nói. “Đây là nơi cổ nhất của tòa nhà. Nơi mà người ta cho rằng các hậu duệ của Vua Đỏ đã giam giữ tù nhân của họ.”
Lại Vua Đỏ.
“Vua Đỏ là ai vậy?” Charlie hỏi.
Fidelio nhún vai.
“Ông xây tòa lâu đài bỏ hoang, anh chỉ biết có thế thôi. Anh nghĩ ông ấy thì OK, nhưng người ta nói có mấy đứa con của ông là một bọn thật sự hắc ám. Đi lẹ lên nào, không tụi mình trễ bây giờ.”
Ở cả hai phía của ba chiếc bàn cực kỳ dài là những băng ghế đang lấp đầy dần những trẻ con là trẻ con. Áo chùng xanh da trời ngồi bên trái, áo chùng tím ở chính giữa và áo chùng xanh lá cây bên phải. Ở đầu mỗi bàn có một huynh trưởng đang múc xúp ra từ một cái liễn thép to tướng. Những đứa trẻ khác đang phân phát từng khúc bánh mì.
Phía cuối sảnh đường, trên một cái bục cao, đội ngũ giáo viên của Học viện ngồi kín cái bàn thứ tư. Bàn Danh Dự, đó là Fidelio nói cho Charlie biết. Cuối cùng, lần đầu tiên, Charlie cũng đã thoáng thấy được giáo sư Bloor. Ông ta mặc áo chùng đen như những giáo viên dạy các môn học khác ngoài ba môn nghệ thuật, nhưng không thể lẫn ông ta vào đâu được. Ông ngồi ngay chính tâm chiếc Bàn Danh Dự và đưa mắt nhìn khắp đám con nít đang líu lo, lách chách. Đó là một người đàn ông lực lưỡng, uy quyền, tóc xám và thẳng, ria mép được tỉa khéo léo.
Dưới đôi lông mày chổi xể, đôi mắt đen nhỏ của giáo sư Bloor quét khắp ba chiếc bàn dài; và Charlie ngây người ra dòm theo anh nhìn của người đàn ông to lớn, cuối cùng mắt họ giao nhau.
Giáo sư Bloor đứng lên. Ông bước khỏi cái bục cao và bắt đầu đi xuống lối đi giữa các dãy bàn xanh da trời và bàn tím. Ông tịnh không rời mắt khỏi Charlie.
“Sao vậy?” Fidelio hích khuỷu tay Charlie. “Em không thích xúp à?”
Charlie không thể trả lời. Giáo sư Bloor đã đến chỗ nó.
“Charlie Bone!”
Đó chính là cái giọng nói nghe rợn cả xương từng thoát ra từ trang báo.
“Hân hạnh có trò ở đây.”
Charlie thều thào rằng nó vui mừng được học ở Bloor, nhưng nó gần như không nhận ra mình đang nói cái gì. Theo bản năng, nó ngó chăm chăm gương mặt to đang đổ bóng xuống, và nó sững sờ, phát hiện ra rằng không những mình nghe được giọng nói từ những tấm hình, mà khi sợ hãi thì nó con có thêm một khả năng khác: nó đọc được nét mặt. Charlie thấy rằng nó đã biết, không cần hỏi ai là người đã bắt đứa con của tiến sĩ Tolly.
Ngoại Maisie luôn nói rằng gương mặt có thể nói cho ta biết rất nhiều điều vw62 một con người. Gương mặt này bắt đầu nói cho Charlie biết nhiều hơn những gì nó muốn biết. Nó vội đóng chặt tâm trí mình lại trước gương mặt đó, một cách nhanh chóng và cương quyết.
“Có sao không vậy?” Fidelio hỏi Charlie. “Trông em như vừa nhìn thấy một con ma thế.”
Charlie nhìn cái lưng rộng của giáo sư Bloor đi xa dần. Ông ta dừng lại một lần nữa, và nói chuyện với một nữ sinh áo chùng xanh lá cây. Con bé có mái tóc dài nhợt nhạt, và khi ngước lên, nó cau mày. Charlie nhận thấy đôi mắt to màu xanh da trời của con bé có vẻ hoảng hốt và sợ sệt.
“Charlie!” Fidelio huých nó. “Cái gì thế?”
“Nhỏ kia là ai vậy?” Charlie hỏi. “Nhỏ đang nói chuyện với giáo sư Bloor ấy.”
“Emilia Moon,” Fidelio nói. “Nó học hội họa. Môn ấy nó khá đấy. Trứng với khoai tây chiên ra rồi kìa, tốt nhất em ăn cho hết xúp đi, không thì sẽ không được nhận thêm gì đâu. Luật thế đấy.”
Charlie lùa vội muỗng xúp cuối cùng vô miệng, ngay khi một dĩa trừng và khoai tây chiên được chuyền tới chỗ nó. Nó chuyền cái tô trống không theo hàng về tận cuối bàn, nơi Billy Raven đang xếp thành từng chồng.
Emilia không đụng tới món xúp. Con bé nhăn nhó với tô xúp như thể không hiểu tại sao từ đâu lại chui ra cái món xúp này. Charlie cảm thấy mình nên báo cho Emilia biết là đã có món trứng và khoai tây chiên, nhưng con bé ở quá xa.
“Tụi mình có bánh pút-đinh tráng miệng không?” Nó hỏi Fidelio một cách hy vọng.
“Em giỡn chắc. May lắm thì có được một trái táo,” Fidelio nói. “Hoặc một trái lê.”
Và chúng đã may mắn. Một trái lê trôi tới trước mặt Charlie, ngay sau món trứng và khoai tay chiên.
Khi bữa tối chấm dứt và những chiếc dĩa cuối cúng đã được xếp ngay ngắn, giáo sư Bloor tiến lên cái bục cao và vỗ vỗ tay. Im lặng bao trùm tức khắc.
“Tôi có một thông báo,” giáo sư nói nghiêm trang. “Một cậu trai mới tới để nhập vô hàng ngũ những người được ban phép thuật. Charlie Bone, đứng lên.”
Nóng ran cả người, Charlie đứng dậy. Hơn ba trăm cặp mắt quay về phía nó, đầu gối nó bắt đầu va lập cập vô nhau.
“Charlie!”
Giáo sư Bloor đọc tên nó mà nghe như thể cái tên ấy là một sai lầm ghê gớm.
“Sau bữa tối chúng ta có hai giờ bài tập về nhà. Những đứa trẻ có phép thuật sẽ học trong phòng Nhà Vua.”
Ông dừng lại vài giây, nhìn quanh đám trẻ im thin thít và bất động. Và rồi, bằng giọng ầm ầm như sấm khiến Charlie giật thót lên, ông ra lệnh:
“Giải tán!”
“Phòng Nhà Vua ở đâu?” Charlie rối rít hỏi, khi Fidelio đứng lên khỏi băng ghế.
“Đi theo Gabriel ấy,” Fidelio khuyên. “Hoặc Billy Raven cũng được… bám theo nó thì dễ hơn. Anh phải đi đây, Charlie. Ba phút nữa tụi anh phải có mặt trong lớp rồi. Gặp lại tối nay!”
Fidelio lướt đi, hòa vô dòng áo chùng đủ màu sắc đang dồn ứ về phía cuối nhà ăn tối. Charlie nháo nhào tìm cái đầu trắng của Billy Raven. Nhưng thằng bé bạch tạng bé xíu này bị chìm lỉm trong khối trẻ con chen lấn xô đẩy nhau. Cuối cùng Charlie cũng phát hiện ra thằng bé. Nó đang thành thạo rẽ đường luồn lách giữa bọn khác, phải mất một hồi Charlie mới đuổi kịp nó.
“Chào em!” Charlie nói, túm được vạt áo chùng của Billy. “Cho anh đi cùng với nhé? Anh không biết phòng Nhà Vua ở đâu.”
“Ít người biết lắm,” Billy nói, cười toét. “Muốn nhớ được đường tới đó cũng phải mất một lúc kìa. Nhưng em sẽ là hướng dẫn viên cho anh, miễn là anh muốn vậy.”
Charlie chưa kịp lầm thầm một lời cảm ơn thì Billy đã ào đi. Trước tiên tới dãy ngăn tủ để lấy tập và viết, sau đó trở lại tiền sảnh, xuống một lối đi, quẹo một khúc quanh, và leo lên một cầu thang. Cuối cùng chúng tới một cánh cửa đôi cao vời, sơn đen. Billy đẩy một cánh cửa ra và chúng bước vô một căn phòng lạ lùng, hình tròn. Có mười đứa trẻ đang ngồi quây quanh một chiếc bàn tròn.
Manfred và Asa cũng có mặt ở đó. Gabriel Silk ngồi giữa Emilia Moon và một nữ sinh tóc quăn, béo tròn, trông bình thường đến nỗi không thể tin được con bé này lại là một trong những đứa có phép thuật. Một nữ sinh vai u thịt bắp, tương phản với nữ sinh mảnh khảnh, nhỏ nhắn ngồi kế bên. Bên cạnh chúng, một nữ sinh da đen, mũi dài và nhọn hoắt, đang khinh miệt nhìn Charlie, và Charlie cảm thấy lòng mình chùng xuống. Nó sẽ phải trải qua bao nhiêu thời gian với một bọn trông kém thân thiện như thế này? Nó ước gì Fidelio và Olivia có mặt trong nhóm này.
Có hai cậu bé ngồi quay lưng ra cửa, và một đứa ngoái lại nhìn khi Charlie bước vô. Nó mang những nét như chạm trổ của người châu Phi, và nở một nụ cười ấm áp nhất mà đã lâu lắm rồi Charlie chưa được thấy.
“Đây là Charlie” Billy Raven nói.
“Chào, Charlie, anh là Lysander,” cậu bé da đen nói với nụ cười nồng hậu.
Vài đứa trong đám con gái cũng tự giới thiệu. Dorcas phục phịch và vui tươi, Beth bự con, Bindi nhỏ bé và Zelda có mũi dài. Emilia Moon thậm chí không ngẩng đầu lên.
Vẻ nhẹ nhõm của Charlie vì gặp được vài gương mặt thân thiện không kéo dài được lâu.
“Ngồi xuống, Charlie Bone. Và im lặng.”
Manfred hất hàm về phía một cái ghế trống, đối diện với Emilia Moon. Billy ngồi xuống bên cạnh Lysander.
Trong lúc lóng ngóng với đống sách vở và tự hỏi không biết phải bắt đầu từ đâu, Charlie cảm giác đôi mắt đen như than của Manfred đang dán chạt vô nó. Nó muốn quan sát kỹ căn phòng nhưng không dám ngẩng đầu lên, cho đến khi nó chắc chắn ánh nhìn đáng sợ của Manfred đã trở về với quyển sách của hắn. Cuối cùng, khi Charlie liếc nhanh được một vòng xung quanh, nó thấy còn một người nữa đang nhìn nó, đúng ra là đang giương mắt nhìn nó – đó là người duy nhất trong phòng mà nãy giờ nó không thấy mặt.
Đứa con trai này lớn hơn Charlie, có lẽ mười hai hay mười ba. Mắt nó tròn, trông thất thần, tóc vàng dựng đứng, tua tủa như có dòng điện chạy qua.
Charlie cau mày, hy vọng cậu kia sẽ nhìn đi chỗ khác, nhưng không ăn thua. Xem ra phản ứng dữ dội đó của Charlie lại thêm kích thích đối phương. Cuối cùng, chính Charlie là kẻ phải quay đi chỗ khác.
Thay vì bắt đầu làm bài tập, mắt nó lại phóng về phía bức tường đằng sau thằng bé tóc vàng. Và kìa, ở đó, chính là Vua Đỏ. Ông đang nhìn chăm chăm ra từ một bức tranh đóng khung vàng, chắc chắn là rất xưa rồi. Bức tranh đã nứt nẻ, và mờ đếnnỗi những đường nét trên gương mặt dài, sậm màu của ông lờ mờ, ẩn hiện, ngoại trừ đôi mắt – đen và cuốn hút. Áo chùng ông mặc bằng nhung đỏ quý, và vương miện mỏng trên mái tóc đen của ông nháng lên một tia sáng vàng, bí ẩn.
“Charlie Bone!” GIọng nói của Manfred làm Charlie giật nảy mình. “Sao không làm bài?”
“Em đang nhìn Vua Đỏ,” Charlie nói, tránh ánh mắt của Manfred. “Phải đó là Vua Đỏ không?”
“Phải! Trở lại bài ngay!”
Manfred lại dán tịt mắt vô Charlie, cho đến khi Charlie mở sách Ngữ văn ra.
Suốt hai tiếng đồng hồ sau đó, không một ai nói gì. Có những tiếng thở dài, tiếng húng hắng họng, khụt khịt mũi, tiếng hắt xì quanh Charlie, nhưng tuyệt không có tiếng nói nào. Trong một góc tối, chiếc đồng hồ treo tường tích tắc, cứ mỗi một khắc lại ngân lên tiếng. Tiếng lật giấy, tiếng bút rột rẹt, và Charlie đang có nguy cơ ngủ gật.
Cuối cùng đồng hồ diểm tám tiếng và Manfred đứng lên.
“Tui6 bay đi được rồi!” Hắn nói và bước ra khỏi phòng, với Asa lúp cúp theo sau.
Charlie thu dọn tập vở và ra khỏi lớp với Billy Raven.
“Cái anh tóc vàng là ai vậy?” Nó thầm thì.
Cậu tóc vàng mà nó hỏi tới cũng vừa rời phòng, tấm áo chùng xanh lá cây bay phấp phới quanh người, như thể đang bị một cơn gió bí hiểm thổi vô.
“Ồ, đó là Tancred,” Billy đáp. “Anh ấy có thể làm ra bão. Đi thôi. Em sẽ chỉ cho anh phòng ngủ chung.”
Cuộc hành trình này dẫn chúng qua rất nhiều cầu thang, và qua rất nhiều hành lang, Charlie bắt đầu thắc mắc liệu có bao giờ nó tự tìm được đường mà đi ăn sáng hay không. Cuối cùng chúng tới một căn phòng dài lạnh lão, tối tăm; sàn nhà trống trơn, chỉ có đúng một ngọn đèn lù mù.
Có sáu cái giường, đặt cạnh nhau sát rịt thật bất tiện, dọc theo hai bên tường của căn phòng dài. Những chiếc giường hẹp, trải mền len. Ở mỗi đầu giường có một chiếc ghế, và một tủ ngăn kéo nhỏ dựa vô tường. Charlie thở phào khi thấy Fidelio ngồi trên một cái giường ở cuối phòng.
“Lại đây, Charlie!” Fidelio gọi toáng lên. “Em nắm kế anh.” Nó chỉ một cái giường.
Charlie đi tới, đặt phịch cái túi xuống ghế.
“Áo chùng treo trên mắc bên cạnh, đồ đạc còn lại cất trong ngăn kéo.” Fidelio hạ thấp giọng. “Nhìn xem ai ở phía bên kia giường của em kìa. Em có thể kiểm tra áo chùng của nó.”
Charlie thấy Gabriel Silk đang tống đồ đạc vô cái tủ ngăn kéo bên cạnh giường. Tuy nhiên, Gabriel không cởi áo chùng ra, ngay cả khi vô phòng tắm.
“Rất đáng ngờ,” Fidelio nói. “Em có đèn pin không?”
Charlie đã không hề nghĩ đến đèn pin khi đóng gói đồ đạc.
“Đèn pin là vật dụng thiết yếu,” Fidelio bảo nó. “Em có thể đọc sách khi tắt điện và soi đường đi loanh quanh. Ban đêm ở đây tối đến múc em khỏi nhìn thấy gì luôn.”
Nó lôi một cây đèn pin màu xanh da trời thanh mảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Charlie.
“Em sẽ cần nó để xem cái ao chúng. Cất dưới gối đi.”
Charlie là đứa cuối cùng trong phòng lên giường đi ngủ. Nó phải mất thời gian dỡ đồ đạc ra, lục tìm tất cả những thứ gì cần thiết cho ban đêm. Nó lại mắc cỡ vì mấy con gấu Teddy in trên bộ đồ ngủ, nhưng khi thấy có đứa mặc đồ có hình đàn sóc, thì nó nghĩ gấu bông không đến nỗi nào.
Nó vừa nhảy lên giường thì đèn phụt tắt.
“Im lặng!” Một giọng nữ ồm ồm vang lên. Rồi một bàn tay thò ra đóng cửa lại, phòng ngủ chung chìm trong bóng tối.
Có cái gì đó quen quen trong giọng nói kia, nhưng Charlie không tài nào nhớ ra.
“Đó là ai vậy?” Nó thì thào hỏi Fidelio.
“Giám thị,” Fidelio nói, “phụ nữ gì mà như con rồng.”
Trong phòng dya962 những tiếng khụt khịt mũi, tiếng trở mình sột soạt, khi bọn con trai cố tìm cho mình một thế năm thoải mái trên cái giường nhỏ hẹp, cứng queo. Charlie chờ cho đến khi những tiếng ồn dứt hẳn. Ở giường bên, Gabriel Silk đang thở sâu. Có vẻ nó đã ngủ rồi.
Charlie móc cây đèn pin ra và thò chân xuống sàn nhà. Khi đã chắc bóng đèn pin chĩa vô tường rồi, nó bât lên. Tấm áo chùng xanh da trời ở ngay trước mắt nó. Nó nhấc áo ra khỏi móc áo của Gabriel và nhìn những chữ viết tắt bên trong cổ áo.
“Áo mình đây mà,” Charlie thì thầm.
Fidelio đang ngồi nhóng trên giường.
“Lấy đi,” nó thì thào. “Lẹ lên.”
Charlie lấy cái áo chùng rách rưới của Gabriel và định treo lên mắc, thế vô chỗ áo chùng của nó, chợt một tiếng thét hãi hùng vang lên.
“Đừng!” Gabriel thét lạc cả giọng, nhảy lên và cấu xé như điên cái áo chùng, “Đừng làm thế. Làm ơn! Làm ơn lấy đi giùm đi!”
Nó quẳng áo chùng rách qua góc giường của Charlie.
Charlie đặt cây đèn pin xuống gối. Cây đèn tỏa một quầng sáng dịu quanh giường.
“Áo chùng đó là của anh mà,” nó nói. “Em không muốn lấy cái áo đó.”
“Cậu không hiểu. Tôi không mặc nó được. Không mậc được. Cái áo đó toàn… kinh dị. Tôi sợ cái áo đó muốn chết luôn.” Gabriel nằm bẹp xuống giường và úp mặt vô hai bàn tay.
“Cậu đang nói về cái gì thế, Gabriel Silk?” Fidelio hỏi với giọng trầm trầm. “Tại sao Charlie phải đưa cho cậu cái áo của nó?”
“Bởi vì tôi không mặc được cái áo kia,” Gabriel hất đầu về phía cái áo chùng cũ. “Người mặc nó trước tôi đã gặp một chuyện gì đó rất hãi hùng. Tôi cảm giác được chuyện đó, cậu hiểu không? Giống như mặc một cơn ác mộng vậy.”
Charlie bắt đầu hiểu ra.
“Đó là phép thuật của anh hả, Gabriel? Anh cảm giác được chuyện gì xảy ra à?”
Gabriel gật đầu:
“Tôi cảm nhận được từ những thứ người ta mặc trên người. Thật kinh khủng. Nếu không có quần áo mới, mà cứ phải mặc đồ cũ, thì tôi sẽ phải cảm thấy tất cả những cảm giác không phải của mình. Những chuyện lo ấu cũa người khác chẳng hạn. Thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, nhưng ngay cả như vậy cũng không hay ho gì, vì đó là niềm hạnh phúc không thật, mà lại không kéo dài. Vào đầu học kỳ, tôi có một áo chùng mới, nhưng lũ chuột kiểng của tôi đã cắn rách nó và mẹ phải kiếm cho tôi một cái khác.”
Charlie không ngăn nổi tò mò:
“Anh có bao nhiêu con chuột kiểng?” Nó hỏi.
“Năm mươi ba,” Gabriel nói với vẻ đau khổ. “Chúng ăn gần hết cái áo. Tụi tôi không có nhiều tiền, cho nên mẹ tôi hỏi Học viện xem họ có thể cho tôi một cai áo chùng đã dùng rồi không. Và họ đưa cho tôi cái kia.”
Đến lúc này toàn bộ phòng ngủ chung đã thức giấc. Một trong những cậu bé ở giường cuối nói:
“Tao dám cá cái áo đó là của đứa con gái bị mất tích trong khu bỏ hoang. Chắc lúc đó nó đã sợ hãi kinh khủng.”
“Mình nghĩ chúng ta nên im lặng, nếu không bà giám thị sẽ vô, và tất cả chúng ta sẽ bị cấm túc,” một giọng nói cảnh báo.
Charlie không biết phải làm gì. Làm sao nó có thể để Gabriel mặc cơn ác mộng của ai đó được?
“Tôi sẽ làm cho cậu tất cả mọi thứ, bất cứ việc gì,” Gabriel thì thào. “Nhưng làm ơn đừng bắt tôi mặc cái áo đó.”
Charlie lấy áo chùng mới của nó xuống và đưa cho Gabriel.
“Cảm ơn! Cảm ơn, Charlie!” Gabriel vồ lấy cái áo với lòng biết ơn.
“Có một việc anh có thể làm cho em,” Charlie nói khẽ.
Nó mở ngăn kéo của mình và lấy ra chiếc cà vạt mẹ nó đã đưa cho nó.
“Anh có thể nói cho em biết bất cứ điều gì về người đã đeo cái này không?” Nó đưa chiếc cà vạt cho Gabriel.
Gabriel chẳng nói chẳng rằng, quấn chiếc cà vạt vô cổ và nhắm mắt lại. Nó rẽ những ngón tay dọc theo chiều dài của dải lụa xanh da trời, chạm vô chữ “Y” vàng nhỏ ở đầu chiếc cà vạt. Một khoảng tối phủ bóng trên gương mặt dài của Gabriel.
“Lạ thật,” nó lẩm bẩm. “Dù người đeo chiếc cà vạt này có là ao đi chăng nữa thì người đó cũng đã có thời hạnh phúc. Nhưng hiện ông ấy đang mất tích.”
Nó tháo chiếc cà vạt ra khỏi cổ và lấy ngón tay vuốt vuốt:
“Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất kỳ cái gì như thế này. Như thể người này đang không biết mình là ai nữa.”
Rồi trả lại chiếc cà vạt cho Charlie.
Ít nhất thì ba nó đã từng hạnh phúc. Charlie đinh ninh rằng “mất tích” có nghĩa là “chết”. Nó cất chiếc cà vạt vô ngăn kéo. Vẫn chẳng biết được gì nhiều hơn về ba nó.
Nó định tắ đèn pin đi ngủ, thì một hình hai nhỏ thó hiện ra dưới chân giường của Gabriel. Mái tóc trắng hiện lờ mờ trong bóng tối.
A”Nh có thể nói cho em biết về người này không?” Billy thì thào. Nó đặt một chiếc khăn quàng xanh da trời dài lên cái mền của Gabriel.
Gabriel thờ dài nhưng không phản đối. Nó quàng chiếc khăn vô cổ, và một lần nữa, nhắm mắt lại.
“Ừm, người này lúc nào cũng hối hả,” nó nói. “Ở đây, ở đó, ở khắp noi. Ông ấy phải luôn hối hả, không ngừng lại được.”
Nó dừng lại.
“Và giờ thì, tôi nghĩ là, ông ấy chết rồi.” Nó tháo chiếc khăn ra.
“Không còn gì khác sao?” Billy Raven nài nỉ. “Ông ấy không nói gì hết sao?”
“Xin lỗi, chuyện đó tôi lại không làm được,” Gabriel nói, vẻ lấy làm đáng tiếc. “Tôi không nghe được giọng nói. Và khi người ta chết thì những thông điệp sẽ yếu hơn rất nhiều.”
“Ra vậy. Cám ơn anh,” Billy rón rén bước đi, giọng nó buồn bã vọng trong bóng đêm.
Charlie tắt đèn pin, chồm sang nhét dưới gối Fidelio. Fidelio đã ngủ say. Tiếng thở nhè nhẹ của Fidelio khiến Charlie buốn ngáp, nhưng sau đó, bất chợt, nó tỉnh như sáo. Lúc nãy Gabriel nói cái gì đó mà nó chưa hiểu.
“Anh Gabriel,” Charlie gọi thầm. “Ba em đã đeo chiếc cà vạt đó đó. Ba em mất hồi em hai tuổi. Sao anh lại nói là ông bị mất tích?”
“Bởi vì ông ấy đang mất tích,” Gabriel nói, giọng buồn ngủ.
“Ý anh là ba em chết hả?”
“Không, ý tôi là mất tích. Không phải là chết.”
Charlie nhìn chằm chằm vô bóng tối. Nó lắng nghe những tiếng thở nhè nhẹ đang tràn ngập không gian không nhìn thấy được bao quanh mình, biết rằng trong mấy giờ tới, nó sẽ nằm đó, chỉ có lắng nghe thôi.
“Không chết sao?” Nó thì thầm. “Gabriel, anh chắc chứ?”
“Chắc chắn,” Gabriel vừa nói vừa ngáp. “Chúc ngủ ngon, Charlie!”