Phần 3

32. Vì sao một số người đầu có gầu nhiều?
Gầu là sản phẩm đào thải của da đầu, mỗi người đều có. Thông thường, nó không gây cảm giác gì đặc biệt nhưng nếu quá nhiều, nó sẽ gây ngứa và ảnh hưởng đến mỹ quan.
Sự sinh trưởng và diễn biến của da người được bắt nguồn từ những tế bào gốc ở tầng thấp nhất của lớp biểu bì. Cùng với sự hấp thu và đào thải, những tế bào gốc này sẽ phát triển lên trên, cuối cùng trở thành tế bào sừng và rụng đi. Quá trình này diễn ra trong khoảng 310 - 430 giờ. Tế bào sừng của một người từng giờ từng khắc đều rơi rụng, chẳng qua là vì kích thước mỗi tế bào rất nhỏ nên ta không cảm thấy mà thôi. Gầu thực tế là tế bào bị sừng hóa rơi rụng mà thành.
Vì sao có một số người gầu đặc biệt nhiều? Các bác sỹ phát hiện những người này phần nhiều ở lứa tuổi thanh niên. Do các hoóc môn giới tính mất cân bằng, đặc biệt là mức độ hoóc môn nam tăng cao, da tiết ra nhiều chất dầu. Khi dầu trên da đầu nhiều thì những tế bào sừng đã rụng ra sẽ dính lại với nhau, hình thành những đám gầu mà mắt thường có thể trông thấy được.
Ngoài ra, việc dùng xà phòng gội đầu hoặc dược phẩm có tính kiềm mạnh cũng dẫn đến gầu nhiều. Để tránh gầu, trước hết cần phải sống có quy củ, giữ cho tinh thần thoải mái, ít ăn chất mỡ, đường, ăn nhiều rau quả và những thức ăn chứa nhiều vitamin B. Đối với người da mồ hôi dầu, nên tăng thêm số lần gội, dùng xà phòng trung tính hoặc xà phòng lưu huỳnh để khống chế tiết dầu, giữ cho da đầu được sạch sẽ, tinh khiết.
Các nhà khoa học phát hiện thấy sự phát triển gầu có liên quan đến một loại vi khuẩn trên da. Vì vậy, có thể dùng thuốc kháng khuẩn để chữa gầu.
33. Câu nói "người khỏe mọc tóc, người yếu mọc móng tay" có cơ sở khoa học không?
Người ta dù khỏe hay yếu thì tóc và móng tay vẫn không ngừng sinh trưởng. Tóc có tuổi thọ trung bình 2-6 năm, lâu nhất có thể đạt 25 năm. Thông thường mỗi ngày, tóc mọc 0,2-0,4 mm, một tháng dài 1 cm. Tốc độ mọc của tóc sẽ thay đổi tùy theo tình hình tuổi tác và sức khỏe. Ở người già, người thể lực yếu, bệnh nhân và phụ nữ mang thai, tóc mọc tương đối chậm. Ở người khỏe ở lứa tuổi 16-24, tóc mọc nhanh hơn, chất lượng cũng tốt hơn.
Móng tay mỗi ngày mọc khoảng 0,1 mm. Ở những ngón tay dài, tốc độ mọc của móng cao hơn các ngón ngắn, nghĩa là trên cùng một bàn tay, móng tay ngón giữa mọc nhanh nhất, móng tay ngón út và ngón cái mọc chậm hơn. Vào mùa hè móng tay mọc nhanh hơn mùa đông, ban ngày mọc nhanh hơn ban đêm, ở phương Nam mọc nhanh hơn ở phương Bắc. Móng tay trẻ em mới sinh mọc tương đối chậm, lứa tuổi thanh niên mọc nhanh hơn, về tuổi già lại mọc chậm lại. Thông thường, người có sức khỏe tốt, dinh dưỡng đầy đủ thì tốc độ phát triển móng tay sẽ cao hơn so với những người thể lực yếu hoặc nhiều bệnh. Người quen dùng tay phải thì móng tay phải cũng mọc nhanh hơn.
34. Vì sao không nên cắt móng tay quá sâu?
Móng tay của con người giống như lớp vảy trên thân con rắn; đó là những sản phẩm phụ của da, tác dụng chủ yếu là bảo vệ ngón tay. Nhưng nếu móng tay mọc quá dài cũng không thuận tiện, vì móng tay dài dễ chứa nhiều vi khuẩn. Các nhà khoa học từng phát hiện, trong một g chất bẩn của móng tay có khoảng 4 tỷ vi khuẩn. Khi bạn không cẩn thận làm rách da, những vi khuẩn ở móng tay có thể gây viêm da. Khi bạn cầm vật gì ăn, vi khuẩn ở móng tay cũng có thể xâm nhập cơ thể. Vì vậy, để giữ gìn sức khỏe, ta nên có thói quen chăm cắt móng tay.
Rất nhiều người thích cắt móng tay thật ngắn vì họ cho rằng, móng tay càng ngắn càng tốt. Thực ra làm như thế không có lợi. Vì móng tay cắt quá ngắn sẽ làm yếu tác dụng bảo vệ của nó cho đầu ngón tay. Điều đáng chú ý là không nên cắt hai bên móng tay quá sâu, nếu không, chỗ móng tay mới mọc ra sẽ đâm thịt, dễ gây viêm nhiễm. Tóm lại, móng tay nên được cắt bằng đầu.
35. Vì sao nhiều trẻ em thích cắn móng tay?
Nếu bạn chú ý quan sát chung quanh sẽ phát hiện nhiều người có thói quen xấu: thích cắn móng tay, đặc biệt là trẻ em 5-10 tuổi.
Vì sao trẻ em thích cắn móng tay? Hiện tượng này có thể liên quan nhất định với di truyền. Nhưng phần đông trẻ em có thói quen cắn móng tay không hề liên quan gì tới di truyền mà do tâm lý bị căng thẳng, hoặc không được giáo dục thích đáng.
Một số nhà khoa học chỉ rõ các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trẻ em thích cắn móng tay, bao gồm: gia đình không hòa thuận, bố mẹ đề ra những yêu cầu học tập quá cao đối với con cái, bị thầy giáo phê bình, quở trách. Những điều này làm cho trẻ em luôn ở trạng thái tinh thần quá căng thẳng.
Khi trẻ em cắn móng tay (có em cắn cả phần da quanh móng tay gây chảy máu, viêm nhiễm), bố mẹ thường dùng biện pháp xử phạt như đánh, chửi để ngăn ngừa, nhưng vẫn không mang lại kết quả.
Muốn cho trẻ em khắc phục thói quen xấu này, cần phải tìm ra nguyên nhân cơ bản, phân tích môi trường chung quanh để có phương pháp uốn nắn đúng đắn. Mỗi khi nhìn thấy trẻ vô tình hay hữu ý cắn móng tay thì nên tìm cách để trẻ làm những công việc ưa thích như sắp hình, cắt giấy... nhằm phân tán sự chú ý của chúng đối với móng tay.
Ngoài ra, có thể đưa con đến bác sĩ để xin những lời khuyên, hay làm cho em bé được thư giãn, tăng cường năng lực tự khống chế và động viên kịp thời mỗi khi chúng có tiến bộ. Tất cả những việc này đều rất bổ ích cho việc khắc phục thói quen xấu hay cắn móng tay.
36. Có phải máu chỉ là chất nước màu đỏ không?
Máu trong cơ thể màu đỏ tươi, mới nhìn giống như chất nước có thuốc nhuộm đỏ. Thực ra không phải như thế. Nếu đặt một giọt máu dưới kính hiển vi để quan sát, ta sẽ phát hiện thấy trong máu có tế bào hồng cầu, tế bào bạch cấu, tiểu cầu và một số thành phần khác.
a. Tế bào hồng cầu giống như cái đĩa nhỏ màu hồng, ở giữa hơi lõm, chuyên vận chuyển khí ôxy và CO2. Sau khi máu qua phổi, tế bào hồng cầu sẽ mang theo ôxy mới được hít vào đi khắp toàn thân. Trên đường quay trở về, nó lại mang khí CO2 đến phổi để thải ra ngoài.
b. Bạch cầu là loại tế bào có nhân, không màu, khi nằm im có hình tròn. Trong trạng thái hoạt động, tế bào bạch cầu có thể biến hình, xuyên qua vách các mạch máu li ti, đi vào các tổ chức chung quanh. Trong bạch cầu có vô số hạt đặc biệt, có thể chia nó thành tế bào dạng hạt và không hạt. Các tế bào dạng hạt bao gồm 3 loại: trung tính, háo axit và háo kiềm.
Tế bào dạng hạt trung tính có khả năng biến hình rất mạnh và năng lực "ăn" những vật khác, trực tiếp giết chết vi khuẩn, có tác dụng bảo vệ quan trọng trong cơ thể. Tế bào dạng hạt háo axit chứa các chất men amoni, men thủy giải..., có thể làm giảm dị ứng, giết hoặc làm tổn thương ký sinh trùng. Tế bào dạng hạt háo kiềm chứa các chất phản ứng chậm.
Trong các tế bào bạch cầu không hạt, phần lớn là các tế bào lympho. Công năng của nó có liên quan đến chức năng miễn dịch. Một loại tế bào không hạt khác là tế bào đơn hạch, có khả năng vận động biến hình mạnh và "ăn" những vật khác. Khi đi vào tổ chức kết đế, nó có thể phân hóa thành tế bào to để nuốt các chất khác.
c. Tiểu cầu có hình dạng rất không quy chuẩn. Chức năng của nó là làm đông máu. Khi cơ thể bị thương chảy máu, tiểu cầu tràn ra bao bọc lấy miệng vết thương, tiết ra chất đặc biệt để gây đông máu, khiến cho máu trên miệng vết thương đông lại. Ở những người bị thiếu tiểu cầu, miệng vết thương rất khó cầm máu.
Ngoài ra, trong máu còn có chất khoáng, đường, mỡ, anbumin, chất kích thích, men và vitamin..
37. Vì sao khác nhóm máu thì không thể tiếp máu?
Trước kia, do không biết sự tồn tại của các nhóm máu khác nhau nên khi bệnh nhân cần máu, bất cứ người khỏe mạnh nào cũng đều có thể cho máu. Nhiều người sau khi được tiếp máu đã chết hoặc lâm vào tình trạng xấu đi. Năm 1902, nhà bệnh lý học người Áo là Lanterstana mới làm sáng tỏ bí mật về máu và đưa ra khái niệm nhóm máu. Ông chia máu người thành 4 nhóm: A, B, AB, O.
 Người có kháng nguyên A trên bề mặt các hồng cầu được xếp vào nhóm máu A. Người có kháng nguyên B trên bề mặt hồng cầu được coi là thuộc nhóm máu B. Người có cả 2 kháng nguyên trên thuộc nhóm máu AB. Người không có cả 2 kháng nguyên A và B được xếp vào nhóm máu O.
Nhóm máu O có thể tương tác với các nhóm máu bất kỳ khác mà không có phản ứng của kháng thể. Vì vậy, người thuộc nhóm máu này có thể cho máu bất kỳ ai. Ngược lại, nhóm máu AB vì không phản ứng với bất cứ kháng nguyên nào nên có thể tiếp nhận tất cả các nhóm máu.
Việc nhận máu thuộc nhóm không phù hợp sẽ dẫn đến phản ứng đông máu, tế bào hồng cầu bị biến dạng, gập lại, gây nguy hiểm cho tính mạng..
38. Máu chảy trong cơ thể như thế nào?
Máu tuần hoàn trong cơ thể, thậm chí lúc ngủ cũng không ngừng chảy. Vậy quy luật lưu động của máu như thế nào? Như ta đã biết, máu là chất lỏng giống như nước. Nước máy chảy trong đường ống đến khắp mọi nhà. Máu cũng phải chảy trong đường ống cố định, đường ống đó gọi là mạch máu.
Mạch máu bắt đầu từ tim, có đủ kích thước từ to đến nhỏ, dài đến ngắn, có cả những mạch máu nhỏ li ti mắt thường không nhìn thấy được, dày đặc như mạng nhện, phân bố khắp cơ thể. Nếu cộng chiều dài các mạch máu trong toàn cơ thể, ta sẽ được một đoạn thẳng dài đến 10 vạn km, đủ để quấn quanh quả đất hai vòng rưỡi. Mạch máu mới nhìn qua gần như giống nhau, nhưng thực ra được chia làm hai loại lớn là động mạch và tĩnh mạch. Máu chảy trong động mạch là "máu sạch", còn máu chảy trong tĩnh mạch là "máu bẩn".
Máu được bơm từ tim ra chứa ôxy và các chất dinh dưỡng, gọi là "máu sạch". Thông qua động mạch, nó chảy vào các mạch máu li ti phân bố khắp trong cơ thể, đưa ôxy và các chất dinh dưỡng đến cung cấp cho tế bào, tức là cho tế bào "thở" và "ăn uống". Các tế bào lại thải ra khí CO2 và các chất thải vào máu. Thế là "máu sạch" biến thành "máu bẩn", chảy về tĩnh mạch, thông qua phổi, thận và da để thải các chất độc ra ngoài, biến thành máu sạch quay về tim.
Cứ như thế, máu tuần hoàn không ngừng trong động mạch và tĩnh mạch.
39. Có phải nhóm máu một người suốt đời không thay đổi?
Trước đây, người ta luôn cho rằng nhóm máu của một người suốt đời không thay đổi. Vì vậy, có người gọi nhóm máu là "hộ khẩu đỏ".
Với đa số người, nhóm máu quả thực suốt đời không đổi. Nhưng điều đó không phải là tuyệt đối. Có một phụ nữ tuổi trung niên qua giám định thuộc nhóm máu AB. Bà đã được tiếp nhóm máu AB 4 lần an toàn vô sự, nhưng trong lần tiếp máu thứ năm lại có phản ứng không tốt. Qua kiểm tra mới phát hiện nhóm máu của bà đã biến thành nhóm máu A.
Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện thấy, có lúc bệnh tật khiến cho nhóm máu thay đổi. Ví dụ, bệnh máu trắng có thể làm mất nhóm máu; bệnh khối u đường ruột có thể khiến cho bệnh nhân từ nhóm máu A biến thành nhóm máu B. Song điều làm cho người ta khó hiểu là trên thế giới lại có một người đồng thời tồn tại hai nhóm máu. Năm 1953, ở Anh, người ta đã phát hiện một phụ nữ kỳ quái, vừa có nhóm máu A lại vừa có nhóm máu O. Vì sao lại có hiện tượng này, cho đến nay các nhà khoa học vẫn đang tìm tòi chưa làm sáng tỏ được.
40. Máu nhân tạo có ưu điểm gì?
Khi bệnh nhân mất nhiều máu hoặc trải qua một cuộc đại phẫu, tiếp máu là khâu quan trọng, không thể thiếu được. Nhưng có lúc do gặp khó khăn về nhóm máu hoặc nguồn máu dự trữ thiếu, nếu chỉ dựa vào lượng máu hiến của những người mạnh khỏe thì không thể nào thỏa mãn được nhu cầu điều trị.
Vì vậy, các nhà khoa học đã nghiên cứu ra một loại sản phẩm thay thế cho máu người, đó là máu nhân tạo. Tháng 7 năm 1980, một giáo sư khoa y Đại học Hiroshima (Nhật Bản) tuyên bố, ông ta dùng máu nhân tạo tiếp cho 100 bệnh nhân trong phẫu thuật và đã thu được thành công tốt đẹp. Tháng 6 năm 1980, Bệnh viện Trung Sơn, (Trung Quốc) cũng đã tiếp máu nhân tạo cho một bệnh nhân bị suy bại công năng thận, kết quả rất tốt.
Tên đầy đủ của máu nhân tạo là máu nhân tạo fluocacbon. Nó có khả năng hòa tan chất khí rất cao; trong mạch máu, nó có thể thực hiện phân áp đối với ôxy và CO2 để thực hiện sự khuếch tán khí, nhờ đó mà có thể đưa khí ôxy đến khắp cơ thể và bài tiết khí CO2 ra ngoài. Máu nhân tạo so với máu người có mấy ưu điểm sau:
- Không bị nhóm máu hạn chế, có thể dùng cho bệnh nhân có bất cứ nhóm máu nào. Sau khi tiếp máu, sẽ không xảy ra phản ứng trộn máu nghiêm trọng. Đặc biệt, trong trường hợp cấp cứu, không cần phải kiểm tra nhóm máu, thí nghiệm phối máu giao tạp mà có thể sử dụng ngay. Đối với trường hợp cấp cứu với quy mô lớn lại càng đơn giản, nhanh chóng.
- Bảo quản dễ dàng, không cần phải cất giữ trong tủ lạnh 4-6 độ C như máu tươi mà vẫn có thể bảo quản được hàng năm.
- Không phát sinh sự cảm nhiễm giao tạp. Thường thường khi tiếp máu, nếu không kiểm tra nghiêm ngặt sẽ dễ xảy ra tình trạng vi khuẩn và mầm bệnh trong cơ thể người cho máu chuyển sang cơ thể của bệnh nhân cần máu. Còn máu nhân tạo được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp nên không bị nhiễm vi khuẩn hoặc có độc tố bệnh.
Ngoài việc cấp cứu, máu nhân tạo còn có thể dùng bổ sung cho tim và phổi khi có nhu cầu, hoặc dùng bảo quản các cơ quan để cấy hoặc thay thế.
41. Vì sao khi chạy, tim đập nhanh hơn?
Tim giống như một cái bơm tự động, ngày đêm không ngừng co bóp, đưa máu chứa ôxy và chất bổ đến khắp cơ thể. Khi ngủ hoặc nghỉ ngơi, lượng máu từ tim đưa ra mỗi phút khoảng 3-5 lít là đủ, cho nên tim đập tương đối chậm, lực co bóp cũng không lớn lắm. Khi cơ bắp bắt đầu hoạt động, nhu cầu ôxy và chất bổ nhiều hơn so với khi yên tĩnh, lượng máu của tim đưa ra cũng phải tăng lên tương ứng mới thỏa mãn nhu cầu của cơ thể. Một động tác dù là rất nhẹ (ví dụ mỗi giây gập chân một lần) cũng sẽ khiến cho lượng máu từ tim đưa ra tăng lên nhiều lần. Khi vận động mạch như chạy, bơi lội, lượng máu tim đưa ra càng nhiều hơn.
Trong một phút, tim của người có thể co bóp đưa ra khoảng 20 lít máu, nhiều gấp 5 hoặc 6 lần so với lúc nghỉ ngơi. Ở vận động viên, tim co bóp mạnh mẽ hơn, một phút có thể đưa ra 30 - 35 lít máu, thậm chí vượt quá 40 lít. Có thể bạn sẽ lấy làm lạ, khi vận động, lượng máu luân chuyển tăng lên là từ đâu mà có? Thứ nhất, cơ thể phải động viên máu cấp tốc. Bình thường, máu chứa trong gan, lá lách và ở các mạch máu dưới da. Khi cần, nó được điều động cấp tốc để cùng tham gia cung cấp ôxy, chất bổ và vận chuyển chất thải, bảo đảm cho cơ bắp vận động linh hoạt và mạnh mẽ. Thứ hai, cơ thể tăng tốc độ tuần hoàn máu. Lúc nghỉ ngơi, máu tuần hoàn trong cơ thể 4-5 lần/phút, còn lúc vận động có thể tuần hoàn đến 7 lần; lượng máu qua tim cũng tăng lên, do đó lượng máu từ tim đưa ra sẽ tăng lên rất nhiều. Một quả tim khỏe mạnh sẽ căn cứ vào những đòi hỏi khác nhau mà hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Tim dựa vào sức mạnh nào để vận chuyển máu tăng thêm? Chủ yếu là bằng hai biện pháp: tăng nhanh nhịp đập và tăng cường lực co bóp. Như vậy, lượng máu chảy qua cả động mạch và tĩnh mạch đều tăng.
Khi bạn chạy hoặc leo núi, vì vận động mạnh nên thần kinh giao cảm được hưng phấn, nhịp tim tăng nhanh, lực co bóp tăng, do đó bạn sẽ cảm thấy tim đập vừa nhanh vừa nặng, rất mãnh liệt.
Nói như thế nghĩa là việc chạy đã tăng thêm gánh nặng cho tim chăng? Nó có lợi gì cho sự khỏe mạnh của tim không? Có lợi rất lớn. Nguyên là tim đang cần có một phụ tải nhất định để tăng thêm sự lành mạnh. Vì khi công việc tăng lên, động mạch vành cũng đòi hỏi lượng máu chảy qua phải nhiều hơn, nhờ đó mà tim cũng được cung cấp nhiều ôxy và chất bổ hơn. Quả tim trong điều kiện "làm nhiều được hưởng nhiều" như thế nên sẽ khỏe hơn.
42. Vì sao sau khi giật mình mặt lại tái xanh?
Trong cuộc sống, hầu như mọi người đều gặp những trường hợp khẩn cấp nào đó. Khi đột nhiên bị giật mình, cơ thể sẽ có phản ứng, biểu hiện là mặt tái xanh, thậm chí có thể tứ chi lạnh, toát mồ hôi, nổi da gà. Đó là vì trong cơ thể có một hệ thống phòng ngự. Khi bị kích thích mạnh, cơ thể sẽ có hàng loạt phản ứng do thần kinh phát ra. Ví dụ như hiện tượng thần kinh giao cảm sẽ hưng phấn, tuyến yên - vỏ tuyến thượng thận sẽ tiết ra nhiều chất nội tiết hơn hơn để thích ứng với sự kích thích mãnh liệt đó, nhằm nâng cao khả năng đề kháng của cơ thể đối với ngoại giới, trong y học gọi là "kích thích phản ứng".
Thần kinh giao cảm hưng phấn, tuyến yên - vỏ tuyến thượng thận tiết ra nhiều chất kích thích hơn khiến tim đập nhanh, lực co bóp mạnh, dẫn máu ra nhiều, nâng cao huyết áp. Ngoài ra, nó còn thúc đẩy sự phân bố lại lượng máu trong cơ thể. Khi đó da, các tạng phủ trong bụng và mạch máu thận co lại, còn mạch máu ở não không bị co, bắp cũng mở rộng bảo đảm cho tim, não và các cơ bắp được cung cấp nhiều máu hơn. Điều này sẽ có lợi cho việc chống lại những kích thích mạnh của ngoại giới, bảo đảm cho cơ thể không bị tổn thương. Vì khi đó da, rất nhiều động mạch nhỏ trong các cơ quan nội tạng, các mạch máu li ti co hẹp lại nên ở những bộ phận này phát sinh hiện tượng thiếu máu, thiếu ôxy, làm cho mặt tái xanh, tứ chi phát lạnh, toát mồ hôi và chân lông dựng lên.
Cơ thể sẽ nhanh chóng trở lại trạng thái bình thường nếu cảm xúc không quá mãnh liệt, thời gian xẩy ra ngắn. Phản ứng ứng phó kích thích kể trên có lợi cho việc điều động toàn thân nhằm hoàn thành nhiệm vụ khẩn cấp, hoặc tránh được tối đa khả năng gây nguy hiểm cho ta. Nghĩa là nó sẽ khiến cho ta ứng phó có hiệu quả trước những khó khăn trong cuộc sống. Nhưng nếu bị kích thích quá mạnh, kéo dài hoặc thường xuyên, cơ thể chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng.
43. Vì sao khi da bị chảy máu thì máu sẽ tự động đông lại?
Trong cơ thể, khắp nơi đều có mạch máu. Trong "dòng sông" đó, máu là chất nước màu hồng chảy đi cuồn cuộn.
Da bạn bị rách chỗ nào thì chỗ đó, máu sẽ chảy ra. Nhưng máu sẽ đông kết lại thành đám rất nhanh để lấp kín "miệng sông". Đó là nhờ trong máu chứa rất nhiều tiểu cầu.
Tiểu cầu có tác dụng cấp cứu rất kỳ diệu đối với miệng vết thương. Khi từ trong mạch máu chảy ra, nó lập tức "nát vụn". Nhân tiểu cầu kết hợp với men đông máu trong huyết tương, được ion canxi hỗ trợ, sẽ làm cho máu đông lại. Các sợi anbumin trong huyết tương dưới tác dụng của men đông máu và nhân của tiểu cầu sẽ biến thành mạng lưới anbumin xơ đông đặc. Anbumin xơ là chất "xi măng" trong cơ thể, nó đông đặc rất nhanh và kết thành từng sợi vừa mịn vừa dài. Những sợi dây này lại đan xen vào nhau trùng điệp, cuối cùng lấp kín miệng vết thương, khiến cho máu không thể chảy ra được. Qua mấy ngày sau, nó sẽ đông kết thành vảy cứng.
44. Vì sao khi da bị va đập lại hình thành đám bầm tím?
Đi đường vấp ngã là việc bình thường. Có lúc không can gì, nhưng có lúc ngã xong, ngoài cảm giác đau, da còn bị sây sát và xuất hiện một đám bầm tím. Đó là do mạch máu ở da bị nứt vỡ, gây ứ huyết dưới da.
Dưới da có rất nhiều mạch máu. Chúng có đặc điểm chung là: tiết diện nhỏ và thành mỏng. Những mạch máu nhỏ này không chịu được lực va đập mạnh. Nếu ta ngã ngồi xuống đất, da ở mông thường không có vết bầm vì ở đó có rất nhiều mỡ. Nhưng nếu phần bị va đập nằm ở phía trước ống chân hoặc phía bên cánh tay (những nơi lớp mỡ dưới da mỏng), tất nhiên các mạch máu ở lớp tổ chức da sẽ bị phá hoại, máu trong đó chảy ra. Như ta đã biết, nếu da bị dao cắt, chỗ vết thương sẽ chảy máu. Còn trong trường hợp này, máu chảy ra bị lớp da ngăn lại không thoát ra được, nên tụ lại chung quanh chỗ bị dập. Tất nhiên, máu vừa mới chảy ra cũng có màu đỏ, nhưng vì có một lớp da ngăn lại, cộng thêm việc hồng huyết tố trong máu biến màu dưới da nên ta chỉ thấy một vết bầm. Đó chính là nguyên nhân hình thành vết bầm khi da bị va đập.
45. Vì sao có lúc đỏ mặt, tía tai?
Ta thường có lúc đỏ mặt, tía tai. Ví dụ, lúc cảm thấy e thẹn, lúng túng do gặp một người lạ; khi đi thi gặp đề khó hoặc lần đầu bước lên bục giảng bài, khi tranh luận kịch liệt... Tóm lại, có rất nhiều trường hợp chúng ta lâm vào tình trạng đỏ mặt, tía tai, tim đập rất nhanh.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng trên mặt đỏ, nhưng phân tích kỹ thì thấy phần nhiều đều là do tâm trạng bị xáo trộn. Ví dụ, khi mấy người cùng ngồi thảo luận, ban đầu mọi người còn vui vẻ, hòa thuận, mặt không biến sắc. Rồi đến lúc ý kiến chia rẽ, mọi người tranh luận với nhau không thể thống nhất, càng tranh luận càng gay cấn. Do tình cảm bị kích động, tinh thần căng thẳng cho nên vỏ não bị kích thích hưng phấn, gây hưng phấn cho hệ thần kinh giao cảm. Hệ thống này sẽ thúc đẩy tuyến thượng thận tiết ra nhiều chất kích thích. Điều này một mặt khiến cho tim đập nhanh, huyết áp cao, mặt khác khiến cho cơ bắp và các mạch máu dưới da mở rộng. Mạch đập nhanh khiến ta cảm thấy tim nhảy mạnh, mạch máu dưới da mở rộng sẽ khiến cho toàn thân phát nhiệt và đỏ mặt, tía tai.
Đến khi cuộc tranh luận kết thúc, tim trở về trạng thái bình thường, tinh thần được thư giãn; lúc đó mặt mới hết đỏ, vì quá trình hưng phấn của vỏ não đã kết thúc, trạng thái tinh thần ổn định.