Như đã giao ước với Michel, tôi trở lại vào cữ hươu kêu đêm.Ngày giờ của cữ hươu kêu đêm không chính xác, mỗi năm chệch đi vài ngày, tùy thuộc thời tiết nóng hay lạnh, khô hay mưa.Michel đã gọi điện cho tôi xác định cuộc hẹn gặp:– Đang giữa vụ kêu đêm. Lũ hươu gào suốt đêm. Cậu phải đến nhanh đi. Nếu có thể, thì chiều mai luôn.– Đúng lúc đấy, – tôi nói. – Mình đang rảnh, ngày mai sẽ đến. Thế cậu có gặp lại con hươu đại không?– Mình không thể tìm thấy nó. Nhưng có nhiều hươu kêu ở đầm nước lắm. Có một con có giọng rất khỏe cứ nấc lên như một con hươu già,. Chiều nay mình sẽ gắng đi tìm vết nó.Tôi chẳng có công tích gì mà nhận lời mời này.Mỗi năm tôi gạch trên cuốn lịch bảy ngày từ 25 tháng chín đến 2 tháng mười và tôi viết theo đường chéo: “Đại hội công chứng tỉnh”. Cô Odile không bình luận gì với tôi, nhưng đến mùa xuân, khi có tấm thiệp triệu tập của Đại hội tỉnh, cô hãnh diện đặt nó lên bàn làm việc của tôi.Tôi cảm thấy thanh thản trở lại. Tất nhiên, tôi vẫn giữ một điều cắn rứt trong tim, nhưng sự hiện diện kề cận của nó trở nên kín đáo hơn. Trong niềm vui lại được ra đi ngày mai, tôi mang máng cảm thấy còn có ý muốn trở lại Gué de Chambord với niềm hy vọng ngông cuồng là sẽ có điều kỳ diệu xảy ra ở đó.Cả buổi tối, tôi bận rộn đi từ phòng này sang phòng kia, soạn sửa đồ đạc. Bà Berthier chăm sóc nhà cửa rất cẩn thận. Các sàn ván bốc mùi xi, và người ta còn có thể thấy được nhãn hiệu các hàng hóa tốt của Florence – những tấm vải lót hoa trong các ô kéo tủ ngăn, và một mớ xà phòng cùng nước thơm ở trong phòng tắm.Tôi có thói quen xếp quần áo đi săn vào một tủ tường riêng để chắc chắn là không quên gì lúc ra đi. Trên kệ tôi xếp các sơ mi và áo pull bằng len, trên kệ khác là những đôi găng, mũ cát két và ống nhòm, phía dưới để tất và giày. Ở giá treo kế bên là áo khoác đi săn và quần treo ở các móc.Như thế, chỉ cần liếc qua là tôi thấy tất cả và có thể chọn lựa: những quần áo nhẹ thì hơn, vì trời không rét, và những sơ mi sẫm màu để không tạo vết quá sáng báo động thú vật vào lúc tảng sáng hoặc lúc chiều tà.Sáng hôm sau, tôi buộc phải ghé văn phòng lấy lệ, chỉ ngồi mơ mộng trong ghế bành mà chẳng động tới các giấy tờ bày ra trước mắt.Ngay sau bữa trưa, xếp dụng cụ lên xe, và bao giờ cũng thế, tôi đặt khẩu súng trên chiếc ghế dài ở đàng sau. Tôi báo cho bà Berthier là hôm sau mới về và dặn bà dọn sẵn bữa tối trên bàn cho tôi.Trong khi đi qua đi lại trong nhà như thế, tôi có cảm giác đang đeo một chiếc đồng hồ nội tâm xếp đặt chương trình di chuyển của tôi làm sao để đến Gué de Chambord chính xác vào giờ ấy, đúng vào phút ấy như lần trước. Với ý nghĩ này tôi cảm thấy một niềm vui rạo rực mà chẳng dám hình dung ra điều gì chính xác.Tôi lên đường. Thời tiết vẫn tuyệt vời. Thật kỳ lạ khi ta nhận ra là chỉ có hai tuần lễ trong tháng chín mà ánh sáng và màu sắc thay đổi xiết bao.Chúng trở nên nhạt hơn, sắc nét hơn, như thể con mắt sắc sảo tiếp nhận được những nét tinh vi hơn, những đường nét đã được tăng phần sắc sảo tạo nên một vùng tao nhã, và đẹp hơn là cái miền quê phơi mình trong chói chang của nắng mùa hè.Chì còn vài trăm thước nữa, thì xe tôi ra khỏi khu rừng Russy. Vừa đúng giờ, hay đúng hơn thiếu năm phút nữa, so với lần trước tôi đi qua Gué de Chambord. Lát nữa khi đi vào con đường thẳng này, tôi sẽ biết được câu trả lời.Tôi hạ kính xe xuống, để được cảm thấy hòa mình hơn vào cảnh vật, và được thấm đượm không khí còn ẩm ướt. Từ Blois, một chiếc xe hơi chạy sau xe tôi. Tôi để nó vượt lên, để được tự do tư thế, khỏi bị che lấp tầm nhìn, khỏi bị đa dọa không thấy nàng trước mặt.Và bỗng nhiên, đây này, con đường thẳng, những ngôi nhà đàng xa có mái lợp đá đen. Khoảng cách còn rất xa, tôi chưa thể phân biệt các chi tiết và chắc chắn về sự có mặt hay vắng mặt của một bóng người. Càng đến gần, tôi càng nhìn chăm chú.Không một ai.Nỗi thất vọng như một làn sóng mà tôi chưa hình dung được sức mạnh, trào lên làm tôi chao đảo. Sự mong đợi của tôi là phi lý và tôi đã tránh lý giải điều đó cho mình một cách rõ ràng. Những cơ may của một trùng hợp mới là không hề có. Dẫu vậy cái ý thức tàn nhẫn về nỗi trống trải đang mở ra trước mặt, gây cho tôi một nỗi chán chường vô hạn. Tôi chẳng còn thích thú điều gì, chẳng muốn thở, mà cũng chẳng muốn tiếp tục lái xe.Tôi hãm tốc độ thêm nữa. Biết đâu những giây phút kéo dài thêm này chẳng tạo cho cô gái một cơ hội xuất hiện? Tôi lần lượt vượt qua tấm rào sắt, tiếp đến là chiều cao các ngôi nhà.Tôi đi qua quảng trường nhà thờ, mà chẳng quay đầu lại, đề phòng trường hợp khó tin là nàng có thể bước ra từ một ô cửa nào đó và bắt gặp tôi như một kẻ tò mò, một tên rình rập có ý tưởng mờ ám.Khi qua quảng trường tòa thị chính thì quyết định của tôi đã xong. Sự chọn lựa của tôi không thay đổi: tôi sẽ không bỏ mất cơ hội khác thường cho dù phải chờ đợi nửa giờ, dù rằng cơ may bắt gặp nàng là mong manh. Và tôi quay xe trở lại.Khi trở lại lối vào Gué de Chambord, tôi tìm một chỗ thuận tiện đề đỗ xe bên đường: đó là lối vào một con đường đi có đá sỏi. Tôi ngồi đó và chờ đợi.Tôi ấn định cho mình một giới hạn: nửa giờ đồng hồ. Hơn thế, sự chậm trễ của tôi sẽ làm Michel nổi giận. Dù thế nào chăng nữa, nếu cô gái này có công việc thường xuyên ở Blois, nàng không thể chờ hơn nửa giờ mới đi.Vài chiếc xe hơi rời khỏi ngôi làng. Mang biển số Loir và Cher, do phụ nữ lái. Chắc họ đi đón con sau buổi học. Sự xuất hiện bất ngờ của một người bộ hành làm tôi phải chồm lên. Ông ta vác một chiếc cào. Đi dọc bức tường nhỏ, ông ta dừng trước cửa sắt rồi mất hút giữa các hàng cây ăn quả.Rồi chẳng có gì nữa. Nửa giờ đã trôi qua. Tôi cho mình năm phút trì hoãn nữa, không thêm một phút. Không khí kỳ lạ, rất yên tĩnh, không một tiếng động, không cả đến một tiếng chó sủa, hay một tiếng cửa đập. Chỉ có vài con gà mái đang cào đất và xù lông ra phơi trong một sân rào kín.Kim đồng hồ mặt đen của tôi – màu đen để tránh có ánh phản quang làm cho các con thú chú ý – đã đi qua hạn định năm phút. Muốn chắc chắn, tôi chờ chiếc kim vượt hẳn cái phút tiếp đó. Vẫn không có ai. Tôi mở khóa khởi động.Suốt chặng đường tiếp theo, tôi đạt được điều là không nghĩ gì hết. Tôi chăm chú ngắm phong cảnh, như thể có có quan hệ trọng yếu với tôi: những hàng rào xén gọn gần Dhuizon, những khu đầm đầu tiên, những cánh rừng thông và sồi già nối tiếp. Qua La Ferté Jancourt, tôi trông thấy tấm biển chỉ lối vào, có chữ đen trên nền trắng, chỉ dẫn đường vào trang viên.Michel đứng trước nhà đợi tôi. Lần này anh mặc chiếc áo khoác bằng len màu pha sợi, vì đất khô nên không đi ủng mà mang giày cao đế. Tôi chờ đợi một tràng trách móc. Nhưng, không hề!– Nhanh lên cậu, – anh nói với tôi bằng giọng thân tình vui vẻ. – Nhanh đi! Phải đến đó ngay lập tức. Mình tin là đã tìm được cho cậu một con hươu rồi đấy.– Tha lỗi nhé, mình bị chậm trễ trên đường đi.