Chương I ( B)

CHUYỆN CÁI CHỢ
"Trai thương vợ, đang đông buổi chợ
Gái thương chồng, nắng quái chiều hôm".
Chợ là nơi ồn ào náo nhiệt nhưng tình nghĩa vợ chồng lại đằm thắm mặn mà và kín đáo. Có một thời, người ta chỉ trích một lối sống thiếu sự đối xử tốt với nhau, đã đưa ra câu: “Tình nghĩa anh em, cũng chợ giời"! Chợ giời là cái chợ trời ơi đất hỡi, có đủ những mánh khoé, lừa lọc điển hình hơn ở những chợ truyền thống.
Chợ âm phủ hoặc chợ giời ngày xưa là ở trong hoang tưởng. Thi sĩ Tản Đà ngày xưa có ý định mang văn của mình lên bán ở chợ giời. Ở ta cũng có một vài nơi heo hút mua bán lúc trời nhá nhem tối như giữa người với ma quỷ. Người ta gọi những nơi này là chợ âm phủ.
Á Nam Trần Tuấn Khải đã tả cái chợ làng những năm 1930 - 1931 như sau:
Lâu vắng, như quên cảnh chợ nhà
Nay về, có dịp lại thăm qua
Nói năng trắng trợn, tay buôn thịt
Chào gọi xôn xao, bọn bán quà…
Hống hách thầy cai, lên mặt dữ
Tung tăng lũ bợm, kiếm ăn già
Tự do ngôn luận, không ngăn cấm
Chửi bới huyên thuyên lũ cắp gà…
Ở đâu có sự trao đổi, có một số người bán, một số người mua là thành chợ. Nói đến chợ la nói đến sự phức tạp nhân sinh. Có chợ thôn, chợ làng (chợ làng tôi có những cô gái, một ngày hai bữa cơm đèn), chợ huyện (chợ huyện một tháng sáu phiên, gặp cô hàng xén kết duyên Châu Trần), chợ quán, chợ chùa, chợ đình, chợ cầu, chợ vùng cao, chợ bên sông (quanh năm buôn bán ở mom sông)… Nhưng đặc biệt và gần với mọi người hơn cả là cái chợ làng. Đợi mẹ đi chợ về là một cái đợi chờ đặc biệt, hạnh phúc, ngộ nghĩnh vì cậu bé hoặc cô bé sẽ được đón mẹ, được nhận từ bàn tay thân yêu, chai sạn, giá buốt mà nồng ấm của người mẹ những cái bánh đa, gói kẹo, đẵn mía, cái bút v.v… Đó là những món quà tuyệt vời nhất, ngon lành nhất, không gì sánh nổi.
Vào những dịp Tết lại còn tưng bừng hơn nữa. Chợ là nơi giao tiếp, nhộn nhịp. Thông qua chợ, người ta có thể biết được nhiều thông tin không chỉ về buôn bán, làm ăn mà còn về mọi mặt trong đời sống hàng ngày:
"Dân chợ Phù Ninh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao, chẳng lấy chồng…".
(Núi Đôi Vũ Cao)
Chợ quê thường nổi bật lên hình ảnh những cô hàng xén với những đôi mắt nhìn bâng khuâng. Họ là những bông hoa của chợ nhà thơ Hoàng Cầm đã viết về họ rất hay:
"Những cô hàng xén răng đen
Cái như mùa thu toả nắng…"
Người ta đi chợ để mua bán những thứ cần thiết. Nhưng cũng có những người đi chợ chơi, dạo chợ và coi đó là một thú vui. Cũng có những người đi chợ để tìm hiểu nhau, manh mối một tình yêu nào đó. Chợ xưa, ngoài các dãy hàng thịt, hàng quà, tạp hoá, quán rượu, trầu cau, có các lều gà, vịt, chó, cá, cua, tôm v.v…, còn có lò nhuộm, có cái chảo lớn đun nước màu nhuộm áo, yếm, cạp váy. Góc nọ, góc kia còn có các ông thầy bói, thầy tướng số và có phiên lại có vài ba người hát xẩm.
Qua thăm một cái chợ, người ta có thể biết sơ qua về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của một địa phương nào đó. Vì tất cả mọi mặt đời thường đều phơi bày ra ở chợ. Chợ cũng là một bản nhạc giao hưởng khổng lồ đủ các loại hình âm thanh. Có những cái chợ thật độc đáo như ở biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, ngoài việc mua bán ra, nam nữ thanh niên còn tìm hiểu nhau rồi hát sli lượn với nhau. Khi gặp được người vừa ý, họ liền đưa nhau ra khỏi chợ.
Ở Hà Giang (Mèo Vạc) và Lào Cai (Sa Pa) còn có chợ tình. Ở đây, trai gái yêu nhau, âu yếm nhau ngay tại chợ đã đành, những người có vợ có chồng rồi vẫn có thể đến đây để gặp người tình cũ của mình một cách tự do mà không chịu sự ràng buộc cấm đoán của chồng (hoặc vợ)…
Những năm gần đây, ở Giảng Võ, Kim Liên, Ngã Tư Sở của Hà Nội có những nhóm người tụ họp nhau lại hình thành chợ lao động. Thành phần của chợ lao động này gồm các thanh niên không có việc làm, những người nông dân trong những ngày nông nhàn kéo nhau ra Hà Nội kiếm việc làm.
Chợ xuân của ta cũng thật đặc biệt. Một vài ngày sau Tết Nguyên đán, khi không khí Tết vẫn còn tràn ngập khắp nơi, người ta họp chợ lấy may ngày đầu năm. Chợ rất đa dạng và phong phú, có đủ các tên gọi khác nhau. Chợ giời là cái chợ Trời ơi đất hỡi, nơi diễn ra sự mua bán đủ các loại mặt hàng từ đơn giản nhất đến máy móc tinh vi. Chợ âm phủ là nơi diễn ra sự mua bán về đêm, không nhìn rõ mặt người… Ngoài ra còn có chợ cóc, chợ đuổi, chợ tạm, chợ bến, chợ cầu, chợ chiều…Tan tác như cảnh chợ chiều, đó là cái cảnh rút lui sào sạc đến mức chẳng còn ai. Ai cũng muốn về cho sớm. Ca dao xưa còn nhắc đến: “Bà già đi chợ Cầu Đông”. Đó là cái chợ ở phố Hàng Đường ngày xưa, nơi Tú Uyên mua được bức tranh nàng Giáng Kiều. Chợ bán đủ các loại mặt hàng "thượng vàng hạ cám" Bức tranh bán ở chợ Cầu Đông còn đáng giá hơn nhiều lần. Nó trở thành một câu chuyện dân gian người đời còn nhắc đến.
Người ta nói "Cứ như là vỡ chợ" là ví cảnh quá ồn ào. Đòn "hội chợ" là có nhiều người tham gia vào cuộc đánh rồi lại bỏ đi đến nỗi người bị đánh không còn rõ là những ai đã đánh mình. Lại còn có một câu chuyện cảm động. Một cô gái gánh hàng đi chợ, bị chàng trai giữ lại để tỏ tình. Cô gái cần phải tranh thủ tới chợ cho sớm, đã trả lời rất thật tình mà tha thiết:
"Chàng trai bỏ áo em ra
Để em đi chợ, kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa hàng bán hết đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em!"
Khi nói: "Cơm hàng, cháo chợ, vợ nhặt, con thêm" là những từ dùng để chỉ những gì tạm bợ, qua quít không được nghiêm chỉnh.
Chợ ngày xưa còn có một nhân vật đặc biệt. Đó là anh mõ chợ, là người thông báo, đi rao mọi tin tức về việc buôn bán trong chợ. Anh ta còn làm đủ mọi việc như giúp mọi người ổn định chỗ ngồi, sửa lều lán, thu lệ phí v.v… Nhưng anh ta, chỗ nào cũng có mặt và làm cho mọi người vừa lòng… Anh ta luôn chân luôn tay, nói nhiều, ăn mặc xộc xệch, chít cái khăn tai chó.
Chợ là cuộc đời trần tục. Có đủ các mùi vị và hình ảnh sinh động của cuộc sống. Người ta viết quá nhiều về cái chợ. Chuyện về cái chợ không bao giờ hết. Có điều những cái chợ xưa chỉ còn giữ lại một chút thơm thảo và da diết trong ký ức của con người ngày nay.
CHUYỆN CÁI CỔNG LÀNG
 
Người đi xa, nhìn thấy cây đa, bến nước, cây gạo, nóc đình và cổng làng là biết đã về đến quê.
Làng nào cũng có một cái cổng làng. Có làng lại có một cổng chính, một cổng phụ. Cái cổng làng chiếm một địa vị quan trọng, thiêng liêng, thường trực trọng lòng tất cả mọi người trong làng. Phải đi qua cổng làng rồi mới về đến nhà.
Cái cổng làng chứng kiến sự đến và sự đi của mọi người. Đám cưới tưng bừng đi vào làng với những mâm cau, trầu, lễ vật phủ tấm vải đỏ rồi những đám ma nổi kèn trống tiễn người quá cố qua cổng làng. Khi đi qua cổng làng, người chết phải được khiêng tay, hạ thấp xuống để chào vĩnh biệt cái cổng làng thiêng liêng mà thân thiết.
Mỗi làng xây cổng theo kiểu dáng và phong cách của mình. Nhưng đều có điểm giống nhau là làm sao cho cái cổng làng phải nghiêm trang, hoành tráng, khoẻ mà đẹp. Có nhiều làng xây dựng cổng làng giản đơn mà ưa nhìn. Có những làng xây dựng cầu kỳ hơn. Cổng làng Đông là một cổng tò vò cao 4 mét. Phía trên là hai mái ngói nằm trên khung, vì kèo bằng gỗ tứ thiết. Phía bên ngoài mái được xây lên một bức tường gạch dầy. Trên mái cong có đắp những mảng trang trí núi, mây. Bên dưới có đề tên làng. Bức tường gạch vồ nối liền hai bên cổng tò vò với hai cột trụ cao vút Trên đỉnh cột trụ có hình một quả đào tượng trưng cho sự trường thọ. Mái nhà sát cổng che cho một khoảng đất chừng 10 mét vuông để cho mọi người tạm thời tránh mưa nắng. Thân cột là câu đối với những chữ rồng bay phượng múa:
"Cao quý phong thanh thiên vạn cổ
Nam thanh nữ tú nhất hương chung"
Làng Đông còn một cổng thứ hai nữa với đôi câu:  
"Khởi tâm tiền nhân lập
Tích đức hậu thế truyện”.
Trên tường cổng làng có trang trí những nhành lá vạn niên cách điệu thành những đường gấp khúc duyên dáng la đà, móc vào nhau. Đi vào cổng làng phải qua ba bậc lát đá. Cổng làng Hồ có đôi câu đối:
"Mỹ tục thuần phong cảnh chiếu Tây Hồ minh kính.
Thiện ngôn, hảo sự trưởng lưu mạt lợi danh hung" (Mạt lợi là hoa nhài)
Cổng làng Thọ gây ấn tượng bằng hai cột trụ xây cao. Có ba bậc đi lên lát đá xanh. Trước đây có một cây si cao, sum sê, xanh lá, phủ lên một bên cột. Người ta có câu vè:
"Chùa Thiên Niên có cây lá cọ
Bên làng Thọ có cái cổng xanh
Chùa Bà Đanh vắng tanh vắng ngắt”.
Cổng làng cả cũng là một nóc nhà hai mái. Một mái ra ngoài, một mái vào trong. Tất cả được 4 chiếc cột gỗ lim lớn đội lên. Dưới chân cột có chôn hai con sấu đá Có người gọi là con nghê đá. Vào làng phải qua năm bậc xây gạch. Hai bệ cột trụ cổng làng vút lên thanh thoát như múa với trời xanh. Cổng làng Sơn Đồng (Hoài Đức), cổng làng Yên Sơn (Quốc Oai)… được rất nhiều du khách nước ngoài tìm đến, nghiên cứu, chụp ảnh sao chép. Họ trầm trồ khen ngợi hết lời những cái cổng làng này. Mặc dù, chúng ta còn rất nhiều những cái cổng làng khác đẹp hơn nhiều. Có những cổng làng được xây dựng thật hoành tráng với ba cổng tò vò liền nhau. Hai cổng hai bên nhỏ hơn cổng giữa như kiểu toà tam quan ở đình.
Ở những làng có nhiều người làm quan to, thậm chí có cả những tướng quân hiển hách, bên cạnh cổng làng được dựng một bia “hạ mã". Ai đi ngựa tới đây phải xuống ngựa. Ở hai cánh cửa có một hổ phù. Làng nào có nhiều người đỗ đạt, nhiều quan văn thì cổng làng có nhiều câu đối hay, những bức hoành để ngợi ca và khuyến học. Có những cổng làng đắp quả bầu trên nóc. Quả bầu này là quả bầu chứa đựng tinh hoa của cả vũ trụ. Có hình hai con cá hoá long chầu hai bên quả bầu. Bức hoành thường đề chữ Tiểu vi đại (cái nhỏ là cái lớn) hoặc hàng chữ Trực đạo vi hành (đi đường thẳng).
Có cổng lại có cả điếm canh nhô lên cao. Đó là nơi để các tuần phu đứng lên cao mà quan sát xung quanh. Đêm đông họ đốt lửa trên chòi. Trước kia xây cổng làng phải có thầy địa lý xem phong thổ, xem địa thế. Cổng làng phải dựa vào thế đất có long quỳ hổ phục hoặc bụng con cá mới mong có được uy vũ và sự sinh sôi. Nếu dựa đúng vào thế bị gậy thì không hay. Riêng về mặt kiến trúc và trang trí những mây, nước, hoa, lá, màu sắc, đường nét…
Những cái cổng làng xưa còn giữ lại cả một kho báu vô giá. Chúng được xây dựng bằng những bàn tay thần tình của các bậc cha ông chúng ta. Những đường nét, hoa văn mang lại cho chúng ta nhiều tín hiệu từ xa xưa cũng như những mật mã về cái đẹp và tư duy truyền thống, đòi hỏi người đời sau giải mã. Ngắm cổng làng, có lúc ta thấy nó dịu dàng như tình mẹ, lúc đỏ rực lên như ráng chiều, lúc đăm chiêu dằn vặt. Có lúc nó lại mơ màng sương khói. Cổng làng quan sát những điều thánh thiện và những điều ma quỷ trong cộng đồng. Nó là sự đón nhận.
Cổng làng giữ lại những kỷ niệm của những phút giây lịch sử. Cổng luôn im lặng, giữ trong mình những điều bí mật của ngàn đời. Cổng làng rung động khôn xiết cùng với bức tường cũ rêu phong và với những chứng tích nhiều năm tháng đã qua. Cổng làng không chỉ nhìn và thấy, nó còn suy tư. Cánh cửa cổng làng mở là thuộc về dương, đóng là thuộc về âm. Chúng ta không quên cái cổng làng Vũ Đại gắn bó với những nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, Bá Kiến… của Nam Cao.
Cũng không quên cái cổng làng trong tiểu thuyết Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Chỉ vì mấy suất sưu chưa đóng đủ mà tuần phu nhất định không mở cổng làng cho mọi người ra đồng làm việc hoặc đi lại khiến nhân dân bất bình đấu tranh.
Quê hương là đêm trăng tỏ.
Quê hương là chùm khế ngọt v.v…
Nhưng quê hương cũng còn là cái cổng làng những người con khi xa quê hương đều cúi đầu chào trước cổng làng, hẹn ngày trở lại. Ngày xưa, quan Trạng về làng cũng phải vái chào cái cổng làng rồi mới đi qua. Tất cả mọi hoạt động trong làng đều được đưa đến cái cổng làng. Những tin tức được niêm yết lên và được mọi người kháo nhau, bàn bạc, truyền bá thành những câu chuyện không bao giờ hết. Ngay sau cái cổng làng thường mọc lên một vài quán hàng. Một số gia đình quây quần tụ tập lại với nhau hình thành một xóm gọi là xóm cổng. Xóm cổng này thường là xóm đông vui nhất làng. Người ta đến đây để nghỉ ngơi, vui chơi thư giãn với bát nước trà, điếu thuốc lào và tán chuyện gẫu với nhau. Cạnh cái cổng làng cũng là nơi trai gái hẹn hò. Họ nhìn lên cổng làng mà thề thốt yêu nhau "đến đầu bạc răng long”. Có khi lại có đám hát xẩm đến hát làm náo nức đám đông với những điệu hát buồn dân dã. Tiếng đàn bầu hoà theo tiếng nhị làm bâng khuâng cả lối xóm. Trong những ngày hội hè, lễ tết, xóm cổng thường là xóm đông vui hơn cả.
Cổng làng thân thiết và gần gũi với mỗi người trong chúng ta. Không thể nào quên được hình ảnh cái cổng làng rêu phong, sương khói trầm mặc mà kiêu hùng.
NHỮNG PHO TƯỢNG QUÝ HIẾM
TƯỢNG BÀ TRƯƠNG THỊ NGỌC CHÚC VÀ CÔNG CHÚA LÊ THỊ NGỌC DUYÊN Ở CHÙA BÚT THÁP.
Chùa Bút Tháp có nhiều tượng, nhưng khách tham quan thường chú ý đến hai pho tượng, đó là tượng bà Trương và Công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ở tư thế ngồi thiền, được đặt trong khám thờ sơn son thếp vàng rực rỡ. Bà Hoàng đội vương miện có chỏm cao. Nhưng bà lại khoác áo kiểu tu hành. Còn Công chúa mặc xiêm y của vương triều. Đó là hai khuôn mặt rạng rỡ, hoa phấn phiêu bồng. Những đôi mắt nghiêm nghị, đoan trang, nhìn thẳng. Môi hơi mỉm cười đôn hậu. Những nếp áo xô lên nhau như những đợt sóng luân hồi, sóng nhân tình gió bụi.
Bà Hoàng mặc áo vàng nhiều hoa văn, cổ xẻ thật sâu, lộ rõ cánh yếm màu phớt hồng trần thế. Đôi mắt sắc, lông mày sương khói mà người Trung Quốc gọi là "yên mi". Theo bút tích còn lại, lúc còn sống, bà Hoàng và Công chúa đều góp cả tâm lực, tài lực cho việc xây dựng chùa và giúp đỡ người nghèo. Nên khi họ về với Phật, các nghệ nhân tài hoa đã tạc tượng họ với tất cả tấm lòng.
TƯỢNG BÀ CHÚA TẠI CHÙA MÍA
Bà Ngô Thị Ngọc Duyên vốn là một thôn nữ. Bà được chúa Trịnh Tráng mời vào phủ chúa. Bà chỉ ơ phủ chúa một thời gian rồi về sống với dân thôn. Bà dùng tiền nhà chúa cho để khai khẩn bãi sông và tạo dựng chùa Mía. Bà choàng bên ngoài một khăn choàng màu sữa "vũ trụ" lên khắp phần trên và nửa đầu. Tóc buông thả, có đường ngôi giữa. Khuôn mặt trái xoan, cặp mày thanh tú, như mây cong. Mắt nhìn xa xôi, cương nghị. Môi quả tim. Phần nào có nét của nữ thần Funông.
TƯỢNG BÀ CHÚA ĐẦM MAI ĐỘNG
Bà có khuôn mặt đầy đặn, nhân hậu. Tóc chải ngược, kết trên đỉnh. Có giải lục trang trí, chảy ra sau lưng. Tượng mặc áo choàng, Cổ kiêu ba ngấn. Cánh tay nhẹ nhàng để lửng thư không.
PHO TƯỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH
Thánh Mẫu là một trong "Tứ bất tử" của Việt nam Tượng cao 2,5 mét, phủ sơn son thếp vàng. Dáng uy nghi, đường bệ, cao sang, quyền quý, thánh thiện mà rất "đời”. Thánh Mẫu vừa là người nhà trời, vừa là người trần thế. Người đã từng là vợ, là mẹ. Người bênh vực kẻ yếu. Tượng có đôi mắt hạnh nhân. Khuôn trăng, mày liễu, Cổ kiêu. Hai bàn tay đặt nhẹ lên nhau, từ bi, thư thái, thương đời. Áo trong của người có những đường gạch ánh sáng. Áo ngoài có hình hài mây khói. Đó là hương trầm, là sự hy sinh, là cầu nối giữa trời và đất.
TƯỢNG CHIÊU NGHI PHẠM THỊ NGỌC XUYẾN
Tượng toạ lạc tại xã Xuân Tảo (Từ Liêm). Bà mồ côi từ nhỏ phải đi làm con nuôi một gia đình nọ. Nhưng vì bà thông minh và có nhan sắc chim sa cá lặn nên được chúa Trịnh Tạc lấy làm vợ, phong cho bà là Chiêu Nghi, rồi đệ nhất cung Tần. Bà thường về thăm quê, bỏ tiền ra mua ruộng tặng làng và dựng chùa. Tượng Chiêu Nghi là một bức tượng rất đẹp, tập trung được hầu như tất cả các nét đẹp chuẩn mực truyền thống của cái đẹp Việt nam nói riêng và của phương Đông nói chung. Đôi mắt tượng xa khơi, tinh anh, trí tuệ. Mắt to mà sáng, cổ cao, lông mày dáng "tân nguyệt" (trăng non). Đó là cái vẻ đẹp thiên thần theo quan niệm á Đông. Tóc buông dài. Đầu đội mũ miện. Dáng ngồi ung dung, tự tại, đầy niềm tin. Mặt hoa da phấn.
TƯỢNG HOÀNG HẬU DƯƠNG VÂN NGA Ở ĐỀN VUA LÊ
Tượng được nhiều bạn nước ngoài đánh giá rất cao: “Một trong những pho tượng đẹp của Đông Nam á” Tượng có vẻ mặt kiêu sa, duyên dáng, đằm thắm, mềm mại, ngọt ngào. Bụng thon, ngực nở, tay chân tuyệt mỹ, dịu hiền, ấm áp, đôn hậu, bao dung, cằm cân nảy mực. Xiêm y của người chỉ cần sửa đổi lại một chút cho “hiện đại” là đủ sức làm nghiêng ngửa giới thời trang trong và ngoài nước…
TƯỢNG PHẬT Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH
Khuôn mặt Phật không có chút xao động, trầm mặc, sâu lắng trang nghiêm. Mắt hơi khép mũi thẳng. Miệng tươi, đậm đà, Phảng phất nét "cứu độ”. Nếp áo phía lưng của người chạy chéo từ vai trái xuống, lượn cong lên rồi cuộn lại như áng mây ở Phía cạnh bên phải… Một số khách du lịch nước ngoài rất thích thú và say mê, thành khẩn trước những Pho tượng thờ ở nước ta. Đó là những Pho tượng các bà chúa, Phật, Thánh Mẫu, Công chúa, giai nhân… ở các đình chùa, miếu ở Hà Nội và các vùng lân cận. Họ là những nhà du lịch chú ý đến văn hoá và nghệ thuật. Các bạn Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan nhận xét: "Những ngôi sao như Lưu Hiểu Khánh, Củng Lợi, Lưu Tuyết Hoa, Trương Mạn Ngọc… chỉ có được chút ít vẻ đẹp nơi các pho tượng thờ ở Việt nam".
Để hiểu biết chân dung các vị nữ thần, vương hậu, Công chúa, các vị nữ anh hùng… được tôn thờ ở Việt nam, chúng ta mới chỉ được đọc qua trên sách báo, xem vài vở kịch, nghe chút nhạc, xem múa mà tưởng tượng ra. Nhưng cái vẻ đẹp tổng thể, đích thực, phong phú lộng lẫy của những khuôn mặt phi phàm đó lại được định hình ở mặt điêu khắc tạc tượng. Qua nghê thuật này, chúng ta mới có thể thấy những khuynh hướng cơ bản về ý tưởng lý tưởng hoá và tinh thần hoá vẻ đẹp tâm hồn và cơ thể của nhân vật…
Một số nhà nghiên cứu về thời trang và về nghệ thuật trang điểm nước ngoài đã sang thăm Việt nam. Họ không muốn nói rằng họ làm những công việc này. Nhưng họ bỏ ra nhiều thì giờ đi nghiên cứu các tượng Thờ của Việt nam. Phải chăng những pho tượng ở các đình, chùa, đền, miếu Việt nam đang lên ngôi? Chúng ta không thể thờ ơ lại càng không thể thiếu hiểu biết về những pho tượng quý hiếm mà cha ông đã để lại cho chúng ta.
CÂY GẠO
Cùng với đình, chùa, cây đa…, cây gạo cũng là một hình ảnh quen thuộc và gần gũi của làng quê Việt nam. Cây gạo có thể được trồng ở những mảnh đất trống, vắng, xa một chút với đình, chùa, miếu, ở bãi tha ma, ở đầu chợ, ở cuối làng như câu: "Đầu đa, gạo cuối chuối sau, cau trước”…
Người theo Phật giáo thích cây đa. Người theo Đạo giáo thích cây gạo. Mọi người cũng nói: “Thần cây đa, ma cây gạo“. Cây đa sum sê, xanh tươi, kín lá, rễ buông xuống rất thơ mộng. Người ta có thể tạm trú mưa, nắng dưới gốc đa. Còn cây gạo thì cao lêu nghêu, khẳng khiu, ít lá. Bên gốc cây đa hoặc cây gạo thường có một bàn thờ nhỏ. Có cả bát hương để thờ phật hoặc thờ ma.
Cách đây mấy năm, tại cây gạo ở góc Văn Miếu lúc nào cũng có khói hương nghi ngút. Cây gạo, phương Tây gọi tà Kapokier, Trung Quốc gọi là mộc miên, nó tượng trưng cho cuộc đời, cho sự ngay thẳng. Nó đón ánh mặt trời và mặt trăng. Nó đứng cao vút hẳn lên, chống lại với bão táp, gió mưa, chịu trận cho đồng loại. Nó đứng bình thản, chân thực, mà kiên cường. Nó như một anh lính gác, định hướng, chỉ cho mọi người dễ nhận ra làng xóm của mình từ rất xa. Nó tượng trưng cho sự trường thọ, giữ liên lạc giữa trời và đất. Nó là cây vũ trụ. Các loài bò sát bám vào gốc cây và rễ của nó. Nhiều loài chim đến với nó. Chim lớn ở những cành trên cao. Chim nhỏ ở những cành thấp hơn, chúng ríu rít, giọng cao, giọng trầm, chuyện trò với nhau, tưng bừng, nhộn nhịp, lại tranh cãi với nhau như họp chợ. Khung cảnh thật tưng bừng, náo nhiệt. Nhưng cây gạo chỉ là "câu lạc bộ", là nơi chúng ngừng nghỉ chốc lát trong những chuyến bay dài mà thôi. Chúng không bao giờ làm tổ trên cây gạo. Vì cây gạo thưa lá, chẳng có lá để nguỵ trang. Chúng rất dễ bị lộ. Tuy vậy, cây gạo hiếu khách, niềm nở. Lá cây gạo mềm dẻo luôn đón những làn gió qua lại. Cành thì nhiệt liệt đón chim từ mọi nơi đến. Gọi là chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong.
Cứ đến tháng 3, 4 hàng năm, cây gạo ra hoa, làm đỏ rực cả một khoảng trời. Người ta bảo là cây gạo thắp đèn toả sáng. Nếu mấy cây gạo ở gần nhau, cùng nở hoa thì gọi là các cây gạo thắp đuốc. Ánh sáng của hoa gạo sáng đỏ, rực rỡ. Nếu trong Truyện Kiều có câu: “Đầu tường, lửa lựu lập lòe đâm bông” thì hoa lựu thắp sáng một quãng vườn. Còn hoa gạo cao, nhiều cành và có nhiều hoa xòe ngửa lên trời.
Ở chùa Hương, đến mùa hoa gạo nở, màu đỏ hai bên núi chạy dọc theo suối Yến. Nhiều hàng cây gạo cứ xếp hàng bên nhau như những dãy đèn. Có những nơi, các cây gạo tập trung lại với nhau, đã tạo ra những "đám cháy” làm ta loá mắt. Du khách bảo hoa gạo thắp sáng chùa Hương. Có nhiều khi hoa gạo rơi cả xuống thuyền của du khách dạo chơi trên suối. Cây gạo làm đẹp cho mọi người và cái đẹp làm cho người ta trở nên thánh thiện hơn, yêu cuộc sống hơn. Cảnh tượng này gây ấn tượng rất mạnh mẽ đối với khách du lịch người nước ngoài. Hẹn trở lại chùa Hương một lần nữa và gọi hoa gạo là "hoa tình yêu".
Ở Tây Nguyên, cây gạo được gọi là cây Pơlang. Chúng làm đỏ rực cả những khu rừng, đồi, sân nhà Rông. Cây gạo ở đây là cây để buộc con trâu hiến sinh trong lễ đâm trâu. Do đó, cây gạo cũng được gọi là cây hiến sinh. Những cặp tình nhân không bao giờ đưa nhau ra gốc cây gạo mà tình tự. Đó là điều tối kị. Họ cho rằng như vậy sẽ gặp phải những sự không may mắn.
Cây gạo lạnh lẽo cô đơn, thường có mặt ở những nơi vắng vẻ, khuất nẻo. Những linh hồn phiêu bạt không có người thân cúng giỗ thường lẩn quất nơi cây gạo. Ngày rằm tháng bảy là ngày cúng cô hồn của thập loại chúng sinh thường được tổ chức gần nơi cây gạo. Người ta vứt tất cả những đồ còn thừa lại sau khi cúng lễ vào cây gạo và cũng có nghĩa là cúng cho các cô hồn vương vất quanh cây gạo. Đã có câu: "Ríu rít thì đến cây đa, nhạt tình thì đến tha ma cây gạo”? Vỏ cây gạo làm thuốc cho ra thai, thuốc chữa sa đì. Rễ cây gạo ăn rộng và sâu nên cây gạo rất vững chắc. Phần cắm sâu xuống đất có những nốt phồng lên gọi là củ làm thức ăn độ nhật cho người xưa khi thiếu lương thực.
Đến cuối tháng 4, 5, bông gạo bay tả tơi theo tất cả các chiều gió, giăng đầy không gian như là tuyết rơi gợi lên mái tóc bạc của các mẹ già. Người nghèo thường nhặt, gom lại để may áo bông chống rét. Người Tây Nguyên và người Thái lấy bông gạo làm đệm trải giường và làm phao cứu sinh. Đệm bông gáo của người Thái Mai Châu rất nổi tiếng. Loại đệm này có độ xốp lý tưởng. Nằm rất êm mà không bí như đệm mút, đệm ga bông từ cây bông rất chóng dẹt và hút ẩm, không bằng bông gạo. Nhất là những chiếc đệm đó lại có những đường thêu bay bổng mà thâm trầm. Chúng cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Gỗ cây gạo trắng, thớ mịn dùng để làm áo quan. Nhất vàng tâm, nhì gỗ gạo. Gỗ cây gạo còn dùng để khắc những bản đồ để in. Nhựa cây gạo phối hợp với một vài loại nhựa khác nữa, dùng làm nhựa để bẫy chim gáy, chim hoạ mi, chim ngói. Hoa gạo cánh to mà dày. Nó rơi xuống đất, rất chóng héo tàn.
Ở phương Tây, gần đây có một số hãng mỹ phẩm thử nghiệm và tìm tòi màu đỏ cho son môi. Màu đó là sự phối hợp giữa đỏ, vàng và trắng. Cuối cùng, họ kết luận: "Màu đỏ lý tưởng đó là màu của hoa gạo". Cindy Crawford dùng màu đỏ hoa gạo. Màu môi của Sharon Stone cộng với màu đỏ trên môi Madona thành màu đỏ hoa gạo.
Cây gạo sống hàng ngàn năm. Nó là nhân chứng yên lặng của nhiều đời người. Nó chứng kiến những sự thăng trầm đầy mồ hôi nước mắt, thậm chí cả máu lửa của nhiều thế hệ. Nó biết tất cả, nó chứng kiến những gì xảy ra với những kiếp người phù du. Những người đi chợ xa, đi buôn bán xa, đi công tác ít ngày… đặc biệt là những người đi xa quê đã lâu năm… nhìn thấy từ xa ngọn cây gạo thấy thân quen vô cùng. Họ đi tắt rồi xuyên qua đoạn ngõ xanh biếc nữa thôi là về đến nhà. Nơi đây có người mẹ, người vợ hoặc người thân đang chờ đón họ…Cây gạo cũng là một hình ảnh thân yêu độc đáo và nổi bật của làng quê Việt nam…
CON NGHÊ ĐÁ
Ở những nơi trang trọng, nổi bật tại các làng xóm thường có một con vật quen thuộc, được kính nể, yêu mến. Đó là những con nghê đá được đặt hai bên cổng làng,cổng tam quan, cổng xóm, cổng đình, sân đình. Có khi những con nghê còn ngồi chót vót trên đỉnh cột cổng tam quan như đang bay trong mây. Con nghê được tạc bằng đá, bằng đất nung hoặc bằng vôi cát có tô vẽ đủ màu sắc sặc sỡ. Nghê được tạc bằng đá để nói lên rằng, chẳng có gì lay chuyển được chúng và chúng tồn tại mãi mãi. Những con nghê có mặt từ những đời xa xưa. Chúng là những con vật linh thiêng, dũng cảm, tinh khôn. Chúng bênh vực điều thiện, trừng phạt điều ác.
Chúng được gọi là nghê vì chúng có họ với những rồng, sư tử, kỳ lân. Vì vậy, chúng vừa là rồng, vừa là sư tử. Rồng vờn mây, phun mưa cho đồng ruộng, mùa màng. Rồng còn mang lại những điều tốt lành và kỳ diệu đến cho mọi nhà. Sư tử có sức mạnh ghê gớm, uy phong lẫm liệt canh gác cho sự bình yên của xóm làng, bảo vệ người tốt, răn đe kẻ xấu. Nhất là trên đầu nó lại có một cái sừng nhọn như mũi tên và sắc như gươm. Nó bảo vệ cái cổng làng là lối vào làng. Chúng lại còn một tác dụng nữa là trang điểm cho cảnh quan xung quanh.
Cổng làng, sân đình có được những con nghê sẽ trở nên đẹp đẽ, rực rỡ hơn. Con nghê có đôi mắt to và sáng, trán rộng, đầu to có sừng, miệng rộng, nhe cả hai hàm răng, vai rộng, thân hình nhiều vẩy. Nhìn kỹ, con nghê trông rất dữ dội với hai hàm răng. Nhưng nó lại rất hiền lành vì nó cười. Bước qua mấy bậc cổng làng là trông thấy ngay hai con nghê. Người tốt thấy nghê cười với mình, người không tốt, thấy sợ sệt. Những con nghê canh gác, bảo vệ làng xóm, kiên nhẫn và nghiêm túc như những con vật sống. Chúng kiểm tra người ra, kẻ vào. Chúng nhìn xa đến tận những cánh đồng bát ngát, chúng lắng nghe những tiếng hót của bầy chim trên các cành cây, tiếng cười của các cô gái giã gạo, tiếng đập lúa tiếng trẻ con nô đùa v.v…
Chúng biết tất cả mọi chuyện vui, buồn của người dân trong làng. Chúng chứng kiến những đám cưới đi vào làng, đám ma đi khỏi làng, những đám rước, đội kèn trống nhộn nhịp trong những ngày hội. Người đi khỏi làng, nhìn con nghê một lần như để chào từ biệt nó. Người đi xa về cũng chào hỏi nó như thể báo cho nó biết rằng mình đã về làng. Con nghê thân thiết với tất cả mọi người. Chẳng bao giờ chúng ta quên được hình ảnh thân yêu của con nghê đầu làng. Hình ảnh con nghê đá là một trong những hình ảnh thân yêu của xóm làng Việt nam.
MIẾU ĐỒNG CỔ
Miếu Đồng cổ được xây dựng từ đời Lý, trong lịch sử đã được trùng tu nhiều lần, lần trung tu cuối cùng là vào đời Nguyễn. Qua nhiều năm tháng và chiến tranh liên miên, mảnh đất của miếu là nơi đã từng chịu đựng nhiều bom đạn. Miếu đã bị phá hỏng gần như hoàn toàn, chỉ còn lại những mảnh tường, gạch, đá, kèo, cột, khám gỗ, nội cung. Hoà bình lập lại, nhân dân vớt được những bộ ngai sơn son thếp vàng và một số đồ cúng, tế, lọ độc bình, chiêng v.v… ở dưới ao lên, tập trung vào trong khám nội cung, dựng một mái ngói tạm thời để che chắn, bảo quản.
Đó là cái cảnh "miếu cổ vàng sơn nhạt" như bất cứ ở nơi đâu đến năm 1960, trong phong trào bài trừ mê tín, sở Văn hoá Hà Nội đã mang đi nhiều đồ thờ bằng đồng, đá… rồi để thất lạc. Đến năm 1990, nhân dân làng Đông cùng với nhân dân các làng quanh khu vực Bưởi tích cực đi quyên tiền, xây dựng lại miếu ở ngay mảnh đất cũ. May thay, trong phường thờ có hơn 10 người là những người có truyền thống xây cất đình, chùa. Đó là phường thợ Thạch Thất nổi tiếng. Ông trùm phường thợ đã có tuổi, từng được nghe cha ông mình nói chuyện trước đây đã tham gia sửa chữa miếu Đồng Cổ. Ông quyết tâm xây dựng lại miếu Đồng Cổ với dáng dấp xưa kia của nó. Miếu được xây lên như một cái lầu 8 mái, hai tầng. Tất cả các bộ phận bằng gỗ đều là gỗ tứ thiết. Những đường nét, hoa văn đều giữ được vẻ tài hoa truyền thống. Khách hành hương, từ Hà Nội tới theo đường Thuỵ Khuê, qua làng Hồ Khẩu là đến làng Đông. Tới đây, qua cầu sông Tô Lịch rồi vào sâu chừng 200 mét nữa là đến cổng miếu. Miếu có tam quan, vườn hoa, có hòn non bộ. Hai bên phải, trái có tả vu và hữu vu. Chính giữa miếu gồm gian nhất bái, nhị bái rồi đến hậu cung. Gian nhị bái có bàn thờ và ba chiếc ngai loại vừa để bài vị. Hậu cung có ba cỗ ngai sơn son thếp vàng loại lớn, có cách đây khoảng 200 năm. Trên ngai có áo bạch long và mũ của thần Đồng Cổ. Mũ màu đỏ, có nhiều chi tiết trang trí nổi bằng kim loại dát rất mỏng. Cảnh quan của miếu rất đẹp. Tiếc rằng, một đơn vị quân đội đã đóng quân trên diện tích khoảng 300 m2 đằng sau hậu cung, làm cho miếu bị méo mó. Không gian thiêng liêng của miếu bị phá vỡ…
Trước đây, hàng năm, cứ đến ngày mồng bốn tháng tư âm lịch, nhà vua (hoặc các quan nhất triều được vua chỉ định) dẫn các quan cao trong triều đến miếu Đồng cô lễ tạ thần. Lúc mặt trời mọc, họ làm lễ uống máu ăn thề để có sự chứng giám của thần. Tất cả đều tuốt gươm trần (các quan võ), giơ cao lên thề:
"Làm tôi bất trung
Làm con bất hiếu
Thần minh chu diệt…"
Sau đó các quan, quân lại nườm nượp ngựa xe, kéo về thành Cửa Đông. Đến chiều, các dòng họ, các đại biểu những làng xung quanh, rồi đến khách hành hương khắp mọi nơi làm lễ cầu thần phù hộ cho nhân dân được an khang, thịnh vượng. Lễ hội kéo dài hai ngày với các trò chơi như: đánh đu, bắt vịt, chọi gà, cờ tướng v.v… Riêng sân khấu chèo và tuồng được kéo dài đến nửa tháng. Trai gái trong vùng Bưởi thường mượn buổi chiều tối của miếu, mượn trăng của miếu, dắt nhau, thấp thoáng bên tường miếu rêu phong mà thề thốt:
"Một duyên, hai nợ, ba tình
Chúng con gắn bó, xin thần chứng minh".
Năm 1995, một đoàn đại biểu thôn Châu Nê, xã An Định, huyện An Thọ tỉnh Thanh Hoá ra dự lễ tế thần Đồng Cổ ở làng Đông Xã, quận Ba Đình. Họ đã tham khảo kiến trúc miếu để về quê hương xây dựng lại miếu ở dưới chân núi Đồng Cổ, Thanh Hoá đã bị san phẳng từ lâu. Sự tích thần Đồng cổ đã được ghi nhiều trong sử sách, nhất là trong Việt Điện U Linh và cả trong lòng dân. Sau khi Lý Thái Tổ rời đô về Thăng Long, hoàng tử Lý Phật Mã đi dẹp loạn phương Nam (1020), đến chân núi Khả Thanh (còn gọi là núi Đồng Cổ), thái tử đóng quân ở bên cạnh ngôi miếu có. Đêm đến, Lý Phật Mã nằm mơ thấy vị thần trong miếu xưng là thần miếu núi Đồng Cổ đến chúc tụng thái tử và xin góp sức giúp thái tử dẹp loạn. Trận đánh sau đó đã thắng to Lúc về, Lý Phật Mã rước thần về kinh đô để nhờ thần trấn giữ kinh thành. Thái tử chưa biết nên lập miếu thờ cho thần ở đâu thì được thần báo mộng xin cho đặt miếu thờ ở sau cung Thánh Thọ (làng Hồ Khẩu) trước mặt là sông Tô Lịch, phía sau dựa vào thành Đại La. Khi Lý Thái Tổ mất, thái tử lên ngôi (Lý Nhân Tông), thần lại báo mộng mách bảo cho nhà vua biết ba vị vương muốn kéo quân về kinh thành làm phản. Kết quả, vua dẹp được loạn Tam Vương. Vua tạ ơn thần và phong cho thần là minh chủ gia tướng đại vương Đồng Cổ.
CHỢ GIỜI HÀ NỘI
Chợ Giời của Hà Nội có từ rất sớm. Nó chẳng giống như các chợ khác như chợ Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Bưởi… Nó vội vàng thay đổi nơi chốn, tụ họp vào một nơi rồi mở rộng một cách rất "thời sự". Thoạt đầu là sau ngày Nhật đảo chính Pháp (1945). Rồi đến khi ta tiếp quản Thủ đô, hiệp định Geneve được ký kết, đến phong trào Nam tiến của hàng triệu người… cứ mỗi đợt lại thêm người bán và kẻ mua. Hàng hoá mọi mặt lại phong phú hơn.
Chợ được họp ở góc phố Thiền Quang, phố Quang Trung, mở rộng ra quanh hồ, chạy sang phố Hồ Xuân Hương. Có chợ ở gần nhà máy Trần Hưng Đạo rồi bị “đuổi” vào bãi than gần trường Đoàn Kết. Nó còn giữ được cái tên chợ Đuổi cho đến giờ.
Nơi họp chợ tập trung tại bãi than rộng rãi, hoang vu không hợp với đặc trưng của một cái chợ. Thế là mọi người tràn ra phía chùa Vua Đế Thích, lấy dân làm trung tâm rồi toả ra mọi phía như là những chiếc nan hoa của một chiếc bánh xe đạp khổng lồ. Nơi đây kề cạnh với những trục đường cái quan, đường chính. Có thể tiến được mà cũng có thể thoái được theo nhiều ngả.
Chợ họp từ sáng sớm đến khi thành phố lên đèn, thậm chí đến cả đêm. Suốt ngày nhộn nhịp, mua nhanh, bán nhanh theo tình hình trong nước có những biến chuyển và cả tình trạng kẻ ở người đi… Lúc này chợ Giời còn gọi là chợ Trời ơi đất hỡi. Có những cô gái ở phương trời nào không biết cũng xô đến, làm quen, bắt mối hoặc buôn bán với khách mày râu, lãng tử làm cái trò nửa thương nghiệp nửa ái tình. Lại có những người có duyên, kiếm được tiền mời nhau đi nhậu nhẹt, mời các cô ả đi đập phá. Trời cho ấy mà. Chẳng ai từ chối.
Đến năm 1955, chợ Giời mới được thành lập một cách chính thức. Chợ Giời có đủ các loại mặt hàng "thượng vàng hạ cám", khách có thể mua phụ tùng để lắp chừng 10 cái xe đạp, nhưng nếu cần, khách có thể mua 1 chiếc nan hoa, một ốc tanh, con vít… Cũng xin có ngay với giá  "mềm". Ở đây, bạn có thể mua từ chiếc kim hoạn lợn đến các máy móc tinh vi, đắt tiền. Người ta có thể “chạy” cho bạn những mặt hàng "chua" nhất mà không đâu có. Từ năm 1955 trở đi, chợ Giời đã là một cái chợ quy củ mà tầm cỡ của nó làm cho cả nước biết đến. Nó có nhiều ưu điểm mà các chợ khác không thể có. Nhưng thực ra đến năm 1980, nó mới thực sự trưởng thành. chợ được mở rộng ra nhiều. Ngoài khu trung tâm, nó còn kéo theo ra đường lớn trong khu tập thể Nguyễn Công Trứ với hai dãy dài gồm gần 500 hộ, kéo ra phố 235 và cạnh trường Đoàn Kết, hai dãy các đồ phụ tùng ô tô xe máy, ti vi, điện tử, đầu máy ti vi, cát sét và lúc nào cũng có chừng 500 chiếc xe đạp bán… Kể cả dãy Phố Thịnh Yên và toàn bộ chợ Giời nay gồm ngót 2000 hộ. Các lều lán đều bằng cột thép lợp mái tôn ngay ngắn. Nó đã được ổn định. Tử gần chục năm lại đây những hộ buôn bán ở chợ Giời đã có đời sống ổn định thậm chí còn khá thầm là khác. Họ buôn bán rất hiện đại. Có nhiều người đã rút khỏi chợ Giời hoặc vẫn giữ chỗ nhưng mua bán lại thực hiện ở nơi khác… Họ thực hiện những hợp đồng lớn với hầu hết các tỉnh trong cả nước. Họ buôn bán qua điện thoại. Nhiều người đã mở khách sạn, xây biệt thự. 50% số hộ chợ. Giời buôn bán với mức tiêu thụ nhanh, có nhiều mối hàng, có mức sống khá cao nhưng cần kiệm để có thể buôn được càng ngày càng lớn hơn. Số hộ buôn bán còn lại 30% là những hộ cầm cự với cuộc sống hàng ngày. Lưng vốn của họ có chừng từ 5 đến 10 triệu, vừa buôn vừa vay nóng, vay nguội. Tuy vậy, mức sống của họ cũng không đến nỗi. Tất cả các hộ dù giàu dù nghèo đều phải cộng tác gần gũi với những người bỏ vốn và những người cầm cái họ. Đó là những con người rất thạo đời, biết làm cho đồng tiền nảy nở. Họ có chăng đóng góp tích cực vào thị trường. Họ sống rất quần chúng. Luôn nhắc đến câu:
"Ăn mày là ai, ăn mày là ta.
Đói cơm rách áo thì ra ăn mày".
Hoặc câu:
"Tiền có khi làm cho người ta hư hỏng,
nhưng tiền cũng làm cho con người ta trở nên tốt hơn".
Các hàng sách, báo bán được nhiều ở chợ Giời. Nhất là khi có những tin tức đặc biệt, như tin về cúp bóng đá thế giới, tin về vụ cháy ở chợ Đồng Xuân chẳng hạn. Những người cho thuê truyện và bán vé sổ xổ cũng đến tận các quầy hàng để “chào hàng". Đã từ mấy năm nay, do chính sách mở cửa, khuyến khích buôn bán, ở Hà Nội đâu cũng là chợ. Tuy vậy, chợ Giời vẫn có thế mạnh của nó, sự hấp dẫn của nó và nó luôn luôn tồn tại.
CÁI CẦU MÁI NGÓI
Ở các làng quê ta, ruộng đồng bao la. Từ làng này sang làng khác phải qua những cánh đồng bát ngát. Đâu đó, thường hiện lên những cây cầu. Đôi khi từ cánh đồng làng này sang cánh đồng làng bên kia cũng phải đi mất hàng mấy cây số đường sống trâu, ở giữa chặng đường đó, cũng có cái cầu. Nó là hình ảnh thân thương của xóm làng, cầu là ngôi nhà công cộng, được xây dựng lên trên một nền đất cao hơn mặt ruộng. Nó thường được dựng đơn sơ bằng chừng 810 cây cột gỗ. Mái lợp ngói âm dương hoặc ngói mũi hài, có nơi ngói cũng cong lên đôi chút cho giống mái đình. Diện tích cầu chỉ khoảng 20 - 30 mét vuông. Mặt trước cầu có treo chiếc mõ dài bằng gỗ báo canh và chiếc kẻng, chúng sẽ lên tiếng khi có "động” hoặc có chuyện trộm cướp…
Cái cầu là nơi để mọi người nghỉ chân chốc lát, tránh nắng những trưa hè gay gắt. Một, hai bác thợ cầy ăn cơm trưa, nghỉ ngơi một lát nơi đây rồi lại tiếp tục xuống đồng. Ban đêm, cái cầu trở thành cái điếm canh của trương tuần và tuần phu gác và làm công việc trị an. Họ được trang bị mấy tay thước và cái đèn trai. Đêm đông, họ đốt củi để sưởi.
Cầu được xây dựng bên gốc gạo hoặc đa hoặc một bụi duỗi, cúc tần. Trong cầu thường có một bà đứng tuổi mở một quán hàng, vì vậy cái cầu còn được gọi là quán. Quán hàng của chủ quán có đặt một chiếc chõng tre. Mặt chõng được đan bằng những thanh nứa ghép lại thành hai hàng ghế dài và mấy miếng gỗ phẳng để mọi người ngồi khi đông khách. Trên mặt chõng có bày một dãy bát uống nước, mấy gói thuốc lào, thuốc lá; cái ang đông bánh dầy, bách gai; một lọ kẹo bột, chè lam; vài tấm mía; mấy quả bưởi; vài nải chuối…
Chủ quán ngồi đối diện với khách hàng, bên phải bà là chum nước chè tươi, trên có miếng dạ ủ và chiếc gáo dừa, bên trái là chiếc bong bóng lợn phơi khô đựng rượu ngang. Mọi người ăn quà bánh, uống nước, hút thuốc lào sằng sặc, nhả khói. Họ tán với nhau đủ chuyện thời sự trong xóm làng. Hết chuyện này sang chuyện khác. Họ bàn sang cung cách làm ăn, có khi họ xen vào những đoạn tiếu lâm rồi cùng cười phá lên. Chiều tối, bà quán dọn hàng về. Vẫn để nguyên cái chõng và ghế dài. Một, hai người khách bất đắc dĩ, kẻ lỡ độ đường hoặc hành khất" nằm ra nền đất ở một góc cầu để nghỉ qua đêm. Đó là cái kiểu nằm cầu gối đất. Người ta thường nói: “Bơ vơ điếm cỏ, cầu sương” hoặc “nằm cầu gối đất" là cái cảnh này đây. Ông thợ cạo đặt một chiếc ghế cao bên cạnh cái cầu. Tấm gương có khung đỏ của ông được treo lên thân cây gạo. Ông làm nghề vít đầu vít cổ thiên hạ tại đây. Đồ nghề của ông được xếp gọn trong một chiếc hòm gỗ. Cửa hàng của ông thu hút được nhiều người. Ông được nhiều người yêu mến. Ông luôn tươi cười, vui vẻ. Ông thuộc lầu lý lịch của nhiều người, nhiều dòng họ. Chuyện gì ông cũng biết, cũng bàn vào. Ông được “liệt vào hàng sư phụ trong ngón nghề lấy ráy tai. Ai cũng thích nghe ông kể chuyện. Đôi lúc trong quán có chuyện quá chén hoặc gây gổ, ông nói vọng vào một vài lời can ngăn là xong ngay.
Chiều mùa hè, trước mặt cầu là bãi thả diều. Một vài ông già ngồi trong quán, nhìn lên trời xem diều và nghe sáo diều trầm bổng tiếng quê hương. Lúc gần tối, ráng chiều giội lên cánh đồng và cái cầu làm nên một bức tranh hùng tráng mà có chút huyền bí, phong sương.
Cái cầu còn là nơi đưa, đón khách. Với những khách quý khách đặc biệt, nhà chủ phải ra tận cầu đón khách và đưa khách về nhà mình. Khách ở lại một hai hôm rồi lại ra đi, nhà chủ đưa khách ra tận cầu, nâng chén tiễn biệt gọi là chén "Quan Hà". Họ chắp tay lại, vái nhau. Có những đôi trai gái cũng tiễn biệt nhau ở cầu Như vậy cái cầu được coi như là cái "trường đình", "đoản đình" bên trung Quốc xưa. Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài đã tiên nhau ở cái trường đình (cầu) này đây. Lại có những cặp nhân tình không đưa nhau ra cầu mà chỉ lấp ló ở đàng sau rặng cúc tần, duỗi ở bên cạnh cầu họ ra đây, nhìn lên mái cầu là giải lời nguyền:
"Xin ai đừng nghĩ kẻo già
Cái cầu mái ngói chia tình đôi ta…"
hoặc:
"Cũng chẳng tại em, chẳng tại mình.
Cái cầu mái đỏ.
Chứng tình hai ta…"
Họ đổ lỗi cho cái cầu mái ngói là xong chuyện.
Trên thế gian này, có rất ít những cuộc chia tay bình thản rộng lượng mà khéo như thế này. Đám cưới đi qua cầu, hai họ cũng chia vài khẩu trầu, mấy điếu thuốc lá biếu bà hàng quán và những người có mặt trong cầu để mọi người mừng cho đôi trẻ. Đám ma đi qua, bà quán cũng được mấy miếng trầu của nhà đám.
Vào khoảng mồng 4, mồng 6 Tết Nguyên Đán, trên đường đi tảo mộ về, mấy thành viên trong một chi họ nào đó rủ nhau vào quán nghỉ chân buổi đầu xuân. Họ phải đi thăm nhiều ngôi mộ nên lúc này đã mỏi. Họ uống nước, hút thuốc và ngả con gà luộc và ăn xô mang theo ra đánh chén. Họ mời mọi người cùng thưởng "thức chút lộc đầu xuân lấy may". Họ cũng mang theo cả rượu mùi để uống và mời mọi người…
Những năm trước và sau cách mạng tháng Tám 1945, những cái cột trong cây cầu đều có dán những khẩu hiệu kêu gọi toàn dân đứng dậy làm cách mạng, những chỉ thị chính sách vv… Cái cầu còn là nơi tập hợp quần chúng. Mặt trước cầu là bãi tập quân sự của dân quân, cũng là nơi tiễn các thanh niên lên đường nhập ngũ. Nơi đây, chỉ cần một cái phông đỏ buông xuống là đã trở thành sân khấu để biểu diễn nghệ thuật: hát chèo, hát tuồng, dân ca…
Có thể nói, cuộc đời nhiều người gắn bó chặt chẽ với cái cầu xưa kia, nhà thơ Quang Dũng, mỗi khi trở về nhà, bao giờ cũng phải nghỉ chân ở cái cầu Phượng Trì (Đan Phượng). Anh phải uống bát nước, hút điếu thuốc, tán gẫu dăm ba câu với mọi người rồi mới về nhà… Anh đã làm một bài thơ lấy tên là "Thôn Phượng Trì" ngay trong cái quán này. Về mặt chứng tích, các làng quê ta còn giữ được nhiều cái cầu mái ngói. Chúng đều nổi tiếng, ít nhất là đối với một vài làng thôn hay một vùng như: Cầu Điều (Cổ Thuê), cầu An Phú, cầu Giàn (Cáo Đỉnh), cầu Canh  (làng Canh), cầu ông Nghè (Quốc Oai), cầu Bún (Phú Đô), cầu xóm Luỹ (Yên Thái Bưởi) vv…và…vv. Trong tâm khảm sâu xa của chúng ta, ai cũng có những mảnh hồn quê, chúng cứ không nguôi, bốc lên những làn sương khói và nhớ nhung. Chúng ta nhớ một dáng núi, một đám mây trước cổng làng, một con đường nhỏ có vầng trăng khuyết. Chúng ta cũng nhớ đến cái cầu mái ngói…
NINH HIỆP
Xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội gồm 9 xóm với trên một vạn người. Đất nông nghiệp chỉ ngót nghét 3000 m2 một đầu người. Dân ở đây đã phải làm bất cứ nghề gì để tồn tại. Đó là một cái làng đặc biệt mà mấy năm gần đây đã làm giàu nhanh chóng. Tiếng tăm của nó lừng lẫy, ai cũng biết. Người dân Ninh Hiệp năng động. Các cô gái cần cù, tất bật bán vải, may quần áo theo dây chuyền: Họ mặc quần ống thấp ống cao mà phóng xe "cúp". Họ đã khá giầu có nhưng không khoe của và lố lăng. Cô dâu không mặc váy ba tầng. Đám cưới đều tổ chức ở uỷ ban nhân dân xã, tốn kém chừng hai chục nghìn. Họ dồn tiền để mở rộng vốn sản xuất, buôn bán và dịch vụ.
Chợ Ninh Hiệp to mà phong phú. Có bốn mặt hàng mà Ninh Hiệp đóng vai trò điều chỉnh giá cả thị trường Hà Nội và các vùng xung quanh là vải, pin đèn, mì chính và phân đạm. Ninh Hiệp có nhiều tổ và nhiều người làm đại lý có tín nhiệm với các hãng buôn bán trong và ngoài nước. Họ làm dịch vụ, giải quyết rất nhanh, gọn những yêu cầu về mặt hàng và các hợp đồng buôn bán lớn. Nhiều hợp đồng tính từ vài trăm triệu trở lên. Lưới buôn bán của Ninh Hiệp đã tạo thành một tam giác: Ninh Hiệp, Hà Nội và Hải Phòng. Họ giữ chữ tín công khai, công bằng, đôi khi pha màu "hiệp sĩ".
Ủy ban nhân dân xã đã phát đồng phục cho học sinh trường phổ thông cơ sở. Ngoài ra, chúng tôi còn thấy chừng ba chục toà nhà ba tầng dựa theo kiểu hiện đại và đã vào năm, bảy, tám toà nhà trong đó. Nói chung, nhà khép kín, lát gạch men trắng, nhà tắm hương sen, giường lò so, máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh máy giặt, ti vi màu, đầu video v.v…
Một số bạn nước ngoài ao ước được thuê một hai gian phòng như vậy tuy nhiên, nhiều nhà sắm sập gụ, tủ chè, khảm trai có cánh cong, tràng kỷ chạm trổ phong cảnh bốn mùa. Nghĩa là có cả mới cả cũ đối lập nhau nhưng cùng tồn tại hoà bình. Người ta yêu cả mới lẫn cũ và duy trì các cuộc đối thoại âm thầm này.
Ninh Hiệp rất tự hào về vốn văn hoá của mình và vinh dự hơn nữa được nằm trong hình tam giác văn hoá của đất Kinh Bắc, gọi là tam giác thiêng. Đó là vùng chùa Phật tích, vùng chùa Dâu, đền Gióng, Thô Hà, làng quan họ. Con sông Cầu nước chảy lơ thơ, "Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh" v.v… Đều sát ngay cạnh Ninh Hiệp. Ở cái tam giác thiêng này, xưa đã có một nền nông nghiệp phát triển nổi tiếng với gốm Bát Tràng, tơ lụa Phù Lưu, nồi đồng Quế Dương v v… Buôn bán giữa đàng trong đàng ngoài, là nơi tụ tập những trai tài gái sắc, lại có cảnh quan cổ kính nên thơ, đây cũng là nơi tuyển được nhiều mỹ nữ cung tần cho các vương triều cũ.
Vừa rồi, Ninh Hiệp mở hội truyền thống ở chung quanh chùa Pháp Vân. Có triển lãm hơn 100 bức tranh của hoạ sĩ Đỗ Đức, là con em làng Ninh Hiệp. Cũng có triển lãm về nghệ thuật cây cảnh phong phú của câu lạc bộ cây cảnh của xã. Khách dự hội ca ngợi kỹ thuật ghép cây, nắn cây, tạo thế cây, dựng hòn non bộ. Đặc biệt có cây si chín tầng, cây si 200 tuổi, các thế cây thạch thùng vồ mồi, cây trúc đợi chờ hoặc còn gọi là "tình sử" v.v… Mỗi chậu cây, cành cây, một hòn non bộ là một tác phẩm nghệ thuật. Ngoài nhà văn hoá xã ra, Ninh Hiệp còn có các câu lạc bộ thể dục, thể thao, có bãi bóng, sân vận động nhỏ. Trong mấy ngày hội, Ninh Hiệp mời chuyên gia vật của Liên Xô về tham dự, mời đoàn quan họ gốc có dây mơ rễ ma  nội ngoại với mình sang giúp vui. Họ lại còn mời cả đoàn chèo Thái Bình đến để thưởng thức và học hỏi tinh hoa của một "lò" chèo đích thực.
Đám nghi trượng rước Phật từ nhà Thạch Sàng (giường đá) tám mái cong vút đến chùa Pháp Vân được tiến hành trang trọng mà giản dị. Chùa Pháp Vân còn giữ được nhiều cổ vật cũng có 18 vị La Hán như ở chùa Tây Phương. Có điều lại còn thêm ba pho tượng "Tam thế" tượng trưng cho quá khứ, hiện đại, tương lai mà cũng diễn tả quá trình hoá thân của những kiếp người. Trông lên ta thấy "nghìn năm khuôn mặt vẫn lung linh”. Đây lại còn là chùa độc nhất có bốn pho tượng tứ trấn: Đông, Tây, Nam, Bắc với tầm nhìn vũ trụ. Mọi người còn có thể thăm  “Từ Vũ” với ngôi đền ngổn ngang những phiến đá lớn, tượng và một số đồ thờ bằng đá được chạm bằng những nét khái quát, thô sơ mà thi vị. Nguyên đây là một bộ phận lăng tẩm của một vị hoạn quan quận Công triều Lê Trung Hưng.
Cách Từ Vũ không xa có đền thờ bà phi Nguyễn Thị Huyền và con gái là Ngọc Hân công chúa. Cũng không xa đó là bãi "gốc gạo" với hai ngôi mộ của mẹ con bà Phi. Thạch Sàng ghi dấu ấn của thượng sư Khâu Đà La "Ấn Độ” sang truyền giáo. Ninh Hiệp còn giữ được gần như nguyên vẹn một nhà thuỷ đình để biểu diễn múa rối nước… Mảnh đất Ninh Hiệp do đó đầy ắp những dã sử và huyền thoại. Ninh Hiệp rất hiện đại mà cũng rất cổ kính, là niềm say sưa với khách du lịch, điều hấp dẫn với nhà văn hoá và folklore học, có lợi cho các nhà kinh tế và kinh doanh, thú vị với nhà làm sử… Ninh Hiệp không chỉ là một làng văn hoá mà còn là một làng du lịch. Nếu được quan tâm và đầu tư hợp lý, làng du lịch Ninh Hiệp có thể sánh ngang với các làng du lịch ở Chiềng Mai hoặc Băng Cốc về mặt phương tiện và hình thức. Còn về nội dung, Ninh Hiệp có một bề dày lịch sử đáng kể, phong phú về cả ba mặt: xã hội, văn hoá và kinh tế hy vọng. trong tương lai, Ninh Hiệp sẽ phát huy được hết sức mạnh và tiềm năng vốn có của nó, trở thành một làng văn hoá của Việt nam và làm giàu cho đất nước.