Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 3 -
NHỮNG BÀ CÔ NHÀ YEWBEAM

Thật khó mà chạy theo kịp ông cậu Paton. Ông lướt gió xé mưa mà đi, như thể trên hông cũng có một cặp bốt vậy.
“Mình chưa bao giờ thấy ông cậu ra ngoài ban ngày cả,” Benjamin thở hổn hển. “Ông ấy hơi kỳ dị hả?”
“Hơi hơi,” Charlie đồng tình, nhưng vẫn hơi sờ sợ người ông kỳ dị của mình. Nó hối cả lên vì ông cậu Paton đã chạm tới những bậc cấp nhà số 9.
Benjamin rớt lại đằng sau. Nó nhón gọi Charlie, “Có chuyện gì trong gia đình bồ rồi. Hy vọng ngày mai bồ vẩn đến dự sinh nhật mình.”
“Không gì ngăn được mình đâu,” Charlie vừa nói vừa chạy tới chỗ ông cậu.
“Không cho chó vô,” Ông cậu Paton nói, ngay lúc Benjamin và con Hạt Đậu bám kịp họ.
“Ối, làm ơn mà ông?” Benjamin nài nỉ.
“Hôm nay không được,” ông cậu Paton cương quyết. “Đây là chuyện gia đình. Về nhà đi.”
“Thôi được, chào nhe Charlie.” Benjamin lê bước đi khỏi, theo sau là con Hạt Đậu với tai cụp, đuôi cụp lủng lẳng thả giữa hai cẳng. Trông đứng là chó cụp đuôi.
Ông cậu Paton dẫn Charlie vô nhà bếp rồi biến mất lên lầu.
Charlie thấy mẹ và hai bà nội bà ngoại ngồi bên bàn ăn. Ngoại Maisie trông có vẻ phiền lòng, nhưng một nụ cười bí hiểm lại đậu trên đôi môi mỏng của nội Bone. Mẹ Charlie bồn chồn khuấy tách cà phê. Charlie không thể hiểu nổi sao mẹ lại khuấy như thế, mẹ nó vốn không uống đường mà.
“Ngồi xuống, Charlie,” nội Bone ra lệnh cứ như sắp sửa trình bày một việc hoàn toàn vì lợi ích của nó.
“Đừng để nhà Yewbeam dắt mũi cháu nghe chưa!” ngoại Maisie thì thầm, cầm tay Charlie, vỗ vỗ.
Charlie hỏi, “Có chuyện gì vậy ạ?”
“Các bà cô nhà Yewbeam sắp đến,” mẹ nó đáp.
“Sao thế?” Charlie thắc mắc.
Các bà cô Yewbeam tức là ba người em chưa chồng của nội Bone. Charlie chỉ gặp họ vào Giáng sinh, và nó đã hình thành một ấn tượng rằng họ thất vọng về nó sâu sắc. Họ cứ để lại những món quà kỳ quặc, đại loại như hộp bút vẻ, nhạc cụ, mặt nạ, áo choàng, thậm chí cả một lô những hóa chất. Nó thấy chẳng có món nào trong số đó có ích tí ti gì. Vấn đề là nó thích bóng đá và tivi.
Nội Bone nhoài người qua bàn. Mắt quắc lên đầy bí mật.
“Mấy cô em của ta sắp đến đây để kiểm tra con đấy, Charlie. Nếu thấy rằng con xứng đáng – có nghĩa là con có phép thuật, như ta vẫn ngờ ấy – thì họ sẽ cung cấp tiền của cần thiết để gởi con đến Học viện Bloor.
“Con? Đến Bloor?” Charlie thất kinh. “Chỗ đó dành cho bọn thiên tài mà!”
“Đừng lo, cưng. Cháu sẽ thi rớt cho coi,” ngoại Maisie nói chắc nịch. Bà đứng lên, lẩm bẩm. “Dĩ nhiên lại cái thân già Maisie này phải lo chuẩn bị để đón tiếp mấy Mụ Hâm chứ gì? Không biết tại sao tôi lại phải lo lắng thế chứ.”
“Sẽ có một bữa tối dọn lên đại các bà cô”, mẹ Charlie giải thích. Những dao nĩa bạc đẹp nhất, những đồ pha lê tinh xảo nhất, những đồ sứ quý giá sẽ được mang từ hầm chứa lên, đặt trong cái phòng ăn giá lạnh – một căn phòng chỉ dùng vào những dịp các bà cô nhà Yewbeam đến. Ngoại Maisie đang rã đông gà và cá và mấy món khác có trời mà biết, cố thật lẹ hết sức.
Vì tin chắc mình sẽ không thể nào qua được cuộc kiểm tra của các bà cô, nên Charlie không thấy lo lắng gì. Nó nhớ lại mình đã từng cố gắng thế nào để vẽ một bức tranh tặng họ nhưng thất bại thê thảm. Rồi nó đã vô vọng đến mức nào trong việc chơi vĩ cầm, thổi sáo, gãy đàn hạc hay đánh piano. Nó cũng từng đeo đống mặt nạ họ cung cấp: mặt nạ thú, mặt nạ hề, cướp biển, cao bồi, người ngoài hành tinh, nhưng loay hoay thế nào cũng chỉ ra được đúng thằng Charlie Bone. Cuối cùng nó đánh thừa nhận rằng mình không có tài phép.
Cho nên khi chờ các bà cô Yewbeam đến, Charlie không thấy sợ như đáng ra nó phải sợ.
Benjamin trái lại, hết sức lo sợ. Charlie là bạn thân nhất của nó, bạn duy nhất của nó. Bất cứ việc gì xảy ra với Charlie đều sẽ gián tiếp xảy ra với nó. Có những biến cố mang điềm gở đang tiến đến gần thằng bạn thân của nó. Benjamin ngồi bên cửa sổ phòng ngủ nhà mình, theo dõi căn nhà của Charlie. Khi bóng đêm đổ xuống, đèn đường bừng lên, thì trong ngôi nhà phía sau cây dẻ, ánh sáng nhấp nha nhấp nhảy: dưới tầng hầm, trên gác mái và trong tất cả những phòng ngủ. Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Gió thổi mạnh lên. Sấm ùng oàng, chớp loa lóa. Có nghĩa là bão đang ở ngay trên đầu. Benjamin bám lấy con Hạt Đậu, và con chó to giấu mặt vô ống tay áo của Benjamin.
Đường phố lúc này vắng tanh, ngoại trừ ba bóng người mờ ảo. Khi ba cái bóng tiến đến gần, một hàng dù đen che sùm sụp hết, chỉ chừa lại những cái lai của ba chiếc áo khoác đen và sáu chiếc ủng: bốn chiếc màu đen và hai chiếc màu đỏ. Mặc cho gió giật, họ vẫn chuyển động theo một nhịp điệu lạ lùng, như thể đang có khiêu vũ bên dưới những tán dù rộng. Đúng như Benjamin đã lo sợ, ba bóng người dừng lại bên cây dẻ. Rồi họ leo lên những bậc tam cấp vô nhà Charlie.
Lần đầu tiên trong đời, Benjamin vui mừng rằng mình không phải là Charlie Bone.
Trong nhà số 9, bàn ghế đã dọn xong, những khúc củi ấm cháy âm ỉ trong lò sưởi. Khi chuông cửa reng, Charlie được phái ra mở cửa. Ba bà cô nhà Yewbeam lướt vô. Họ dậm dậm chân xuống sàn nhà lát gạch bông, lắc lắc những chiếc dù ướt, quăng những áo choàng vút qua hành lang, đậu lên người Charlie, như thể nó là một cái mắc áo vậy.
“Nhặt lên chứ, thằng kia!” Bà cô Lucretia ra lệnh trong khi Charlie vùng vẩy bên dưới mớ vải vóc ướt sũng. “Đấy là lông chuột chũi quý chớ có phải giẻ rách đâu!”
“Nào, đừng cộc cằn thế chứ, Lucretia!” Bà cô Eustacia nhỏ nhẹ. “Charlie có một bí mật sắp kể cho chúng ta nghe, đúng không con?”
“Dạ,” Charlie lầm bầm.
“Đừng mắc cỡ nữa.” Bà cô Venetia, trẻ nhất, ưỡn ẹo đi lại gần nó. “Chúng ta muốn biết mọi chuyện.”
“Nhà Yewbeam, vô đây, vô đây!” Nội Bone gọi với ra từ phòng ăn.
Ba bà cô oai vệ bước qua ngưỡng cửa: Lucretia, lớn tuổi nhất, đi đầu, Venetia trẻ nhất đi cuối. Giật lấy những ly rượu xe-ri từ tay nội Bone, họ ngồi tụm quanh cái lò sưởi leo lét, giũ giũ những chiếc váy ướt, vỗ vỗ những mớ tóc dày. Tóc Lucretia trắng như tuyết, tóc Eustacia màu muối tiêu, tóc Venetia vẫn còn đen nhánh, quấn quanh đầu như đôi cánh quạ.
Charlie lùi lại, chạy tọt ra nhà bếp, nơi mẹ nó và ngoại Maisie đang bận rộn nấu nướng.
Mẹ nó dịu dàng:
“Con mang xúp vô được chứ, Charlie?”
Charlie không muốn ngồi ngoài đó một mình với các bà cô nhà Yewbeam, nhưng trông mẹ nó có vẻ nóng nực và mệt lử, nên mẹ bào gì nó làm nấy.
Liễn xúp nặng chịch. Charlie cảm giác những tia mắt sáng quắc của các bà cô nhà Yewbeam bám theo sau nó dọc quanh cái bàn ăn dài. Nó đặt liễn xúp lên một tấm lót dĩa rồi chạy đi lấy tô, trước khi nội Bone kịp kêu ca về mấy giọt xúp sóng ra ngoài.
Khi tất cả mọi thứ đã sẵn sàng, nội Bone rung lên một hồi chuông mà Charlie cho là hết sức ngớ ngẩn. Mọi người ai mà chẳng thấy thức ăn đã dọn cả lên bàn rồi. Nó hỏi:
“Sao nhà ta lại cần chuông vậy?”
“Truyền thồng,” nội Bone cáu kỉnh. “Với lại mũi Paton không ngửi được.”
“Nhưng ông cậu Paton có bao giờ ăn chung với chúng ta đâu!”
“Hôm nay,” nội Bone nhấn mạnh,”ông ấy sẽ ăn.”
“Và vụ đó sẽ chấm hết.” Ngoại Maisie nói, cười toe toét, nhưng cái cười héo úa ngay khi bốn bà kia quay sang nhìn ngoại chòng chọc.
Ông cậu Paton bước vô, trông có vẻ bực bội, và bữa ăn bắt đầu. Ngoại Maisie đúng là đã cố hết sức, nhưng mười phút là hơi ngắn để chế biến một bữa ăn có cái gì đó cho độc đáo. Xúp mặn chát, thịt gà bị khô, bánh nướng nhân thịt trông ảm đạm, nhão nhoét. Nhưng không ai phàn nàn gì. Mọi người ăn nhanh chóng và thật tình.
Ngoại Maisie và mẹ Charlie dọn bàn. Ông cậu Paton và Charlie phụ một tay. Đã đến giờ làm bài sát hạch. Charlie phát hiện ra mẹ nó không được có mặt. Nó nói”
“Con sẽ không vô đó đâu nếu không có mẹ! Con không vô đâu!”
Mẹ nó bảo:
“Charlie, con phải vô. Nhà Yewbeam có nhiều tiền. Mẹ không có gì cả.”
Ngoại Maisie thở dài:
“Tôi thất vọng quá vì đến cô cũng muốn Charlie đi học cái trường lố bịch đó.”
“Vì cha nó,” mẹ Charlie đáp.
Ngoại Maisie liếm môi, không nói gì nữa.
Ba Charlie mất rồi, vậy sao việc này lại quan trọng đến vậy? Mẹ nó ló lẽ sẽ chẳng nói gì cho nó biết, chỉ đẩy nhẹ nó về phía phòng ăn, và nó đi vô.
“Cháu muốn mẹ cháu ở đây, nêu không cháu sẽ không làm đâu,” Charlie nói.
Bà cô Venetia liền trêu nó ngày, “Ối chao, ối chao, có thằng bé đòi mẹ kìa!”
Bà cô Lucretia lạnh lùng, “Con nít mới đòi mẹ kiểu ấy. Lớn rồi nha Charlie. Đây là việc nhà Yewbeam. Chúng ta không muốn bị rối trí.”
Lúc này ông cậu Paton tính lên đi, nhưng bà chị cả gọi giật ông lại:
“Paton, cậu cần ở đây. Làm bổn phận của mình một lần đi xem nào!”
Charlie bị ấn ngồi vô một bên bàn, đối diện với bốn bà. Ông cậu Paton ngồi ở cuối bàn. Charlie tự hỏi không biết họ sẽ sát hạch nó bằng cách nào đây. Coi bộ không có nhạc cụ, cũng không có mặt na hay cọ vẽ ở trên bàn. Nó chờ đợi còn mọi người thì dòm nó.
Bà cô Lucretia đột nhiên thắc mắc:
“Thằng bé moi đâu ra cái thứ tóc này nhỉ?”
“Bên nhà mẹ nó,” nội Bone giải thích. “Đúng là một thằng mọi xứ Wales.” Bà nói, tựa hồ như không có mặt Charlie ở đó vậy.
“A…,” cả ba bà cô cũng thở dài, chán chường.
Bà cô Lucretia lục lọi trong một cái túi da to xụ. Cuối cùng bà lôi ra một gói giấy màu nâu thắt dây đen. Bà tháo sợi dây và cái gói mở bung ra, để lộ một xấp hình trông như đồ cổ.
Nội Bone đẩy cái gói qua phía Charlie, nhưng tấm hình trải rộng ra khắp bàn.
“Cháu phải làm gì với mấy cái này?” Charlie hỏi mà biết thừa họ muốn nó làm gì.
Các bà cô mỉm cười động viên.
Charlie cầu nguyện cho đừng có gì xảy ra, cầu sao cho nó có thể liếc bộ sưu tập bụi bặm này một cái rồi ngoảnh đi ngay, trước khi nghe thấy những giọng nói. Nhưng, nhìn thoáng qua một cái, nó đã bi những người trong hình đang gây ra bao nhiêu là tiếng ồn: Họ chơi đàn – hồ cầm, dương cầm, vĩ cầm. Họ khiêu vũ, hát, cười đùa. Charlie giả bộ như không nghe. Nó thử đẩy xấp hình về phía bà cô Lucretia. Bà đẩy trở lại nó.
“Con nghe thấy gì, Charlie?” Nội Bone hỏi.
“Không thấy gì ạ,” Charlie đáp.
“Coi nào, Charlie, cố lên,” bà cô Venetia giục.
“Và đừng có nói dối đấy,” bà cô Eustacia nhắc nhở.
“Không thì chúng tao sẽ làm mày khóc thét lên bây giờ,” bà cô Lucretia gầm gừ.
Câu nói đó khiến Charlie tức giận. Nó sẽ không khóc thét lên vì bất cứ ai. Nó đẩy mấy tấm hình ra xa và nói:
“Cháu không nghe gì.”
Bà cô Lucretia đẩy lại:
Không nghe thấy gì chứ. Mày phải nói “không nghe thấy gì”, chứ không phải không nghe gì. Ngữ pháp để đâu hả, thằng kia. Không ai dạy mày à?”
“Rõ ràng nó cần phải vô Học viện,” bà cô Eustacia nhận xét.
“Chỉ cần nhìn vô mấy tấm hình thôi mà, Charlie cưng!” Bà cô Venetia ngọt ngào. “Nhìn một phút thôi, bà nếu không có gì xảy ra thì chúng ta sẽ để con yên, xong rồi chúng ta…” (bà vẩy những ngón tay trắng dài) “… tan biến luôn.”
“Thôi được,” Charlie hậm hực đồng ý.
Nó nghĩ nó có thể thoát khỏi vụ này – chỉ cần nhìn vô mấy bức hình và bỏ ngoài tai những âm thanh. Nhưng đâu được. Tiếng hồ cầm, dương cầm, giọng nữ cao hát ô-pê-ra chen lẫn những tiếng cười rú lên ùa vô tai nó, tràn ngập cả căn phòng. Các bà cô đang nói gì đó với nó mà nó chỉ thấy môi họ mấp máy, chứ không thể nghe được lời nào giữa bề huyên náo dễ sợ của mấy tấm hình.
Cuối cùng Charlie chụp lấy xấp hình và quẳng mạnh đi, gục mặt xuống bàn. Không gian im lặng đột ngột quá là sự xoa dịu tuyệt vời. Các bà cô nhìn nó chằm chằm, lặng lẽ nhưng đắc thắng.
Bà cô Venetia là người đầu tiên cất tiếng:
“Thấy chưa, đầu đến nỗi phải không Charlie?”
Charlie nhận ra nó đã mắc bẫy. Trong tương lai, nó cần phải dè chừng bà cô Venetia. Rõ ràng là bà ta quỷ quái hơn mấy bà chị của mình. Charlie đau khổ nói:
“Tất cả những người đó là ai vậy?”
“Tổ tiên của cháu đấy, Charlie,” bà cô Lucretia đáp. “Dòng máu Yewbeam chạy trong huyết quản họ và cả trong huyết quản cháu, thằng cu thông minh à.” Thái độ của bà đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng bà Lucretia khi dễ thương thì cũng đáng sợ không thua gì khi bà Lucretia hiểm độc.
“Giờ con đi được rồi đó, Charlie” nội Bone nói. “Chúng ta cần bàn luận đôi chuyện. Thu xếp chuyện tương lai cho con.”
Charlie nghe thấy được đi thì mừng quá. Nó nhổm dậy, bước ngay ra cửa. Trên đường đi, nó bắt gặp gương mặt của ông cậu Paton, trông có vẻ ủ ể và xa vắng, khiến nó tự hỏi tại sao ông đã không nói lấy một lời nào suốt thời gian có mặt trong phòng. Ông cậu Paton cười nhẹ với nó một cái rồi nhìn đi chỗ khác.
Charlie vội vã ra nhà bếp, nơi ngoại Maisie và mẹ nó đang nôn nóng chờ kết quả cuộc sát hạch. Nó rầu rĩ loan báo:
“Con nghĩ con đậu rồi.”
Ngoại Maisie thừ người ra, nói:
“Ừm, ngoại cũng nghĩ vậy. Lúc nãy ngoại tưởng con thoát được vụ đó chớ, Charlie. Lại mấy cái âm thanh đó hả?”
Charlie gật đầu, trông thê thảm. Ngoại Maisie lắc đầu:
“Bọn Yewbeam điên rồ.”
Tuy nhiên, mẹ Charlie không đến nỗi quá buồn. Cô bảo:
“Học viện sẽ tốt cho con.”
Charlie giãy nảy:
“Không. Con không muốn đi đâu. Chỗ cũ kỹ chán phèo đó cho bọn thiên tài nó ở. Con không hợp. Ở tuốt đầu kia thành phố, con đâu quen ai ở đó. Nếu con không chịu đi thì sao, mẹ?”
Mẹ nó nói, khoát tay trỏ khắp nhà bếp:
“Nếu con không chịu đi… tất cả những thứ này sẽ biến mất.”
Charlie sững sờ. Vậy các bà cô của nó là phù thủy sao? Làm cho nhà cửa biến mất chỉ bằng một cái vẫy đũa phép, hay vẩy cái dù? Nó hỏi lại:
“Ý mẹ nói là cái nhà có thể biến luôn?”
“Không hẳn vậy.” mẹ nó nói. “Nhưng cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi. Ngoại Maisie và mẹ không có gì cả. Không cả một hạt đậu. Khi ba Lyell của con qua đời, chúng ta sống nhờ vào lòng thương của bà Yewbeam. Họ cung cấp tất cả mọi thứ. Họ mua nhà, thanh toán các hóa đơn. Mẹ xin lỗi, Charlie, nhưng con phải đi học ở trướng Bloor nếu như họ muốn thế.”
Charlie cảm thấy hết sức mệt mỏi.
“Thôi được, giờ con đi ngủ đây.”
Nó đã quên khuấy cái phong bì màu cam, nhưng khi vô giường, nó thấy cái phong bì đã nằm trên gối. Hẳn mẹ nó đã phải giải cứu cái phong bì khỏi đống đồ ăn và chén dĩa trên bàn. Charlie quyết định sẽ không dành thêm giây nào nửa để nhìn người đàn ông ẵm đứa bé. Ngày mai nó sẽ mang thẳng ra tiệm hình Kwik đổi lấy hình con Hạt Đậu.
Khi mẹ đến chúc ngủ ngon, Charlie níu mẹ ngồi lại trên giường để trả lởi mấy câu hỏi của nó. Cảm thấy mình xứng đáng được biết thêm về bản thân trước khi đặt chân vô trường Bloor, nó hỏi:
“Trước tiên, con muốn biết thật sự điều gì đã xảy ra với ba con. Mẹ kể lại cho con nghe đi.”
“Mẹ đã kể cho con bao nhiêu lần rồi còn gì, Charlie. Trời đầy sương mù. Ba con mệt mỏi lái xe chệch khỏi đường và lao xuống hầm đá sâu một trăm mét.”
“Tại sao mình không có hình của ba? Không có lấy một tấm nào.”
Một thoáng tối sầm lướt qua gương mặt mẹ.
“Có chứ. Nhưng một hôm, khi mẹ đi vắng, thì tất cả hình biến mất. Ngay cả bức nhỏ xíu mẹ lồng trong mặt đá hình trái tim cũng biến luôn.”
Charlie chưa bao giờ nghe chuyện này.
“Sao lại thế?” Nó hỏi.
Cuối cùng em đành kể cho nó nghe sự thật về nhà Yewbeam – họ đã thảng thốt ra sao khi Lyell yêu Amy Jones, một cô gái bình thường, chẳng có tài năng gì xuất chúng. Tóm lại là không có phép thuật.
Nhà Yewbeam cấm hai người lấy nhau. Luật lệ hà Yewbeam cổ xưa và nghiệm ngặt. Phụ nữ có thể cưới người mà họ chọn, nhưng đàn ông nhà Yewbeam chỉ được một cô gái có phép lạ nào đó. Lyell đã phá luật. Anh và Amy Jones chạy trốn qua Mexico cưới nhau.
Mẹ Charlie thở dài, nói tiếp:
“Ba mẹ đã có một kỳ trăng mật tuyệt vời. Nhưng khi về đến nhà, mẹ biết rằng ba con rất lo lắng. Rốt cuộc ba không thể thoát khỏi họ. Ba luôn phải ngoái nhìn lại sau lưng, trốn chạy những cái bóng theo đuổi. Rồi một đêm mù sương, khi con được hai tuổi, ba con nhận được một cú điện thoại. Một trát triệu hồi, đúng vậy. Nội Bone bệnh, ba con phải về ngay. Cho nên ba lái xe hơi đi và… lao xuống hầm đá.”
Mẹ Charlie nhìn trân trân vô khoảng không mất một lúc, lẩm bẩm:
“hôm đó ba con lạ lắm, không phải là ba nữa. Có một cái gì đó đã xảy ra. Cứ như ba bị ểm bùa vậy.”
Rồi cô quệt một giọt nước mắt:
“Mẹ không nghĩ trong nội Bone có lấy một gờ-ram tình yêu nào. Đối với những người trong nhà Yewbeam, việc Lyell chết chỉ là kết thúc một giai đoạn xui xẻo. Nhưng họ lại quan tâm đến con, Charlie. Biết đâu con lại có phép thì sao? Họ nhận ra phải chăm sóc con cho đến khi biết con có phép không. Cho nên họ cho mẹ một căn nhà, cho ngoại Maisie sống chung. Sau đó nội Bone đến. Để canh chừng chúng ta mà. Rồi tới ông cậu Paton, bởi vì… à… mẹ nghĩ chắc tại ông ấy không có chỗ nào khác để ở. Mẹ biết ơn tất cả mọi thư, cho đến khi tất cả đám hình biến mất. Đó là điều mẹ không thể hiểu nổi. Dĩ nhiên nội Bone nói là nội không hề động đến chúng.”
Charlie lắng nghe câu chuyện của mẹ rồi lắp ráp các sự kiện lại với nhau. Nó lầm bầm:
“Con biết vì sao tất cả hình của ba lại biến mất rồi. Nội Bone không muốn con nghe thấy điều ba con cần phải nói.”
“Nhưng Charlie, lúc đó con mới có hai tuổi. Lúc ấy nội không hề biết con có cái tài kỳ cục là nghe được tiếng nói!”
“Nhưng nội đoán được,” Charlie nói. “Trong dòng họ thể nào cũng có người như vậy rồi.”
Vẻ mặt nghiêm trọng của nó khiến mẹ nó phì cười. Cô hôn nó và bảo nó đừng lo lắng về gia đình nhà Yewbeam nữa.
“Và cũng đừng lo lắng gì vụ Học viện Bloor. Dù gì thì ngày xưa ba con cũng học ở đó ra mà.”
“Ba có tài phép chứ mẹ?”
“Ồ, có chứ,” mẹ nó nói khi đã ra đến cửa. “Nhưng không phải như kiểu của con, Charlie à. Ba không có phép. Ba là một nhạc công.”
Khi mẹ đi rồi, Charlie trằn trọc không sao ngủ được. Có quá nhiều thứ ngổn ngang trong đầu nó. Quả là không yên ổn nổi khi nghĩ mình lại là con cháu của một dòng họ kỳ quái như vậy. Nó muốn biết nhiều hơn. Nhiều hơn nữa. Nhưng bắt đầu từ đâu bây giờ? Có lẽ ông cậu Paton sẽ cung cấp vài câu trả lời. Xem ra ông không lạnh lùng băng giá như những bà chị của mình.
Bão đã ngừng. Mưa cũng thôi rơi. Gió dừng lại và đồng hồ nhà thờ lớn gõ chuông nửa đêm. Đến hồi cuông thứ mười hai, bất thình lình, Charlie cảm thấy ngạt thở. Có cái gì đó xảy ra trong nó. Cứ như là nó đang đi qua một khoảng khắc giữa sự sống và cái chết. Nó nghĩ đến Lyell, người cha mà nó không sao nhớ ra nổi.
Cái khoảnh khắc đó trôi qua, và Charlie thấy mình tỉnh như sáo, nhưng bồn chồn. Vài phút sau, nó nghe tiếng ông cậu Paton cót két đi xuống cầu thang, vô nhà bếp lục đồ ăn. Từ bé tới lớn, Charlie vốn đã quen với sự ngao du đêm hôm của ông cậu Paton. Việc đó đêm nào cũng làm nó thức giấc, nhưng thường nó chỉ trở mình một cái rồi ngủ lại ngay. Đêm nay nó nhảy ra khỏi giường, mặc quần áo vô.
Khi ông cậu rời khỏi nhà, Charlie rón rén đi xuống lầu, bám theo. Trước giờ nó vẫn muốn làm điều này nhưng không bao giờ có gan làm. Tối nay thì khác, nó cảm thấy tự tin và dứt khoát. Ông cậu Paton đi el5 quá. Lúc Charlie vừa khép cửa trước, ráng thật nhẹ nhàng, thì ông cậu Paton đã quẹo khuất góc phố. Ép sát mình vô những ngôi nhà, Charlie chạy tới cuối đường.
Ông cậu Paton dừng lại nhìn ra sau. Charlie vội thu mình vô một góc tối. Con đường mà họ mới quẹo vô được thắp sáng bằng những bóng đèn nhỏ hình quả chuông, tỏa ánh sáng dịu lên mặt đường rải sỏi ướt. Ở đây, cây cối mọc sát nhau hơn, những bức tường cũng cao hơn. Đúng là một nơi im ắng, huyền bí.
Ông cậu Paton đi tiếp, nhưng những sải chân của ông, lúc trước gấp gáp đầy chủ đích, giờ đã như dạo bộ thảnh thơi. Nhảy cóc từ thân cây này tới gốc cây kia, chẳng mấy chốc Charlie đã chỉ còn cách ông cậu có vài bước.
Một cơn gió rùng mình rít qua tai Charlie và nó bỗng tự hỏi liệu cuộc bám gót nửa đêm này của mình sẽ đưa đến đâu. Rốt cuộc ông cậu Paton vẫn chưa hóa thành ma cà rồng hay biến thành người sói. Có thể ông chỉ thấy sung sướng khi được ở trong bóng đêm mà thôi. Charlie đang định quay lại, tìm đường về nhà thì bỗng nhiên ông cậu Paton dừng phắt lại. Ông đứng cách một cột đèn chừng một mét, và từ ông phát ra một tiếng vo vo kiểu gì đó rất lạ. Chính xác thì không phải là tiếng vo vo, vì Charlie không thể nghe ro được. Đúng hơn là một cảm giác vo vo, như thể không khí quanh ông ngập tràn một thứ âm nhạc không tiếng động.
Ánh sáng từ bóng đèn bỗng rực sáng hơn, sáng lóa đến nỗi Charlie gần như không nhìn thẳng vô nó được. Thế rồi một tiếng “crắc” bé xíu, bóng đèn vỡ tan, những mảnh thủy tinh sáng lóa rơi lả tả xuống đất.
Charlie há hốc miệng kinh ngạc. Nó dụi mắt. Không chừng đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên: có thể đúng lúc. Ông cậu nó đứng đó thì bóng đèn nóng quá, thủy tinh không chịu được mà vỡ ra mà thôi.
Ông cậu Paton bước tiếp và Charlie đi theo, vẫn núp sau những thân cây. Khi tới một cột đèn nữa, ông cậu sáng lóa dữ dội, ông vẫn bước ngang qua trước khi cái bóng thủy tinh vỡ tan. Rồi sau đó, không hề quay đầu lại, ông hỏi”
“Tại sao lại bám theo ta?”