TÔ CHƯƠNG dịch
Chương 2

Mấy con la dũng mãnh kéo chiếc xe phòng đi vùn vụt, trong tiếng lục lạc leng keng vang khắp phố. Dân chúng giãn ra cho xe qua nhưng một số người lại xông tới, dường như họ muốn lao mình vào bánh xe. Ai nấy run rẩy: đó là một sự phấn khích có tính truyền nhiễm thường làm công chúng trong một lúc nào đó bỗng nhiên rung động điên cuồng và gào lên nhất loạt mà không hiểu vì sao.
- Hoan hô những con người dũng cảm. Tổ quốc Tây Ban Nha muôn năm!
Gađacđô vẫn mỉm cười nhưng mặt tái nhợt. Anh tiếp tục chào mọi người và nhắc đi nhắc lại: "Cảm ơn lắm!". Tiếng hoan hô làm anh rất xúc động, anh hãnh diện nghe thấy tên mình được gắn liền với tên Tổ quốc.
Một đám trẻ con, cả trai lẫn gái, đầu tóc rũ rượi, chạy như điên theo xe, hình như chúng nghĩ rằng chạy mãi rồi cuối cùng sẽ được xem một cảnh phi thường.
Đã từ một giờ phố Ancala giống như một con sông xe cộ giữa hai bờ khách bộ hành đang vội vã đi về phía ngoại ô. Đủ mọi loại xe, cổ và kim, có mặt trong dòng người tấp nập ồn ào, từ chiếc xe ngựa chở khách cổ lỗ hiện ra như một hiện tượng lỗi thời đến chiếc xe ô tô. Các chuyến tàu điện chật ních, hành khách bám từng xâu trên bậc lên xuống. Các xe ngựa lớn chở khách đón người ở góc phố Xêvilơ, bác lái xe gào to từ trên cao: "Đi bãi đấu đây! Đi bãi đấu đây". Những con la, mình đeo đầy búp vải đỏ, chạy nước kiệu trong tiếng nhạc leng keng vui vẻ, kéo những chiếc xe mui trần chở những bà những cô chùm khăn choàng trắng muốt gài hoa đỏ. Chốc chốc người ta lại nghe thấy những tiếng kêu khủng khiếp: một thằng oắt con nhanh như vượn luồn ra từ giữa các bánh xe mà không việc gì, vọt từ hè bên này sang hè bên kia, bất chấp dòng xe cộ đang phóng nhanh đầy nguy hiểm.
Còi ô-tô rú, các xà ích quát tháo chửi rủa, các người bán chương trình rao to tờ chương trình giới thiệu hình ảnh và lý lịch những con bò mộng sẽ đấu, chân dung và tiểu sử những matađo nổi tiếng. Thỉnh thoảng, trí tò mò của quần chúng lại nổi dậy làm tăng sự ồn ào. Một bọn người oai vệ, mặc quần vàng bó sát đùi, áo ngắn thêu kim tuyến, đôi mũ dạ rộng vành có quai giữ cằm và một búp vải màu to tướng cài ở bên trái mũ làm huy hiệu, diễu qua trên lưng những con ngựa gầy thảm hại, giữa hai hàng cảnh binh da đen của đội cảnh vệ thành. Đó là các picađo(1), những kỵ sĩ dữ tợn nom có vẻ rừng rú. Họ chờ trên mông ngựa, sau cái yên cao kiểu Môrơ, một người mặc quần áo đỏ, gọi là "con khỉ thông thái", đó là người lao công của bãi đấu đem ngựa đến cho họ.
Các đội đấu bò đi qua trên xe ngựa mui trần, những bộ quần áo thêu của họ phản ánh nắng chiều rực rỡ làm cho công chúng lóa mắt và hào hứng.
- Đấy, Fuentêx đấy!
- Đấy, Bomba đấy!
Mọi người khoái trí nhận ra như vậy, và tò mò nhìn theo đoàn xe, họ càng rảo bước hình như có một cái gì rất lý thú sắp diễn ra và họ sợ đến muộn quá.
Từ đầu phố Ancala, ta có thể trông thấy suốt chiều dài của con đường thẳng tắp và rộng rãi ấy, trắng xóa dưới ánh nắng, với những hàng cây xanh rờn trong gió xuân, với những bao lơn đen ngòm người đứng, với lòng đường chật ních người đi và vô vàn xe cộ chạy xuống phía bể phun nước Xibêlê. Bắt đầu từ bể đó, phố Ancala lại cao dần lên, giữa hai hàng cây và nhà lớn, rồi đến cuối phố, tầm mắt dừng lại trước cổng Ancala, một thứ khải hoàn môn đứng sừng sững với một lỗ hổng ở giữa, nổi bật trên nền trời xanh điểm mấy đám mây bồng bềnh trôi.
Hình như công chúng có linh cảm rằng đội đấu cuối cùng sắp đi qua để ra bãi đấu. Lúc này, chiếc xe ngựa của Gađacđô không còn có bọn oắt con chạy theo hộ tống nữa, vì chúng đã bị cuốn hút vào trong dòng xe cộ. Tuy nhiên, hình như công chúng cảm thấy rằng người matađo lừng lẫy sắp tới ở sau lưng họ, cho nên họ luôn luôn quay đầu nhìn lại, chốc chốc lại dừng bước, xếp hàng trên bờ hè để trông rõ anh hơn. Trong những chiếc xe đi trước xe Gađacđô, các bà các cô cũng ngoái cổ lại, tiếng lục lạc của chiếc xe anh làm họ chú ý. Thỉnh thoảng lại có tiếng ồn ào trong đám đông đứng trên bờ hè: họ hoan hô nhiệt liệt Gađacđô. Người thì lấy mũ vẫy, người thì giơ cao gậy lên khua tít để chào.
Gađacđô ngồi im lặng, chỉ trả lời bằng một cái nhếch mép bất di bất dịch và hình như anh không còn biết tới những sự hoan hô nhiệt liệt đó. Từ khi anh chào những người banđêridiêrô, anh không nói một tiếng nào nữa. Cả bọn banđêridiêrô cũng im lặng, mặt nhợt nhạt, rất lo sẽ xẩy ra chuyện không may mà họ chưa rõ như thế nào. Họ đều là cánh đấu bò với nhau cả, nên họ thấy chẳng cần làm ra bộ hiên ngang, cái đó chỉ cần thiết khi đứng trước công chúng mà thôi.
Ngồi bên cạnh Gađacđô là người pêông(2) tín cẩn của anh được mệnh danh là Người Quốc dân. Bác này nhiều hơn đội trưởng của mình mười tuổi, người cao lớn gân guốc, có cặp lông mày giao nhau và bộ mặt nghiêm nghị. Bác nổi tiếng trong giới đấu bò về lòng trung hậu thẳng thắn và quan điểm chính trị của bác.
Người Quốc dân nói với Gađacđô: - Này anh Huan, anh sẽ không phải phàn nàn về thành phố Madrit đâu nhé. Anh đã chiếm được lòng công chúng ở đây rồi đấy!
Nhưng dường như không nghe thấy Người Quốc dân nói, và dường như cần phải phát biểu những ý nghĩ khác đang đè nặng lên tâm trí, Gađacđô đáp:
- Tớ có linh cảm rằng chốc nữa sẽ có chuyện xẩy ra...
Đến gần bể phun nước Xibêlê, chiếc xe phải dừng lại. Một đám ma rất to đi từ phía Prađô(3) lại và tiến về phía Caxtêlanha, làm gián đoạn dòng xe cộ đang đổ từ phố Ancala tới.
Gađacđô càng tái mặt hơn. Anh giương cặp mắt nhớn nhác nhìn cây thánh giá và những linh mục đi qua. Các linh mục đột nhiên cất tiếng hát một bài thánh ca ảm đạm, đồng thời nhìn bọn người quên Chúa và rong chơi bằng con mắt hằn học ghen tị. Anh matađo vội vàng cất mũ, các chú banđêridiêrô cũng làm theo anh, trừ Người Quốc dân.
Gađacđô hét lên:
- Trời đất ơi, cậu phải cất mũ đi chứ, đồ kẻ cướp!
Anh giận dữ nhìn trân trân Người Quốc dân, tựa hồ muốn đánh bác này vì anh tin rằng thái độ vô đạo của bác có thể gây ra cho anh những tai họa ghê gớm nhất.
- Được rồi, tôi cất mũ đây! Người Quốc dân trả lời vùng vằng như một đứa trẻ hay cáu kỉnh, khi cây thánh giá đã đi xa. Tôi cất mũ, nhưng chỉ vì người chết mà thôi.
Đội đấu bò phải đợi lâu, để chờ đám ma dài vô tận đi qua.
- Xúi thật, Gađacđô lẩm bẩm với giọng nói giận run lên. Có ai lại gặp phải đám ma trên đường đi ra bãi đấu như thế này bao giờ không? Tôi đã nói với các cậu rằng thế nào chốc nữa cũng có chuyện không hay xẩy ra mà!
Người Quốc dân mỉm cười, nhún vai: - Dị đoan và cuồng tín thật! Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên đều chẳng quan tâm đến chuyện nhỏ nhặt này đâu!
Câu nói đó càng làm cho Gađacđô tức giận. Còn các thành viên khác của đội đấu bò thì đều quên cả lo lắng và bắt đầu chế giễu Người Quốc dân cũng như mọi lần khác, khi họ thấy bác ta lên tiếng nói đến mấy tiếng ưa thích của bác: "Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên".
Khi lòng đường không còn vướng nữa, chiếc xe lại tiếp tục chạy theo nước kiệu của mấy con la và vượt lên trước các xe khác cùng tuôn về phía bãi đấu. Tới đây, nó rẽ sang bên phải để vào cái cửa gọi là "cửa chuồng bò" dẫn tới sân nghỉ ngơi và những chuồng bò mộng. Nhưng công chúng đông quá nên đội đấu bò phải đi bộ. Khi Gađacđô và đồng đội bước xuống xe, công chúng lại hoan hô nhiệt liệt. Còn anh thì dùng nắm tay và khuỷu tay thụi huých lia lịa để đám đông khỏi chạm bẩn quần áo. Anh mỉm cười với mọi người nhưng giấu bàn tay phải vì ai cũng muốn bắt tay anh.
- Xin các vị tránh ra cho tôi đi! Cảm ơn lắm!
Khu chuồng bò rộng rãi, nằm giữa hàng rào của bãi đấu và bức tường khu nhà phụ đông nghịt người. Trước khi vào chỗ ngồi, ai cũng muốn đến gần các đấu sĩ để nhìn họ cho rõ. Cao vượt lên trên đám đông ấy, hiện ra những anh picađo cưỡi ngựa và những angoaxilê(4) mặc đồng phục của thế kỷ XVII. Ở một bên sân của khu chuồng bò, dựng lên những tòa nhà gạch hai tầng có giàn hoa lá trước cửa ra vào và có chậu hoa ở các cửa sổ: đó là một cái xóm nhỏ gồm nào văn phòng, nào xưởng thợ, nào chuồng bò, nào chỗ ở của các người coi bò, các thợ mộc cùng nhiều loại nhân viên khác.
Anh matađo phải khó nhọc lắm mới lách mình qua được các đám đông. Tên anh truyền từ miệng người này sang miệng người khác cùng với những tiếng reo hò phấn khởi:
- Gađacđô!... Gađacđô đấy!... Tây Ban Nha muôn năm!
Và anh hoàn toàn say sưa khi thấy mình được công chúng sùng bái, anh đi nhún nhẩy, vẻ mặt trầm tĩnh như một vị thần, lòng phơi phới thỏa mãn như đang dự một ngày hội mừng anh.
Đột nhiên có hai cánh tay quấn chặt lấy cổ anh và một mùi rượu mạnh xông thẳng vào mũi anh:
- Thật đáng mặt nam nhi, anh bạn quý ơi! Hoan hô những con người dũng cảm!
Đó là một ông mặt mũi phương phi, một nhà tư sản vừa mới dự tiệc với bè bạn và tưởng mình đã thoát khỏi sự chú ý đùa nghịch của các bạn, nhưng thực ra họ đang theo dõi ông cách xa đó một chút. Ông ngả đầu vào vai Gađacđô và cứ đứng mãi ở tư thế đó, dường như ông muốn ngủ thiếp đi trong niềm hoan lạc ấy. Nhưng những quả thụi của "anh bạn quý", và những cái lắc mạnh của bạn bè đã làm cho Gađacđô thoát khỏi sự vồ vập dai dẳng đó. Thấy mình bị tách khỏi người mình sùng bái, ông say rượu thét lên những tiếng hô yêu nước:
- Hoan hô các hiệp sĩ! Nhân dân của tất cả các nước hãy đến Mađrit mà xem, họ sẽ ghen đến chết! Họ có tàu, có tiền, nhưng tất cả những cái đó đều vô giá trị! Họ không có bò mộng, họ không có ai khả dĩ giật được của con người này danh tiếng dũng cảm! Người con thân yêu của Tây Ban Nha muôn năm! Đất nước của ông cha chúng ta muôn năm!
Gađacđô đi ngang qua một gian phòng lớn quét vôi, không có đồ đạc, trong đó những đồng nghiệp của anh đang đứng giữa những đám người hâm mộ. Rồi anh lách qua một đám đông đang đứng chắn cửa và bước vào một gian phòng nhỏ hẹp lờ mờ, chỉ có vài ngọn đèn yếu ớt chiếu sáng. Đó là nhà nguyện. Một bức họa cũ kỹ mang hình Đức Mẹ ngồi bên con chim bồ câu trang trí vách sau của bàn thờ. Trên bàn thờ có bốn ngọn nến cháy leo lét và mấy bó hoa giả bị mối xông, đầy bụi bặm cắm trong những cái lọ sành tầm thường.
Nhà nguyện đông nghịt. Những người bình dân mê đấu bò đang chen chúc ở đấy để được nhìn rõ những vĩ nhân của cuộc đấu. Họ đứng trong bóng tối lờ mờ, đầu trần, người thì thu mình ở những hàng trên, người thì trèo lên ghế. Hầu hết đều quay lưng lại hình Đức Mẹ, họ tò mò nhìn về phía cửa; hễ thấy một người nào mặc bộ quần áo diễu hành óng ánh là họ lại thì thào nói tên người ấy.
Khi các chú banđêridiêrô và picađo vào thì chỉ có tiếng xì xào loáng thoáng trong đám người xem, mặc dầu mấy chú ấy cũng sắp phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm y như những matađo, vì chỉ có những khán giả cực kỳ say mê môn đấu bò mới biết biệt hiệu của các chú ấy.
Bỗng nhiên một tiếng rì rào kéo dài nổi lên và tên một người được nhắc đi nhắc lại mãi:
- Fuentêx! Fuentêx!
Anh matađo đỏm dáng này, thân hình mảnh dẻ, dáng điệu thanh lịch, áo choàng vắt vai, đi tuột vào trước bàn thờ rồi quỳ xuống với điệu bộ rất kịch. Ánh nến được phản chiếu trong lòng trắng cặp mắt gitanô(5) của anh trong lúc anh ưỡn bộ ngực thanh thanh, đẹp đẽ và nhanh nhẹn của mình. Sau khi cầu kinh và làm dấu thánh giá, anh đứng lên và đi giật lùi ra đến tận cửa, mắt luôn luôn nhìn ảnh thánh, như một ca sĩ vừa rút lui khỏi sân khấu vừa chào khán giả.
Gađacđô chất phác hơn Fuentêx trong việc sùng đạo. Anh bước vào nhà nguyện, chiếc mũ môntêra(6)
cầm tay, áo choàng gấp lại. Anh cũng làm bộ điệu vừa đi vừa nhún nhẩy, nhưng khi tới trước ảnh Đức Bà, anh quỳ gập người xuống và nhiệt thành cầu nguyện, không để ý đến hàng trăm cặp mắt nhìn anh chằm chằm. Tâm hồn mọi người theo đạo Thiên Chúa ngây thơ như anh hồi hộp vì lo lắng và hối hận. Với lòng chân thành của những con người bình dị luôn luôn sống trong nguy hiểm và tin rằng có đủ mọi thế lực ma quỷ ám ảnh cũng như có đủ mọi sự cứu giúp siêu nhiên, anh cầu Đức Chúa Trời che chở. Lần đầu tiên, từ sáng nay, anh nghĩ đến vợ và mẹ. Ở Xêvilơ vợ anh, chị Cacmen tội nghiệp kia, chắc hẳn đang mong bức điện! Và mẹ anh, bà Aoguxtiax, lúc nàu đang yên tâm trông nom gà vịt ở trại Rinhcônađa, chắc hẳn không biết rằng con trai của bà sắp ra đấu! Thật là kinh khủng khi ta có linh cảm rằng chiều nay sẽ có chuyện chẳng may xảy ra! Lạy Đức Mẹ ngồi bên chim bồ câu, xin Đức mẹ che chở cho anh một chút. Từ nay anh nguyện sẽ ngoan lành, anh sẽ quên hết "mọi cái khác", anh sẽ sống theo lời răn của Chúa.
Sau khi củng cố lòng mê tín của mình bằng sự hối hận vô ích ấy, Gađacđô bước ra khỏi nhà nguyện, vẫn còn xúc động, mắt mờ đi không nhìn thấy những người đang chen chúc trên lối đi. Bên ngoài, trong gian phòng đợi của các đấu sĩ, một ông có bộ mặt cạo nhẵn, mặc áo rơđanhgôt đen khá vụng về, chào anh:
- Rõ không may chưa! - Gađacđô lầu bầu bước tiếp. Mình đã bảo là thế nào cũng có chuyện xẩy ra mà lại!...
Ông là linh mục của đấu trường, một người rất mê đấu bò, mang bình dầu thánh trong túi áo. Ông từ ngoại ô Prôxpêriđat tới. Đi theo ông, có một người hàng xóm làm người phụ lễ cho ông, để đổi lấy một cái vé đi xem. Từ mấy năm nay, vị linh mục này bất hòa với một giáo xứ trong thành phố Mađrit vì giáo xứ này tự cho là có cơ sở pháp lý hơn để được độc quyền trông nom việc lễ bái ở đấu trường. Trong những ngày đấu bò, ông lên xe đi đã có nhà thầu đấu bò trả tiền, ông thu thu cái bình tôn quý trong cái áo rơđanhgôt. Trong số bạn hữu và những người được ông che chở, ông lần lượt cho chiếc vé dành cho người phụ lễ. Ở đấu trường, người ta dành cho ông hai chỗ ngồi ở ngay đằng trước, gần cửa vào khu chuồng bò.
Ông linh mục bước vào nhà nguyện y như một người chủ nhà bước vào nhà mình. Ông phẫn nộ về thái độ của công chúng. Không ai đội mũ nhưng mọi người đều nói to, thậm chí có kẻ hút thuốc.
- Thưa các vị, đây có phải là quán cà phê đâu, linh mục nói. Xin mời các vị đi ra! Cuộc đấu bắt đầu ngay bây giờ đấy!
Cái tin ấy có tác dụng là làm mọi người nhanh chóng giải tán. Linh mục rút bình dầu thánh trong vạt áo lễ phục ra và vất nó vào một cái hòm gỗ sơn. Sau khi khóa kỹ vật báu đó, ông vội vã đi chiếm chỗ ngồi trên khán đài trước khi các đội đấu ra trình diễn.
Quần chúng đã biến khỏi các khu nhà phụ. Trong sân bò chỉ còn những người mặc quần áo lụa thêu, những kỵ sĩ mặc áo vàng đội mũ rộng vành bằng da rái cá. Những angoaxilê cưỡi ngựa và những nhân viên phục dịch mặc quần áo xanh đỏ.
Ở chỗ cửa gọi là "cửa ngựa", dưới cái vòm dẫn tới bãi đấu, các kỵ sĩ đang xếp hàng, đứng đầu là các matađo rồi đến các banđêridiêrô đứng cách khá xa; còn dậm chân tại chỗ trong sân bò là các picađo vẻ mặt dữ tợn, người mặc giáp sắt, hầm hập mùi da ngựa và mùi phân bò, cưỡi những con ngựa ốm o bịt một mắt. Đi đoạn hậu cho đạo quân ấy là hai nhóm la, cứ ba con thắng với nhau thành một nhóm dùng để kéo xác bò xác ngựa ra khỏi bãi đấu. Những con la này hay hốt hoảng, nhưng mạnh mẽ, lông bóng nhoáng, mình đeo vô vàn búp vải màu và lục lạc, ngoài ra còn có một lá quốc kỳ cắm trên vòng cổ.
Ở phía cuối vòm, vượt lên trên cái hàng rào bằng gỗ bịt ngang lưng chừng lối vào bãi, hiện ra cái cửa tò vò để lộ một khoảng trời xanh đầy ánh sáng, mái khán đài và một phần các bậc ngồi đông kín người và phấp phới vô vàn quạt và tờ chương trình như những cánh bướm đủ mọi màu sắc. Một hơi thở mênh mông, như thoát ra từ một bộ ngực ghê gớm tràn qua lối vào đó. Một tiếng rì rào du dương, do làn sóng điện mang đến, làm cho mọi người đoán biết - chứ không phải nghe thấy - ở đâu đây đang chơi nhạc. Trên bờ cửa tò vò, hiện ra hàng dẫy đầu người, nhiều vô kể, đầu của cơ man khán giả, ngồi chen chúc, tò mò cúi xuống để sớm được trông thấy những con người anh hùng.
Gađacđô và hai người matađo khác chào nhau trịnh trọng rồi cùng đứng vào hàng của các đấu sĩ. Họ không nói không cười: ai nấy chỉ nghĩ đến bản thân và thả dòng tư tưởng trôi miên man, mà cũng có thể họ chẳng nghĩ gì cả vì trí óc đã khô cạn. Sự lo lắng bồn chồn của họ biểu hiện ở chỗ họ như một cái máy luôn luôn sửa sang lại nếp áo choàng, trải nó ra trên vai rồi lại quấn nó quanh người, làm sao cho dưới cái phễu đầy màu sắc rực rỡ đó, cặp đùi của họ được thoải mái, bó sát trong cái vỏ bằng lụa thêu vàng. Mặt ai nấy đều tái, nhưng không nhợt nhạt mà bóng nhẫy vì mồ hôi đã quét lên đó lớp sơn của sự cảm động. Họ nghĩ tới đấu trường tuy nó vẫn chưa hiện ra, họ không thể nào xua đuổi được nỗi lo sợ về những chuyện sẽ xẩy ra ở bên kia bức tường, về những cái vô hình vô ảnh, về những nỗi nguy hiểm mơ hồ đang tiến gần mà chưa bộc lộ. Buổi chiều nay sẽ kết thúc ra sao?...
Sau những hàng đấu sĩ vang lên tiếng chân của hai con ngựa đang từ các hành lang ngoại vi của đấu trường đi vào. Các kỵ sĩ là những angoaxilê mặc áo khoác nhỏ màu đen, đội mũ có sừng cắm những chiếc lông chim đỏ và vàng(7). Họ vừa mới xua những người không có trách nhiệm ra khỏi bãi đấu và bây giờ họ xếp hàng trước các đội đấu để dẫn đường.
Các cửa ra vào của cái vòm, cũng như các cửa rào chắn thứ nhất(8) của bãi đấu đều mở toang ra. Thế là bãi đấu hiện ra: trên bãi cát tròn và rộng đó tấn bi kịch sắp được trình diễn để làm rung động và khoái trí một vạn bốn nghìn người xem. Tiếng rì rầm du dương nhưng hỗn tạp càng nổi to và biến thành một thứ nhạc vui nhộn, một hành khúc long trọng có tiếng kèn đồng vang vang thúc giục các đấu sĩ vung vẩy tay một cách hùng dũng và đu đưa bộ ngực. Những con người dũng cảm hãy tiến lên!
Các đấu sĩ, mắt nhấp nháy, chói lòa trước sự thay đổi đột ngột từ bóng tối ra ánh sáng, từ chỗ im lặng đến chỗ ầm ĩ của đấu trường, ở đó hàng vạn con người ngọ nguậy trên các bậc ngồi, rào rạt như những làn sóng tò mò và đều đứng dậy để nhìn cho rõ.
Các đấu sĩ tiến lên. Đột nhiên, ngay từ khi đặt chân lên đấu trường, họ cảm thấy bản thân họ nhỏ đi trước cảnh tượng mênh mông. Dưới ánh nắng phản chiếu màu sắc rực rỡ của bộ quần áo thêu, họ giống những con rối sáng long lanh. Các cử động uyển chuyển của họ làm người xem rất hào hứng khác nào trẻ em đứng trước một đồ chơi kỳ lạ. Toàn thể khán giả rung động trước trận gió điên cuồng làm công chúng kích động và run rẩy đến lạnh sống lưng vào một lúc nào đó. Người thì vỗ tay ầm ĩ, người thì phấn khởi hơn và hét lớn; dàn nhạc như gầm lên. Và giữa khung cảnh ồn ào ấy, từ cửa vào đấu trường đến chỗ ngồi của ông chủ tịch cuộc đấu, các đội đấu diễu hành một cách từ tốn, trịnh trọng, bước chân của họ tuy ngắn nhưng để bù lại cánh tay và thân hình của họ đu đưa rất đẹp. Trong khoảng trời xanh hình tròn lộ ra ở phía trên đấu trường, những con chim câu trắng bay lượn, sợ hãi trước tiếng gầm thét cất lên từ cái núi lửa xây bằng gạch đỏ.
Các đấu sĩ càng tiến sâu vào đấu trường bao nhiêu thì họ càng thấy bản thân khác đi bấy nhiêu. Họ dấn thân vào vòng nguy hiểm vì một cái gì quý hơn đồng tiền.
Những sự rụt rè, những mối lo sợ một cái gì chưa rõ, họ đã bỏ cả lại ở phía bên kia hàng rào. Bây giờ họ đang dẫm lên bãi cát đấu trường, họ đang đứng trước công chúng. Cái đó mới là hiện thực. Lòng ham vinh quang, ý muốn vượt chúng bạn, tính tự kiêu về sức mạnh và tài ba của mình, tất cả những cái đó làm cho những tâm hồn chất phác và man rợ ấy quên hết lo sợ và trở thành dũng cảm một cách hung tợn.
Gađacđô đã thành một người khác. Anh vừa đi vừa ngửng đầu ưỡn ngực. Anh cử động với thái độ ngạo nghễ của người đi chinh phục, anh liếc nhìn bốn phía bằng con mắt của người chiến thắng, dường như hai đồng nghiệp của anh không tồn tại. Tất cả thuộc về anh: cả đấu trường lẫn công chúng. Anh cảm thấy lúc này có thể hạ sát bất kỳ con bò mộng nào của các đồng cỏ Ăngđaluđi và Caxtilơ. Tất cả những tiếng vỗ tay đều dành cho anh, anh không nghi ngờ gì hết. Ở các lô và dọc hàng rào, hàng nghìn con mắt phụ nữ, khuất dưới bóng khăn quàng trắng, chỉ nhìn anh, anh tin chắc như vậy. Chính anh mới là người được công chúng sùng bái. Anh vừa đi vừa mỉm cười một cách kiêu hãnh xấc xược dường như khán giả chỉ hoan hô một mình anh. Anh liếc nhìn một lượt toàn khán đài, hiểu rõ đâu là nơi tập trung những nhóm khản giả chủ yếu thuộc phe anh và anh không thèm để ý đến những nơi có những khán giả thuộc phe khác.
Các đấu sĩ cất mũ chào ông chủ tịch(9); rồi đoàn diễu hành trứ danh đó phân tán, các pêông và các picađo tản ra khắp các nơi trên bãi. Trong khi một angoaxilê lấy mũ đón chiếc chìa khóa chuồng bò do ông chủ tịch ném xuống, Gađacđô tiến về phía khán đài có những khán giả ngưỡng mộ anh nhiệt liệt nhất, anh trao cho họ giữ hộ cái áo choàng diễu hành. Lập tức nhiều bàn tay nhiệt liệt túm chiếc áo lịch sự đó, căng nó lên bờ hàng rào như một lá cờ hiệu, biểu tượng thiêng liêng của một đảng phái. Những người hăng hái nhất đứng lên, hoa tay múa can(10) hoan hô Gađacđô, phát biểu ầm ĩ hy vọng của mình: mọi người sắp được xem người con yêu của Xêvilơ xử sự ra sao!
Còn anh thì đứng tựa lưng vào hàng rào, mỉm cười thỏa mãn về sức mạnh của mình và luôn miệng nói:
- Xin cảm ơn! Tôi sẽ cố hết sức...
Không phải chỉ có những người hâm mộ Gađacđô mới hy vọng như vậy. Toàn thể khán đài chú ý đến anh, chờ đợi những cảm xúc mãnh liệt. Như giới hâm mộ môn đấu bò đã nói, anh matađo này sẽ có ngày biết "vải sơn" - nghĩa là vải giường bệnh xá. Mọi người tin chắc rằng anh sẽ bị bò húc chết tại giữa trường đấu, chính vì thế mà mọi người hoan hô anh một cách nhiệt liệt có tội, với một sự quan tâm độc ác, khác nào một kẻ yếm thế theo khắp nơi một người làm xiếc bằng thú dữ với hy vọng có ngày sẽ thấy người này bị thú dữ đó ăn thịt.
Gađacđô chê cười những người hâm mộ đấu bò kiểu cũ; đó là những nhà bác học nghiêm nghị về môn này, họ quả quyết rằng tai nạn không thể xảy ra miễn là các đấu sĩ chấp hành triệt để các quy tắc của nghệ thuật. Chà, các quy tắc! Riêng anh thì anh không biết các quy tắc, anh không hoài hơi học các quy tắc. Cái cần thiết để chiến thắng là sức mạnh và can trường. Và hầu như chỉ nhờ vào tính bạt mạng và liều lĩnh, không có khả năng nào ngoài những ưu điểm của cơ thể, anh đã xây dựng sự nghiệp một cách nhanh chóng. Công chúng say mê khâm phục anh và kinh ngạc trước sự dũng cảm như điên của anh. Khác với nhiều đồng nghiệp, anh không tiến lên qua nhiều giai đoạn nối tiếp, anh không phải đóng vai capêađo hoặc banđêridiêrô, phục vụ sư phụ trong nhiều năm. Anh không sợ sừng bò. Anh nói: "Những cái sừng tệ hại nhất là cái sừng của con ma đói". Vấn đề quan trọng là làm sao vượt lên cho nhanh. Thế là đùng một cái anh xuất hiện trước công chúng với tư cách matađo, và chỉ vài năm sau tiếng tăm anh đã lừng lẫy.
Công chúng khâm phục anh vì họ tin rằng anh thế nào cũng gặp tai họa. Trong lòng họ bừng bừng một mối nhiệt tình khủng khiếp vì họ thấy anh đùa với Thần chết một cách hết sức liều lĩnh. Họ quan tâm đến anh cũng như quan tâm đến một kẻ tử tù đã bị đưa vào nhà nguyện.(11)
Gađacđô không thuộc loại người dè dặt thân mình. Anh hiến tất, kể cả tính mệnh. Anh xứng đáng với đồng tiền của người ta bỏ ra. Công chúng hoan hô và cổ vũ anh chàng liều mạng ấy, với tư tưởng thỏa mãn bỉ ổi của những kẻ ngồi ở nơi yên ổn để xem cảnh hiểm nguy của người khác. Còn những người thận trọng thì sầm mặt lại trước những kỳ tích dũng cảm của Gađacđô, họ cho nó thực là một sự tự sát. Họ thì thào:
- Mong cho tình hình này còn kéo dài!...
Tiếng chũm chọe và kèn đồng nổi lên và con bò mộng đầu tiên xuất hiện. Gađacđô, tay cắp chiếc áo choàng chiến đấu không có chút trang trí nào, vẫn đứng dựa vào hàng rào, gần bậc ngồi của khán giả trung thành với anh, anh đứng yên, cao kỳ, tin tưởng rằng toàn thể đấu trường đang chú ý nhìn anh. Con bò mộng đó là để cho một matađo khác. Còn anh, anh sẽ hoạt động khi nào đến lượt. Nhưng khi thấy công chúng hoan hô những động tác múa áo choàng khéo léo của đồng nghiệp, anh không thể đứng yên được nữa và, từ bỏ quyết định cũ của mình, anh tiến lại gần con bò và làm vài động tác thể hiện cam đảm nhiều hơn kỹ thuật. Toàn thể đấu trường hoan hô rầm rĩ, vì yêu thích một cách phi lý sự liều lĩnh của anh.
Đến khi Fuentêx giết xong con bò đầu tiên và vừa chào khán giả vừa tiến về phía ông chủ tịch cuộc đấu thì Gađacđô càng tái mặt vì hình như bất kỳ dấu hiệu hoan nghênh nào không dành cho anh đều là thái độ lãng quên sỉ nhục đối với anh. Nhưng cuối cùng lượt anh tới! Mọi người sẽ được xem một cái gì rất hay đây! Anh không biết cái đó sẽ như thế nào, nhưng anh cảm thấy rằng nhất định anh sẽ làm cho khán giả phải kinh ngạc.
Con bò mộng thứ hai vừa mới bước vào bãi đấu, lập tức Gađacđô, nhanh như cắt với ý muốn tỏ ra xuất sắc, bao khắp bãi đấu. Áo choàng của anh luôn luôn múa sát mõm con vật. Một picađo thuộc đội của anh, tên là Pôtagiê, bị ngã ngựa rất nguy hiểm ngay cạnh sườn con bò. Thế là Gađacđô nắm chặt lấy đuôi con thú dữ kéo mạnh đến nỗi con vật phải quay ngược trở lại cho đến khi anh picađo ngã ngựa rút lui được vào nơi yên ổn. Khán giả hoan hô Gađacđô như sấm.
Khi đến giai đoạn cắm banđêri, Gađacđô vẫn ở trong hành lang giữa hai lớp hàng rào, để chờ lúc nổi kèn trống báo hiệu sang giai đoạn hạ sát. Người Quốc dân, tay cầm mấy chiếc banđêri, tìm cách khích con bò lúc ấy đang đứng yên giữa bãi đấu. Bác ta chẳng thiết làm những động tác khéo léo, hoa mỹ hoặc dũng cảm. Đối với bác, đây chỉ là việc bác kiếm cơm. Ở thành phố Xêvilơ kia, bác còn bốn đứa con nhỏ; nếu chẳng may bác chết đi thì chúng nó không thể kiếm ra một người bố khác. Làm đủ trách nhiệm của mình, thế thôi, cắm mấy cái banđêri một cách bình thường nhất trong nghề đấu bò, chẳng mong được vỗ tay khen, miễn là không bị la ó.
Khi bác cắm xong cặp banđêri vào bướu cổ con bò thì trên khán đài có người vỗ tay, nhưng cũng có người chê bai bác bằng cách nói bóng gió mỉa mai đến những tư tưởng của bác:
- Này, bớt chính trị đi và cắm mạnh lên nhé! Người Quốc dân đứng xa nên không nghe rõ lời chê trách. Bác tươi cười đáp lại như đội trưởng của mình:
- Rất cảm ơn!... Rất cảm ơn!...
Một hồi kèn đồng và chũm chọe báo hiệu giai đoạn hạ sát đã tới. Thế là Gađacđô lại nhảy vào bãi đấu. Lập tức khán giả nhốn nháo, lao xao vì xúc động. Anh là người matađo yêu thích của họ, họ chờ đợi ở anh cái hay nhất của buổi đấu.
Gađacđô giật lấy cái mulêta gấp lại mà Garabatô ở trong hành lang giơ ra cho anh; anh rút ra khỏi vỏ thanh kiếm mà người hầu ấy cũng chìa ra. Người thẳng đơ, tay cầm mũ, anh từ từ đi đến trước chỗ ngồi của ông chủ tịch cuộc đấu. Tất cả các khán giả đều nghển cổ, chăm chú nhìn thần tượng của mình. Không ai nghe rõ lời anh phát biểu(12). Nhưng dáng dấp hiên ngang, thân hình cân đối và lồng ngực hơi ưỡn ra để cho lời nói thêm mạnh, tất cả những cái đó tác động đến công chúng chẳng kém gì một bài diễn thuyết hùng hồn nhất. Khi anh phát biểu xong, xoay người lại và ném mũ xuống đất, công chúng hoan hô rầm rĩ:
 "Hoan hô người con yêu quý của Xêvilơ! Lần này nhất định chúng ta được xem một trận đấu thật sự!...". Và khán giả, người nọ nhìn người kia, như để bảo ngầm nhau rằng sắp có những cái phi thường. Ở khắp khán đài, mọi người run rẩy có vẻ chờ đợi một cảnh tượng tuyệt diệu. Bỗng toàn đấu trường im lặng, im lặng hoàn toàn, dường như nó vắng ngắt. Tất cả sinh khí của hàng vạn con người dồn vào các con mắt. Không ai thở nữa.
Gađađô thủng thẳng bước đến phía con bò mộng, một tay cầm cái mulêta gập lại như một ngọn cờ, một tay vung vẩy thanh kiếm như một con lắc ăn nhịp với bước chân anh đi. Thoáng quay đầu lại, anh thấy Người Quốc dân và một pêông khác đang bước theo anh, tay cắp áo choàng sẵn sàng giúp đỡ anh.
- Mọi người tránh ra xa! Anh ra lệnh.
Tiếng anh nổi lên giữa đấu trường im ắng, vang dội tới những hàng ghế xa nhất và làm mọi người tỏ lời khâm phục: "Anh ấy vừa nói: Mọi người tránh ra xa! Con ngừơi dũng cảm thật!".
Gađađo một mình tiến đến bên con thú, đấu trường đột nhiên lại im ắng. Anh bình tĩnh xòe mulêta rồi tiến thêm chút nữa đến sát mõm con làm nó kinh ngạc và sợ hãi trước con người táo tợn ấy. Công chúng không dám nói nữa, không thở nữa, nhưng con mắt của họ long lanh vì khâm phục. Can đảm thật! Đi đến sát sừng!
Người matađo dậm chân xuống bãi cát một cách sốt ruột, chọc cho con bò tấn công. Thế là khối thịt khổng lồ ấy với đôi sừng nhọn hoắt, vừa rống lên vừa xông lại. Chiếc mulêta đưa qua ngay trên cặp sừng, sừng quệt nhẹ vào các quả ngù và quần áo người matađo, nhưng anh vẫn đứng yên không cử động nào khác ngoài việc hơi ngã người về phía sau. Trước động tác ấy, công chúng gào lên hoan hô!
Con vật quay người lại, tấn công một lần nữa người cầm mảnh vải. Một động tác thứ hai giống lần trước, lại làm cho công chúng gầm lên. Con bò mỗi lúc một điên cuồng thêm vì thấy bị lừa, càng xông mạnh vào người địch thủ. Nhưng anh vẫn liên tục làm rất nhiều động tác bằng mulêta, chỉ di chuyển người trên một khoảng rất hẹp; sự nguy hiểm ở sát bên mình khiến anh thêm táo bạo, tiếng hoan hô của công chúng làm anh say sưa.
Gađacđô cảm thấy hơi thở dữ dội của con quái vật ở ngay bên mình, bọt dãi ướt át của nó rớt xuống bàn tay phải và mặt anh. Nhưng, có lẽ vì đã quen với sự đụng chạm đó, anh chỉ coi con bò mộng như một người bạn chịu hy sinh tính mệnh để góp phần xây đắp vinh quang của anh.
Cuối cùng con bò dừng lại, có vẻ mệt và trước cái trò chơi quái ác, nhìn người có mảnh vải đỏ bằng con mắt ra vẻ suy nghĩ lờ mờ; trong óc nó, nó nghĩ rằng người ta đang dùng một thuật gì để, từ đợt tấn công này sang đợt tấn công khác, dẫn nó đến chỗ chết. Bấy giờ Gađacđô cảm thấy trong tim sự hồi hộp của những ngày vĩ đại của mình:
"Tiến lên nào!..."
Anh nhặt cái mulêta và quay tròn tay trái, anh quấn nó vào quanh cái cán. Rồi anh giơ tay phải lên ngang tầm mắt và chúc thanh kiếm về phía u vai của con vật. Công chúng ngạc nhiên và ào ào phản đối.
- Đừng xông vào như thế! Đừng, đừng! Hàng vạn người hét lên.
Vì làm như thế sớm quá. Con bò chưa ở vào tư thế thuận lợi. Nó dễ xông lên và có thể húc trúng anh matađo. Gađacđô hành động thật trái với mọi quy tắc của nghề nghiệp. Nhưng anh chàng rồ dại này có đếm xỉa gì đến quy tắc, đến ngay cả sinh mệnh của mình. Đột nhiên, đúng lúc con bò chồm vào người anh, anh phóng lưỡi kiếm về phía trước. Thật là một sự va chạm dữ dội, tàn bạo. Trong một giây đồng hồ, người và vật họp thành một khối và cùng bước đi vài bước, quấn chặt lấy nhau, không ai có thể biết được là bên nào thắng: người thì mắc một tay và một phần thân thể giữa cặp sừng, còn vật thì cúi đầu, lồng lộn tìm cách đâm sừng nhọn hoắt vào con rối sặc sỡ đang nhẩy nhót cuống quýt để tránh đòn.
Cuối cùng hai bên rời nhau ra, cái mulêta rơi xuống đất như một miếng giẻ rách và người đấu sĩ kiệt xuất, hai bàn tay không còn vướng víu, ra khỏi trận đấu vẫn lảo đảo sau cuộc đụng chạm dữ dội. Nhưng chỉ sau vài bước là anh lấy lại được thăng bằng. Bộ quần áo của anh xộc xệch, cái ca-vát lủng lẳng ngoài áo gilê, rách toạc vì bị sừng bò húc trúng.
Lúc đầu con bò tiếp tục lao đi theo đà. Trên cổ rộng của nó chỉ hơi thòi ra cái tay nắm đỏ lòm của thanh kiếm cắm ngập tận chuôi. Rồi nó đứng sững lại, lắc lư như chào một cách đau đớn, quỳ gập hai chân trước, gục đầu xuống làm mõm chạm vào bãi cát, rống lên và lăn kềnh ra rùng mình hấp hối.
Đấu trường như sụp đổ, những hòn gạch như va chạm vào nhau, công chúng như lên cơn điên: họ đứng cả dậy, tái mặt và run rẩy, hò hét dậm chân dậm tay dữ dội. Con bò chết rồi! Nhát kiếm tuyệt quá! Trong một giây đồng hồ, mọi người đã tưởng anh matađo bị sừng bò húc trúng, mọi người đã tưởng anh sẽ lăn xuống máu trào ra, thế mà bây giờ anh đứng bình yên tuy còn choáng váng vì bị va mạnh nhưng vẫn khỏe mạnh và tươi cười. Sự ngạc nhiên và khâm phục làm cho khán giả hào hứng đến tột độ.
- Ôi chao! Cậu ấy mới hung chứ! Khán giả kêu lên như vậy vì họ không tìm ra lời lẽ nào đúng hơn để diễn tả sự kinh ngạc của họ. Cậu ấy mới hung chứ!
Mũ tung lên phơi phới và tiếng vỗ tay lại nổ ra như sấm, lan từ bậc ngồi này sang bậc ngồi khác trong lúc anh matađo bước đi trong bãi đấu dọc theo hàng rào đến trước chỗ ngồi của ông chủ tịch cuộc đấu.
Tiếng hoan hô càng vang dậy khi Gađacđô giang hai tay, cúi chào ông chủ tịch. Mọi người hét lên đòi phần thưởng thật xứng đáng cho người matađo kiệt xuất. Đó là cái tai của con bò(13). Chưa bao giờ có người matađo xứng đáng hơn với phần thưởng đó. Những nhát kiếm như thế mấy khi mà thấy được! Niềm hoan hỷ của khán giả còn tăng thêm khi một chú lao công đem đến cho anh matađo một vật hình tam giác màu sẫm, đầy lông lá vào máu me: đó là một mảnh tai con bò.
Con bò thứ ba đã bước vào bãi đấu thế mà tiếng hoan hô Gađacđô còn tiếp tục, tựa hồ công chúng vẫn chưa bình tĩnh lại sau cơn xúc động, và tất cả mọi chuyện xẩy ra trong phần còn lại của buổi đấu chẳng có ý nghĩa gì cả. Những matađo khác, ghen tị đến tái mặt, cố gắng làm cho khán giả chú ý đến mình nhưng vô hiệu: có tiếng vỗ tay nhưng yếu ớt và rời rạc. Hình như khán giả đã kiệt sức sau cơn điên loạn mới rồi nên chẳng chú ý mấy đến tấn tuồng mới đang diễn ra trước mắt họ.
Nhưng chẳng bao lâu, nhiều cuộc cãi cọ om sòm nổ ra từ bậc ngồi này sang bậc ngồi kia: những khán giả ủng hộ các matađo khác, sau khi đã bình tĩnh lại và thoát khỏi cơn say sưa xâm chiếm toàn thể đấu trường, bắt đầu tiếc sự thán phục vô tình của mình và tranh luận về Gađacđô. Theo ý họ, Gađacđô tuy rất dũng cảm, rất táo bạo, coi rẻ tính mệnh của mình, nhưng tất cả những cái đó đâu phải là nghệ thuật. Và những khán giả khâm phục Gađacđô một cách nồng nhiệt nhất và hung bạo nhất vì bản thân họ cũng có tính hung tợn và liều lĩnh, nổi cơn tức giận như khi một tín đồ tôn giáo thấy có kẻ hoài nghi ông thánh của mình.
Mọi người ít chú ý đến trận đấu mới còn do nhiều chuyện lôi thôi đang xẩy ra ở các hàng ghế. Bỗng nhiên khán giả náo động ở chỗ này chỗ khác, quay lưng lại bãi đấu, vung tay vung gậy lên qua đầu.
- Đang đánh nhau ở khu 3 kìa! Người ta vui thích reo lên. Lại đánh nhau ở khu 5 nữa kìa!
Người ta kiễng chân lên cố nhìn qua đầu người bên cạnh nhưng chỉ thấy những cảnh binh đang từ từ leo lên nơi xẩy ra lộn xộn.
- Ngồi xuống! Ngồi xuống! Những người trầm tĩnh nhất kêu the thé vì không trông thấy các đấu sĩ đang tiếp tục hoạt động trên bãi đấu.
Dần dà đám đông bớt náo động, đầu họ lại trở lại vị trí bình thường ở phía trên những hàng ghế dài lượn cong. Nhưng thần kinh của họ đã bị kích thích quá độ rồi, và sự nóng nảy của họ thể hiện ra bằng một mối ác cảm bất công đối với một số đấu sĩ hoặc bằng một sự im lặng khinh khỉnh.
Công chúng trở thành khó tính sau cơn xúc động quá mạnh, nên thấy cái gì cũng nhạt. Họ nuôi dưỡng sự cáu kỉnh của mình bằng cách ăn và uống. Những người bán quà đi lại giữa các lớp hàng rào và ném quà bánh cho khách hàng một cách khéo léo kỳ diệu. Những quả cam trông như những búp chỉ đỏ thắm bay lên đến tận những bậc cao nhất của khán đài, chuyển từ tay người bán đến tay người mua thẳng một lèo dường như có một sợi dây vô hình điều khiển. Những chai nước giải khát mở kêu bôm bốp. Rượu vang Ăngđaludi màu vàng óng ánh trong các cốc.
Một bầu không khí tò mò bỗng trùm xuống khán đài. Fuentêx sắp cắm banđêri vào bướu cổ(14) con bò của anh, mọi người chờ đợi một cái gì cực kỳ khéo léo và mỹ thuật.
Fuentêx tiến vào giữa bãi đấu, tay cầm cặp banđêri bình tĩnh, bước từng bước chậm rãi như bắt đầu một trò chơi. Con bò theo dõi các cử chỉ của anh bằng con mắt nghi ngại, ngạc nhiên thấy trước mắt nó chỉ có một người duy nhất, sau cảnh náo động có những chiếc áo choàng tung ra, những cây banđêri cắm vào bướu cổ và những con ngựa còm đến dâng mình cho cặp sừng của nó.
Người matađo thực tế đã thôi miên con vật. Anh tiến lại gần đến mức mũi banđêri chạm vào trán nó, rồi anh chạy từ từ, dường như bị cám dỗ, con bò chạy theo anh. Người và vật chạy tới bờ bên kia của bãi đấu. Con quái vật hình như đã được dạy thuần thục nên làm theo mọi động tác của anh cho đến khi anh thấy nên chấm dứt trò chơi đó. Bây giờ anh mới dang hai tay, mỗi tay cầm một cây banđêri, kiễng chân ưỡn thẳng thân hình mảnh dẻ và cân đối, bước lại gần con bò với một vẻ tự tin trang nghiêm rồi cắm hai mũi kết tua rua vào cổ con vật đang bàng hoàng.
Ba lần liên tiếp, anh làm lại động tác trong tiếng hoan hô của khán giả. Những người cho mình là sành sỏi bây giờ mới trả thù việc Gađacđô được khâm phục. Fuentêx mới thật là đấu sĩ chứ! Và đây mới là nghệ thuật!
Đứng tựa vào hàng rào, Gađacđô lau mồ hôi trán bằng cái khăn của Garabatô trao cho anh. Anh uống một cốc nước, quay lưng về phía bãi đấu để khỏi phải trông thấy những kỳ tích của đồng nghiệp. Nếu ở ngoài bãi đấu anh đánh giá cao các địch thủ của anh vì sự nguy hiểm đã làm cho anh và họ thân nhau thì ở đây, ngay từ lúc anh bước chân vào bãi đấu, ai ai cũng trở thành thù địch của anh và những thắng lợi của họ làm anh buồn rầu chẳng khác nào những điều sỉ nhục. Lúc này những tiếng hoan hô của công chúng dành cho Fuentêx có thể coi như một việc đánh cắp vinh quang của anh.
Ngay từ lúc xuất hiện con bò thứ tư, con bò của anh, anh cố hết sức làm kinh ngạc khán giả bằng những kỳ tích của mình. Mỗi khi có một picado nào ngã ngựa là anh lại múa áo choàng, dụ con bò về phía bờ bên kia của bãi đấu, làm nó hoang mang trước những động tác nhanh nhẹn của anh, cuối cùng nó phải đứng yên. Bấy giờ anh mới lấy bàn chân chạm vào mõm nó hoặc cất mũ đặt vào khoảng giữa hai cái sừng của nó. Đôi khi anh thách thức một cách thật táo bạo: lợi dụng lúc con vật đang ngạc nhiên, anh giơ bụng ra hoặc quỳ xuống ngay trước mặt nó làm ra vẻ sắp nằm xuống ngay dưới mõm nó.
Những người hâm mộ đã có tuổi ngấm ngầm phản đối: "Thật là những trò khỉ, những trò hề mà ngày xưa không ai dung thứ!". Nhưng họ đành phải im, chịu thua những tiếng hoan hô rầm rĩ của công chúng.
Lúc tiếng kèn báo hiệu giai đoạn cắm banđêri nổi lên, khán giả ngơ ngác thấy Gađacđô giật trong tay Người Quốc dân những cây banđêri và bước về phía con bò. Mọi người phản đối. Gađacđô mà cũng cắm banđêri à? Đừng! Đừng! Không ai còn lạ chỗ yếu của anh trong giai đoạn này của trận đấu. Việc đó là để cho những người đã tiến từng bước trong sự nghiệp của mình, cho những ai đã làm cái việc cắm banđêri trong một thời gian dài cạnh sư phụ trước khi trở thành matađo. Còn Gađacđô thì lại bắt đầu từ giai đoạn cuối, nghĩa là anh đã làm cái việc hạ sát con bò ngay từ khi anh bước vào đấu trường.
- Đừng! Đừng! Công chúng gào ầm lên.
Từ hàng rào, bác sĩ Ruix vừa vẫy tay vừa hét: - Con ơi! Thôi thôi! Con chỉ biết làm việc chính là hạ sát con bò thôi.
Nhưng Gađacđô bỏ ngoài tai các ý kiến của khán giả, bất chấp những sự phản đối của họ khi anh thấy trong lòng bừng bừng dũng khí. Không để ý đến cảnh ồn ào, anh bước thẳng đến phía con bò và trong khi nó chưa kịp làm gì, anh đã cắm vèo cặp banđêri vào cổ nó. Nhưng cặp banđêri cắm vụng, không đúng chỗ, và con bò ngạc nhiên chồm lên. Thế là một chiếc bađêri rơi xuống đất. Nhưng có hề chi? Sự liều lĩnh của Gađacđô chỉ làm khán giả cười thích thú, vì họ vốn độ lượng với những người được họ yêu thích, sẵn sàng tha thứ và bào chữa mọi lỗi lầm. Gađacđô càng táo bạo, anh vớ một cặp banđêri khác rồi cắm nó vào cổ con bò, bất chấp những lời phê phán khuyên can của những người lo sợ cho tính mệnh của anh. Anh cắm đến lần thứ ba, vẫn cứ vụng, nhưng anh dũng cảm quá đến mức đáng lẽ khán giả huýt sáo chê bai thì họ lại hoan hô rầm rĩ: "Người mới ghê chứ! Nhộn thật và may mắn thật!..."
Trong sáu cây banđêri chỉ có bốn cây còn cắm trên cổ con bò, nhưng ẻo lả đến nỗi hình như con vật không cảm thấy sự "trừng phạt"(15)
- Con bò vẫn còn nguyên vẹn(16), khán giả hét to trên các bậc ngồi trong khi Gađacđô nắm lấy thanh kiếm và mảnh mulêta tiến lên, bình tĩnh và oai hùng, tin tưởng vào vận đỏ của mình:
- Mọi người tránh xa ra! Anh lại thét lên.
Mặc dầu anh đã ra lệnh, anh vẫn thoáng thấy một người ở đằng sau mình. Anh quay đầu lại nhìn: Hóa ra là Fuentêx đang đi theo anh, tay cắp áo choàng, giả vờ lơ đãng nhưng sẵn sàng xông lại cứu anh, vì Fuentêx dường như linh cảm thấy sẽ có tai nạn xẩy ra.
- Để mặc tôi, Ăngtôniô! Gađacđô nói với Fuentêx một cách nghiêm nghị nhưng kính trọng, như nói với một người anh cả.
Vẻ mặt của Gađacđô làm cho Fuentêx nhún vai như để nói rằng thế thì anh không chịu trách nhiệm nữa, rồi quay người lùi ra xa một chút, tin rằng sớm muộn anh vẫn sẽ phải can thiệp.
Gađacđô xòe cái mulêta ngay trên đầu con bò làm nó tấn công lập tức. Anh tránh thoát. Công chúng gào lên:
- Hoan hô!
Con vật quay lại chồm lên người matađo rồi bằng một cái húc mạnh, nó giật được cái mulêta. Gađacđô thấy mình mất vũ khí và bị con vật đuổi riết, đành chạy về phía hàng rào. Nhưng ngay lúc ấy, cái áo choàng của Fuentêx đã từ đâu tới chặn đứng con bò, còn Gađacđô đang chạy bỗng thấy con vật dừng lại thì anh không nhẩy qua hàng rào ra ngoài mà lại ngồi xuống thềm hàng rào và cứ ngồi như vậy bốn năm giây, ngắm địch thủ của mình ở cách có vài bước. Sự dũng cảm cố tình của anh làm cho cuộc tháo lui của anh kết thúc bằng những tiếng hoan hô rầm rĩ của công chúng.
Gađacđô cúi nhặt chiếc mulêta và thanh kiếm, sửa sang kỹ càng mảnh vải đỏ rồi đến đứng đối diện với con bò. Anh không thản nhiên như trước nữa mà hết sức tức giận và quyết tâm giết thật mau con vật đã khiến anh phải chạy trốn trước mắt bao nhiêu người vốn khâm phục anh. Vừa làm xong một động tác tránh, anh cho rằng phút quyết định đã tới: anh bèn đứng ưỡn ngực, cái mulêta hạ thấp xuống, cái chuôi kiếm giơ ngang tầm mắt. Khán giả lại phản đối, lo cho tính mệnh của anh.
- Đừng liều thế!... Đừng! Đừng! Trời ơi!
Một tiếng kêu khủng khiếp làm rung động toàn thể đấu trường. Công chúng kinh hoàng đứng bật dậy, mắt mở to, nhiều phụ nữ che mặt đi hoặc bíu chặt lấy tay người bên cạnh. Gađacđô, trong lúc lao vào con vật, vấp mũi thanh kiếm vào một cái xương của nó, chướng ngại vật đó làm cho anh chậm tháo thân nên bị một cái sừng húc trúng. Sừng móc vào ngang thân anh, tuy anh là một chàng trai khỏe mạnh và chân tay chắc nịch, anh vẫn bị nhấc bổng lên, tay chân múa men trên không như một con rối ẻo lả. Cuối cùng con vật hùng mạnh lắc đầu ném anh ra xa vài bước. Anh ngã vật xuống cát, tay chân dang rộng, khác nào một con nhái mặc quần áo bằng lụa thêu kim tuyến.
- Chết rồi! Sừng đâm thủng bụng rồi! Khán giả kêu lên.
Nhưng giữa những người cầm áo choàng chạy lại để che chở và cứu anh, Gađacđô đứng dậy mỉm cười, sờ nắn chân tay mình, rồi anh nhún vai để tỏ ý rằng anh vẫn bình yên vô sự. Anh choáng váng vì bị ném xuống đất và thắt lưng của anh rách bươm, nhưng chỉ có thế thôi. Sừng bò chỉ đâm vào cái vỏ lụa dày bọc người mà thôi.
Anh đi nhặt "những dụng cụ xử tử"(17). Khán giả không còn ai muốn ngồi xuống vì tin rằng keo đấu sẽ nhanh chóng và dữ dội. Gađacđô tiến lại bên con bò như một người bị kích thích đến trở thành mù quáng. Sau khi thoát khỏi sừng bò anh không tin rằng nó ghê gớm nữa. Đối với anh, bây giờ chỉ có thắng hoặc chết, mà ngay lập tức không chậm trễ, không thận trọng. Hoặc con bò phải chết hoặc anh phải chết. Mắt anh đỏ ngầu như ứ máu. Anh loáng thoáng nghe thấy tiếng hò hét của khán giả khuyên anh thận trọng như tiếng gầm thét xa xôi từ một thế giới khác dội đến.
Anh chỉ làm hai động tác bằng mulêta với sự giúp đỡ của một capêađo đứng bên. Rồi đột nhiên, nhanh như tên bắn, anh xông vào con bò và phóng một nhát kiếm mà những khán giả khâm phục anh nói đó là một tia chớp. Anh đưa mạnh tay ra phía trước đến nỗi khi anh rút nó về, anh cảm thấy nó chạm vào một cái sừng, anh lảo đảo, bị hắt lại vài bước, nhưng anh vẫn đứng, còn con vật thì lồng chạy cuống cuồng rồi ngã ở bờ bên kia bãi đấu, bốn chân gập lại, đầu gục xuống cát cho đến lúc người puntiđiêrô(18) đâm cho nó một nhát để kết liễu đời nó.
Công chúng phấn khởi đến phát điên. Một trận đấu tuyệt diệu! Những xúc động không thể nào chịu nổi! Quả thật Gađacđô không để khán giả mất tiền hoài. Kỳ tích của anh đáng giá hơn tiền mua vé nhiều. Những người hâm mộ môn đấu bò sẽ tha hồ bình luận ba ngày liền trong các quán cà-phê. "Ôi chao! Cậu ấy mới liều mạng làm sao, mới hung làm sao!". Và những người khâm phục Gađacđô nhiệt liệt nhất, như bị một cơn sốt hiếu chiến, đảo mắt nhìn xung quanh để tìm những ai thuộc phe đối lập.
- Thật là nhà matađo số một trên thế giới!... Ai không đồng ý như vậy thì đã có tôi...
Khán giả chẳng chú ý gì nữa đến phần còn lại của buổi đấu. Sau những kỳ tích của Gađacđô, mọi thứ xem ra vô vị.
Khi con bò cuối cùng gục xuống, bọn trẻ con, khán giả hạ cấp trong xã hội và đấu sĩ tập sự, tràn vào bãi đấu như nước lũ. Họ vây quanh Gađacđô, đi hộ tống anh từ chỗ ngồi của ông chủ tịch đến tận cửa ra. Họ xô đẩy anh, ai cũng muốn bắt tay anh, chạm vào quần áo anh. Cuối cùng, những người nhiệt tình nhất, bất chấp những cái huých thụi của Người Quốc dân và những banđêridiêrô khác, túm lấy hai đùi của người matađo ưu tú, công kênh anh đi xuyên qua bãi đấu vào các hành lang rồi ra ngoài đấu trường.
Gađacđô bỏ mũ chào những nhóm người ca ngợi anh khi anh đi qua. Khoác chiếc áo choàng diễu hành, anh để cho khán giả khênh anh như một vị thần, vươn mình kiêu hãnh trên cái rừng người đội mũ kiểu Corđu và cát két kiểu Mađrit hoan hô anh như sấm.
Khi chiếc xe ngựa của anh tới đầu phố Ancala, giữa tiếng reo mừng của rất nhiều người tuy không dự cuộc đấu nhưng đã biết tin thắng lợi, một nụ cười kiêu hãnh và thỏa mãn về sức lực của bản thân làm rạng rỡ khuôn mặt lấm tấm mồ hôi và hãy còn nhợt nhạt vì cảm động của anh. Người Quốc dân vẫn lo lắng về cái ngã ghê gớm của người đội trường, nên hỏi Gađacđô xem có đau ở đâu không và có cần gọi bác sĩ Ruix không?
- Không cần!... Bị xoa nhẹ một tý thôi mà! Không có bò mộng nào giết nổi tớ đâu!...
Tuy vậy, có lẽ đúng lúc say sưa tự đắc thì kỷ niệm về những nỗi lo sợ buổi sáng lại hiện ra trong ký ức và hình như anh thoáng thấy vẻ chế nhạo trong khóe mắt của Người Quốc dân, nên anh nói thêm:
- Có những ý nghĩ ám ảnh tớ trước khi tới đấu trường. Ám ảnh như hơi hướng của phụ nữ. Tuy vậy cậu có lý đấy, Xêbátchiêng ạ! Cậu nói thế nào nhỉ! Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên có phải không?... Thật thế đấy, Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên đều chẳng dính dáng gì đến chuyện đấu bò cả. Bọn chúng ta phải tự mình lo lấy thân mình bằng tài ba hoặc dũng cảm, chứ chẳng có Trời Đất nào phù hộ mình cả... Này, Xêbátchiêng, cậu có năng lực đấy. Nếu trước kia cậu được học hành thì có lẽ đã thành công trong một nghề tự do nào rồi.
Trong lúc lạc quan vì sung sướng, anh coi người bạn banđêridiêrô kia như một nhà hiền triết, quên bẵng rằng trước đây anh luôn luôn chế giễu những bài diễn thuyết lủng củng của con người hiền lành thực thà ấy.
Về đến nhà, khi bước vào phòng ngoài, anh gặp không biết bao nhiêu là người hâm mộ muốn ôm hôn anh. Họ miêu tả chiến công của anh bằng những lời lẽ khoa trương làm cho anh tưởng rằng những thành tích ấy không phải là của anh nữa vì nó đã bị đưa lên quá đáng và biến hóa đi trong thời gian ngắn ngủi anh đi từ đấu trường về nhà. Lên tới phòng anh, anh thấy bạn hữu đông nghịt, toàn những ông sang trọng xưng hô cậu cậu tớ tớ với anh và cố dùng ngôn ngữ mộc mạc của dân quê, của những người chăn bò chăn dê. Họ vừa vỗ vai anh vừa nói:
- Cậu cừ lắm! Cừ lắm! Tớ chỉ biết nói thế thôi. Anh lảng tránh những người đón chào quá nhiệt liệt ấy, bước ra ngoài hành lang với Garabatô và bảo người hầu:
- Cậu đi đánh cho tớ bức điện về nhà. Cậu biết đấy: "Không có gì mới".
Garabatô muốn từ chối. Anh ta còn phải giúp người matađo cởi quần áo. Nhân viên của khách sạn sẽ đảm nhận việc đánh điện.
- Không! Không! Tớ muốn cậu đi đánh kia. Tớ sẽ chờ cậu về. Cậu còn phải đánh một bức nữa. Cậu cũng biết đấy: đánh cho người ấy..., cho phu nhân Xôn... Cậu cũng sẽ đánh: "Không có gì mới".
-----------
(1) Picađo: thành viên của đội đầu bò mộng, cưỡi ngựa, mang dáo gọi là pica.
 (2) Pêông: thành viên của đội đấu bò, đi bộ, chuyên làm nhiệm vụ múa capêa (áo choàng) hoặc cắm banđêri (xiên). Trong trường hợp thứ nhất người pêông còn gọi là capêađo, trong trường hợp thứ hai còn gọi là banđêridiêrô.
 (3) Prađô và Caxtêlanha: Prađô là một con đường dạo mát ở phía đông thành phố Madrit, còn Caxtêlanha là một con đường dạo mát khác ở đông bắc thành phố đó.
 (4) Angoaxilê: cảnh binh.
 (5) Gitanô: từ Tây Ban Nha chỉ người Bôhêmiêng.
(6) Môntêra: mũ của đấu sĩ bò mộng khi ra bãi đấu.
 (7) Những angoaxilê này có nhiệm vụ hộ tống các đội đấu diễu hành, nhận chìa khóa chuồng bò và trao nó cho người coi bò; họ còn có nhiệm vụ thi hành mọi mệnh lệnh của ông chủ tịch cuộc đấu.
 (8) Rào chắn thứ nhất của bãi đấu làm bằng ván và thanh gỗ.
 (9) Ông chủ tịch: người đại diện chính quyền địa phương đương nhiên được cử làm chủ tịch cuộc đấu.
(10) Can: gậy cầm tay chủ yếu dùng cho lịch sự.
 (11) Để giải tội trước khi ra pháp trường.
(12) Lời phát biểu của người matađo trước khi hạ sát con bò mộng là một thủ tục gọi là brindix. Người ấy tuyên bố định hạ sát con bò để dâng ai. Công thức của lời phát biểu ấy như sau: "Tôi hiến dâng con bò này lên... Hoặc tôi sẽ giết được con bò này, hoặc nó sẽ giết tôi".
 (13) Trong một trận đấu, nếu người matađo hạ sát con bò một cách xuất sắc thì khán giả kêu lên: "Tặng nó cho anh ấy!". Nếu đề nghị đó được ông chủ tịch đồng ý, người ta sẽ cắt một tai của con bò để trao cho anh và còn tặng anh một số tiền thưởng nữa.
 (14) Bướu cổ này nằm ở ngang tai con bò. Nếu cặp banđêri xuyên trúng cái bướu đó, hai mũi cắm gần nhau và hai thân treo lủng lẳng ở hai bên cổ con bò, thì người đấu sĩ được khen là cắm khéo.
 (15) Trừng phạt: danh từ chuyên môn chỉ việc cắm banđêri vào cổ bò.
(16) Nguyên vẹn: chỉ con bò sau khi bị đâm giáo và cắm banđêri vẫn khỏe mạnh như thường.
 (17) Những dụng cụ xử tử: chỉ thanh kiếm dùng để giết con bò và cái mulêta dùng để lừa nó.
 (18) Puntidiêrô; loại đấu sĩ có nhiệm vụ dùng một mũi dao nhọn dài khoảng 30cm kết liễu đời con bò bằng cách đâm con dao ấy vào điểm nối sọ và xương sống con vật. Dao ấy gọi là puntidia.