Làm thế nào Sakh-el-Bahr, Chim Ó Biển, tên cướp biển Hồi giáo, nỗi ám ảnh của Ðịa trung Hải, nỗi kinh hoàng của ngýời Thiên chúa giáo, thủ hạ tin cẩn của Asad-ed-Din, Basha của Algiers, lại chẳng phải ai khác mà chính là Sir Oliver Tressilian, nhà quý tộc vùng Cornwall, chủ nhân của Penarow, đã ðược kể ra khá là chi tiết tường tận trong bản thảo của Lord Henry Goade. Quý ngài đã dành hẳn ra hai trong số mười tám tập bản thảo ngài ðể lại cho hậu thế ðể thuật lại chi tiết quá trình biến chuyển lạ lùng này. Thế nhưng tất cả câu chuyện có thể ðược gói gọn lại trong một chương sách. Sir Oliver nằm trong số chừng hai chục người ðược thuỷ thủ ðoàn chiếc tàu Tây Ban Nha ðã đánh chìm chiếc Chim Én vớt lên; trong số này có cả thuyền trưởng Jasper Leigh. Tất cả bị ðưa về Lisbon, và tại ðây bị bàn giao lại cho Tôn giáo pháp ðình. Bởi hầu như tất cả số này ðều là những kẻ dị giáo, cũng là hoàn toàn phù hợp khi trước hết họ ðược giao cho các huynh ðệ của dòng tu St Dominic để khai sáng cải đạo. Sir Oliver vốn xuất thân từ một gia đình chưa bao giờ có tiếng nghiêm túc trong vấn ðề tôn giáo, và chàng cũng chẳng phải loại người chịu ðể bị thiêu sống trong khi chỉ cần chấp nhận quan niệm của những người khác về một trạng thái viển vông nào đó của tương lai là có thể giúp chàng tránh ðược giàn hoả. Chàng chịu làm lễ rửa tội theo nghi lễ Công giáo một cách hoàn toàn dửng dưng. Còn về Jasper Leigh, cũng có thể ðoán ra là quan niệm về ðức tin của lão cũng dễ dãi phóng khoáng chẳng kém gì Sir Oliver, và lão chẳng ðời nào lại ðể mình bị thui vàng chỉ vì vài điều giáo lý không đâu. Thế là cả Toà án giáo hội tràn ngập vui mừng khi cứu rỗi ðýợc hai linh hồn không may khỏi những sự trừng phạt ðang chờ ðón họ. Kết quả là sau khi ðã ðược dẫn dắt theo tôn giáo mới, cả hai đã ðược chào ðón một cách nồng nhiệt, và những dòng nước mắt ðầy cảm ðộng ðã ðổ ra như suối bởi các quan toà vì họ. Thế là xong tội dị giáo. Hai người ðã hoàn toàn ðược rũ bỏ khỏi tội lỗi này sau khi ðã làm lễ sám hối một cách đúng nghi thức tại Lisbon. Giáo hội từ biệt họ với lời chúc phúc và căn dặn họ giữ vững niềm tin vào con ðường giải thoát mà Nhà thờ ðã dẫn dắt họ vào với lòng nhân ái vô biên. Ðến lúc này thì sự từ biệt có vẻ chuyển ngay thành sự chối bỏ. Hậu quả là cả hai người lại quay trở lại nằm trong tay các nhà chức trách thế tục, và công lý thế tục còn phải trừng phạt họ về vụ tấn công trên biển. Đã ðành là chẳng có bằng chứng nào cho thấy họ gây hấn cả. Thế nhưng các quan toà ðã tự thoả mãn với lý lẽ rằng không có gây hấn chẳng qua là do họ chưa có cơ hội. Cứ như thế, các ngài tiếp tục lý luận rằng không nghi ngờ gì cơ hội cho một vụ tấn công ăn cướp chẳng chóng thì chầy thế nào cũng tới. Bằng chứng ðể bảo ðảm cho suy luận này là việc chiếc Chim Én vẫn tiếp tục bỏ chạy khi ðã bị bắn cảnh cáo ra lệnh dừng lại. Cứ như thế, với lối suy luận kiểu Castille chắc chắn chặt chẽ không cãi vào ðâu ðược, ý định mờ ám của tay thuyền trưởng chiếc tàu này ðã rõ như ban ngày. Thuyền trưởng Leigh phản ðối rằng hành ðộng của lão là do lão không tin vào người Tây Ban Nha và niềm tin rằng tất cả tàu Tây Ban Nha ðều là những chiếc tàu cướp biển mà bất cứ người ði biển lương thiện nào biết ðược thế yếu về vũ khí của mình cũng cố tránh bằng mọi giá. Ðương nhiên kiểu lý luận này chẳng hề làm ðám quan toà thiển cận kia có cảm tình hơn với lão. Sir Oliver thì hùng hồn lặp ði lặp lại rằng chàng không phải là thành viên trong thuỷ thủ ðoàn của chiếc Chim Én, và chàng là một nhà quý tộc đã tình cờ bị bức bách ðưa lên chiếc tàu này, nạn nhân của một âm mưu phản trắc do chính lão thuyền trưởng chủ mưu. Toà án ðã nghe lời giải thích của chàng một cách tôn trọng, và yêu cầu ðược biết tên tuổi tước vị của chàng. Ðến ðây chàng ðã tỏ ra hớ hênh ðến mức trả lời ðúng sự thật. Kết quả nhận ðược là một bài học hết sức hữu ích cho Sir Oliver; nó cho chàng thấy các tài liệu Tây Ban Nha ðược lưu trữ có hệ thống ra sao. Toà án ðưa ra các tài liệu cho phép chánh án nhắc lại cho chàng nhớ hầu hết phần ðời lênh ðênh trên biển của chàng, cũng như vô số chi tiết nhỏ nhặt ðáng phàn nàn chính chàng cũng ðã quên khuấy từ lâu lúc này chàng mới lại chợt nhớ ra, mà toàn là những việc chắc chắn sẽ chẳng làm cho bản án của chàng nhẹ ði. Chẳng phải bị cáo đã có mặt ở Barbados vào nãm..., và có phải bị cáo ðã ðánh cướp chiếc galleon Maria de las Dolores? Chuyện này là gì nếu không phải là một hành ðộng cướp biển? Có phải chính bị cáo bốn nãm trước ðây ðã đánh chìm một chiếc carack Tây Ban Nha ở vịnh Funchal? Có phải bị cáo đã cùng tên hải tặc Hawkin nhúng tay vào cuộc cướp phá San Juan de Ulloa? Vân vân và vân vân. Cả núi câu hỏi trút xuống làm chàng tối tăm mặt mày. Chàng hầu như hối hận vì đã nhọc công chịu cải ðạo cũng như chịu đựng tất cả những thủ tục lôi thôi dưới tay ðám tu sĩ dòng St Dominic. Chàng bắt ðầu nhận ra chàng ðã chỉ phí thời gian, và cố gắng thoát khỏi ðống củi của ðám thầy tu chỉ ðể ðổi lấy việc ðược ðu ðưa trên ðầu một sợi thừng như vật hy sinh cho các vị thánh ðầy thù hằn của nước Tây Ban Nha tàn bạo. Tuy nhiên sự tình không ðến nước ấy. Vào thời gian ðó những chiếc galley ở Ðịa Trung Hải ðang rất thiếu người, và do hoàn cảnh này Sir Oliver, thuyền trýởng Leigh và một số người khác trong thuỷ thủ ðoàn xấu số của chiếc Chim Én ðã giữ ðược mạng sống, cho dù cũng còn phải xem xem liệu có ai trong số họ có thể thấy chuyện thoát tử tội là ðáng tự chúc mừng hay không. Bị xích thành từng ðôi ở chân bằng một ðoạn xích ngắn, họ ra nhập vào một ðoàn lữ hành ðông ðảo của những kẻ bất hạnh bị giải ði dọc Bồ Ðào Nha tới Tây Ban Nha, sau ðó quành xuống phía nam tới Cadiz. Lần cuối cùng Sir Oliver nhìn thấy thuyền trưởng Leigh là vào buổi sáng họ lên ðường rời khỏi nhà ngục Lisbon. Sau ðó, trong suốt cuộc hành trình khổ ải, mỗi người ðều biết người kia cũng ðang ở ðâu ðó trong ðoàn nô lệ chèo thuyền, nhưng họ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Tới Cadiz Sir Oliver trải qua một tháng trời trong một khu tập trung có tường bao bọc nằm lộ thiên, nhưng ngay cả như vậy vẫn bẩn thỉu ðến mức không thể miêu tả ðýợc, một nơi ðầy rẫy bệnh tật, rác rưởi, cùng tất cả nỗi thống khổ vượt quá sức tưởng tượng của con người, những chi tiết về nó các bạn ðọc tò mò có thể tự tìm cho mình trong bản thảo của Lord Henry. Chúng quá ghê tởm để có thể ghi rõ ra đây. Vào cuối tháng ðó, chàng là một trong những người ðược lựa chọn bởi một sĩ quan ðang tìm người cho một chiếc galley có nhiệm vụ chở công chúa tới Naples. Chàng ðược chọn do cơ thể cường tráng ðã chịu ðựng ðược tất cả sự giày vò của nõi ðịa ngục trần gian ðó, cũng như nhờ vào cơ bắp rắn rỏi mà gã sĩ quan xem xét săm soi như thể gã đang đi chọn súc vật thồ hàng – mà nói cho thật thà thì quả cũng đúng là việc gã đang làm. Chiếc galley mà nhà quý tộc của chúng ta ðược vinh hạnh phục vụ là một chiếc tàu năm mươi mái chèo, mỗi mái chèo do bảy người điều khiển. Họ ðược xếp ngồi theo một dạng cầu thang chạy theo độ dốc của mái chèo, chạy dọc từ giữa boong tàu dốc xuống dưới khoang. Sir Oliver ðược xếp vào chỗ ở sát mặt boong nhất. Tại đây, trần như nhộng tựa lúc mới chào đời, chàng bị xiềng vào chỗ ngồi, và chúng tôi xin ðược nói luôn là chàng đã phải ngồi ở đó liên tục sáu tháng liền không ngắt quãng. Giữa cơ thể chàng với tấm ván ngồi cứng ðơ chỉ cách nhau một tấm da cừu mỏng tang bẩn thỉu. Tấm ván ngồi chỉ dài chừng mười bộ, và cũng chỉ cách những tấm ván sát cạnh có bốn bộ. Trong khoảng không gian chật chội dài mười bộ rộng bốn bộ đó, Sir Oliver và sáu người bạn chèo trải qua toàn bộ cuộc sống khốn khổ của họ - họ ngủ ngồi trong khi bị xích tại chỗ, không có đủ cả chỗ để duỗi thẳng chân. Dần dần sau đó Sir Oliver trở nên cứng rắn và trơ lì với kiểu tồn tại không thể tả lại bằng lời này, cuộc sống mà thực chất là cái chết dần mòn của những nô lệ chèo thuyền. Nhýng chuyến đi đầu tiên dài dằng dặc tới Naples sẽ luôn là kinh nghiệm ghê sợ nhất chàng phải trải qua trong suốt đời mình. Trong suốt sáu hay tám tiếng đồng hồ liên tục, thậm chí có một lần tới mười giờ liền, chàng phải gồng người lên đẩy mái chèo không ngõi tay. Một chân dẫm lên sàn, một chân đạp vào băng ghế phía trước mặt, nắm lấy phần thuộc về chàng của chiếc mái chèo ghê sợ nặng nề dài đến mười lăm bộ, chàng phải cúi lưng về phía trước và nhô người lên để tránh chạm phải vai của các nô lệ đầm đìa mồ hôi đang rên rỉ trước mặt, sau đó chàng phải nhấc cán chiếc mái chèo lên để phần bơi chèo ðược ấn chìm xuống nước, rồi nắm chặt lấy nó, chàng phải nhổm người lên khỏi chỗ ngồi dùng cả sức nặng của cõ thể mình kéo chiếc mái chèo trở lại, ngả người lại phía sau trong tiếng kêu loảng xoảng của xiềng sắt và tiếng cọt kẹt của tấm ván gỗ để rồi lại cúi người về phía trước một lần nữa, và cứ tiếp tục như vậy cho tới khi mọi cảm giác của chàng đều đã tê dại, mắt hoa lên, miệng khô cháy, cả thân thể trở thành một khối đau nhức nhối. Rồi tiếp theo là làn roi bỏng rát của đám cai để cố vắt nốt chút sức lực cho dù ít ỏi còn lại trong người các nô lệ chèo thuyền, đôi khi để lại trên tấm lưng trần của chàng những lằn roi rớm máu. Cứ như thế ngày lại ngày, lúc bị hun đến khô người đi dưới cái nắng phương nam thiêu đốt, lúc lạnh run lên từng cơn trong những ðêm lộng gió trong khi chàng trải qua những giây phút nghỉ ngơi, mệt rã rời, người ngợm bẩn thỉu đến mức không thể tưởng tượng nổi, râu tóc bết lại vì mồ hôi, không hề ðược tắm rửa ngoại trừ nhờ những cơn mưa vốn quá hiếm hoi vào thời gian này trong năm, chàng gần như choáng váng trước tình cảnh ghê rợn của những ngườì khốn khổ cùng chung cảnh ngộ, cả người chàng nhung nhúc những vật ký sinh bẩn thỉu chui ra từ tấm da cừu mục nát cùng vô vàn những thứ kinh tởm khác đầy rẫy trong cái địa ngục nổi này. Chàng ðược nuôi ăn không đủ no bằng bánh khô mốc meo và thứ gạo mục nấu qua loa, còn về đồ uống chàng luôn ðược thưởng thức thứ nước đục ngầu thường xuyên nặng muì, trừ những khi nhịp chèo gấp gáp hơn nhiều so với bình thường buộc đám cai phải đút vào miệng những nô lệ chèo thuyền vài khoanh bánh mì nhúng vào rượu vang để giúp họ hồi sức. Bệnh scorbut bùng phát trong chuyến ði ðó, và còn có nhiều bệnh tật khác lan rộng trong đám nô lệ, ấy là chưa kể tới điều kiện bẩn thỉu thiếu vệ sinh của những băng ghế chèo thuyền mà tất cả nô lệ đều ðược chia phần, và về khoản này thì mỗi người ðành gồng mình đem hết sức bình sinh ra chịu đựng. Với những nô lệ bị nhiễm bệnh hay những người, đã vượt quá ngưỡng chịu đựng của bản thân, tự cho phép mình ðược xỉu đi bên mái chèo, bọn quản nô chẳng để mất nhiều công sức. Những người ốm bị quẳng xuống biển, những người xỉu đi bị lôi lên boong và đánh bằng roi cho đến khi hồi tỉnh lại ; nếu không tỉnh dậy họ sẽ tiếp tục bị nện roi cho đến khi biến thành một khối khủng khiếp nhầy nhụa máu me, rồi sau đó bị hất xuống nước. Một hay hai lần khi họ đi theo chiều gió mùi khó chịu từ đám nô lệ bay tới khu phòng sang trọng dành cho công chúa và các tuỳ nữ, lập tức mệnh lệnh ðược ban ra phải chỉnh hướng, thế là hàng giờ liền đám nô lệ phải nai lưng ra giữ chiếc galley chếch luồng gió. Số nô lệ bị chết trong tuần đầu tiên của chuyến đi chiếm đến gần một phần tư tổng số nô lệ chèo thuyền. Tuy nhiên luôn có nô lệ dự trữ nhốt dưới khoang, và số này bị điệu lên bù vào những chỗ trống. Chỉ có những người thích hợp nhất mới sống sót nổi cực hình khủng khiếp này. Trong số những ngưòi như vậy có Sir Oliver, và cả người bạn chèo ngồi ngay cạnh chàng, một thanh niên người Moor rám nắng, vạm vỡ, bình thản, không bao giờ ca thán, người này chấp nhận số phận của mình một cách kiên cường đến mức Sir Oliver phải thầm khâm phục. Suốt một thời gian dài, hai người không nói với nhau một lời, bởi cả hai đều nghĩ tôn giáo của họ đã biến họ thành kẻ thù cho dù lúc này hai ngýời đang là bạn đồng hành trong cảnh không may. Thế rồi vào một buổi tối, một người Do Thái già xỉu đi bên mái chèo bị lôi lên boong để « đánh thức » dậy theo cách thông thường, Sir Oliver, tình cờ trông thấy gã tu sĩ mặc áo choàng đỏ đi tháp tùng công chúa đang nhìn xuống từ boong lái với đôi mắt tàn nhẫn không chút từ tâm, đã bùng lên phẫn nộ trước cảnh tượng vô nhân đạo cũng như thái độ lạnh lùng không chút động lòng của kẻ vẫn tự xưng là tôi tớ của đấng cứu rỗi nhân từ và bao dung, đến mức chàng lớn tiếng nguyền rủa tất cả những người Thiên chúa giáo nói chung, và đặc biệt là ông hoàng áo đỏ nọ của nhà thờ. Chàng quay sang gã người Moor bên cạnh, nói với gã bằng tiếng Tây Ban Nha- « Địa ngục, » chàng nói, « hiển nhiên là dành cho ngýời Thiên chúa giáo, có lẽ chính vì thế mà họ luôn kiếm cách biến thế giới này thành địa ngục. » May cho chàng là tiếng ðộng do mái chèo gây ra, tiếng xiềng sắt va đập loảng xoảng, và tiếng roi đập khô khốc xuống thân hình người Do Thái khốn khổ cũng đủ lớn để át tiếng chàng đi. Nhưng tay người Moor đã nghe thấy, và đôi mắt sẫm màu của y sáng lên. « Có một hoả ngục bảy lần hun nóng đang chờ đợi chúng, hỡi người anh em, » gã lên tiếng, với cùng sự tự tin đã giúp gã có được sự bình thản hiện tại. « Nhưng chẳng lẽ người anh em không phải là người Thiên chúa giáo sao? » Gã người Moor nói bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng của vùng duyên hải Bắc Phi, nghe giống như một số thổ âm Pháp có đá lẫn những từ Arab. Nhưng Sir Oliver, gần như bằng linh cảm, đã đoán ra gã muốn nói gì. Chàng liền trả lời, vẫn bằng tiếng Tây Ban Nha, vì cho dù tay người Moor không nói bằng thứ tiếng này song rõ ràng là gã hiểu được nó. « Tôi chối bỏ nó từ giờ phút này, » chàng đáp trong cơn phẫn uất. « Tôi thừa nhận rằng không có tôn giáo nào mà nhân danh nó người ta lại làm những việc như vậy. Hãy thử nhìn đứa con của địa ngục mặc áo đỏ đang đứng trên kia xem. Hãy xem y đang kiêu kỳ hít bột thơm của y để tránh cho lỗ mũi thánh thiện của y khỏi bị xúc phạm bởi thứ mùi toả ra từ những kẻ khốn khổ như chúng ta. Dù thế chúng ta cũng là những tạo vật được của Chúa được tạo ra theo đúng hình dáng của Người. Y biết những gì về Chúa? Y biết về tôn giáo cũng nhiều như về rượu vang hảo hạng, về thức ăn ngon, về đàn bà đẹp. Y rao giảng rằng tiết hạnh là con đường dẫn tới thiên đường, và bằng chính cách sống của mình y đã tự kết án y. » Chàng bật ra một lời rủa trong khi đẩy chiếc mái chèo khổng lồ về phía trước. « Tôi, một người Thiên chúa giáo ư? » chàng kêu lên rồi phá ra cười lần đầu tiên kể từ khi chàng bị xiềng vào băng ghế nhục hình đó. « Tôi đã đoạn tuyệt với người Thiên chúa giáo và chính Thiên chúa giáo nữa! » « Hẳn nhiên chúng ta thuộc về Thượng đế, và chúng ta sẽ quay trở lại với Người, » gã Moor đáp. Đó là sự khởi đầu cho tình bạn giữa Sir Oliver và người Moor trẻ tuổi có tên Yusuf ben Moktar. Anh này tin rằng Sir Oliver là một người đã được ân phước của Allah khai sáng, môộtngười dã được lựa chọn để đón nhận thông điệp của đấng tiên tri. Yusuf là một người sùng đạo, và bắt đầu thuyết phục người bạn nô lệ của mình cải đạo. Tuy vậy Sir Oliver lắng nghe anh này với thái độ khá dửng dưng. Đã đoạn tuyệt với một đức tin, chàng cần phải thấy thực sự hài lòng với giáo lý của một đức tin khác trước khi chấp nhận nó, mà với chàng dường như tất cả những thứ vinh quang Yusuf không ngớt đưa ra ca tụng Hồi giáo chàng cũng đều đã được nghe sử dụng trước đây để ca tụng Thiên chúa giáo. Nhưng chàng giữ ý nghĩ này lại cho riêng mình, trong lúc đó những cuộc nói chuyện với Yusuf đã giúp chàng học lingua franca, kết quả là tới cuối tháng thứ sáu chàng nhận thấy mình đã có thể sử dụng nó như một người Mauretania với đầy đủ cách nói đầy hình ảnh của người Hồi giáo, cũng như cách lý luận thông thường của tiếng Arab. Chính vào cuối tháng thứ sáu của cuộc đời nô lệ đó đã xảy ra biến cố giúp Sir Oliver lấy lại được tự do. Cho đến thời điểm đó, cơ bắp vốn đã mạnh mẽ hơn rất nhiều so với người thường của chàng đã có được sức mạnh của một người khổng lồ. Với những chiếc mái chèo mọi chuyện luôn diễn ra như vậy. Hoặc là anh sẽ gục chết vì kiệt sức, hoặc là anh sẽ trở nên mạnh mẽ dẻo dai tương xứng với công việc nặng nhọc. Sir Oliver trong sáu tháng này đã trở thành một người sắt thép, trơ lỳ trước mệt nhọc, với sức chịu đựng vượt quá giới hạn thông thường của con người. Chiếc tàu của họ đang quay về sau một chuyến đi tới Genoa khi vào một buổi tối, trong lúc nó đang ở ngoài khơi Minorca ở quần đảo Balearic thì họ bị tấn công bởi một hải đội gồm bốn chiếc galley Hồi giáo bất thần vòng qua một doi đất nhô ra biển để chặn đầu và bao vây họ. Trên chiếc tàu Tây Ban Nha vang lên những tiếng kêu kinh hoàng « Asad ed Din »- tên của tay cướp biển Hồi giáo đáng sợ nhất kể từ sau gã cải đạo người Ý Ochiali – cũng chính là tên Ali Pasha đã bỏ mạng ở Lepanto. Kèn hiệu và trống tập hợp vang lên trên tàu, và những người Tây Ban NHa, đội mũ sắt, mặc áo giáp, được vũ trang bằng súng và kích, chuẩn bị sẵn sàng để chiến đấu bảo vệ mạng sống và sự tự do của bản thân. Các pháo thủ lao tới các cỗ pháo. Nhưng mồi lửa cần phải nhóm và bùi nhùi được thắp, trong khi nhiều thời gian quý báu đã bị lãng phí trong cơn hỗn loạn - đến mức không phát đại bác nào kịp bắn ra trước khi những móc bám bằng sắt ngoạm chặt vào mạn chiếc tàu Tây Ban Nha. Chấn động gây ra khi hai chiếc tàu va vào nhau thật khủng khiếp. Mũi tàu bọc sắt của chiếc galley Hồi giáo – chính là chiếc tàu của Asad ed Din – đâm xiên vào giữa thân chiếc tàu Tây Ban Nha làm mười lăm chiếc mái chèo gãy tan tành. Từ đám nô lệ chèo thuyền vang lên một tiếng thét lớn kinh hoàng, sau đó là những tràng kêu rên thê thảm như của những kẻ chịu khổ hình dưới địa ngục. Bốn mươi nô lệ đã bị cán những chiếc mái chèo đập trở lại vào người. Một số chết ngay lập tức, một số bị đè bẹp nằm sóng sượt, vài người bị gãy sống lưng, số khác với tứ chi và xương sườn dập nát. Sir Oliver chắc chắn đã nằm trong số này nếu không có sự cảnh báo, lời khuyên và ví dụ của Yusuf, người đã quá quen thuộc với các trận giao chiến giữa những chiếc galley và lường trước được chuyện sẽ xảy ra. Anh này đẩy chiếc mái chèo về phía trước và lên trên cao nhất có thể được, buộc những người cùng mái chèo phải làm tương tự. Sau đó anh ta quỳ gối, bỏ tay ra khỏi mái chèo và phủ phục xuống cho đến khi hai vai chỉ còn nằm ngang với băng ghế. Anh ta hô lớn bảo Sir Oliver làm theo mình, và Sir Oliver, không biết làm như vậy để làm gì, nhưng hiểu được sự nghieê trọng qua giọng nói của người bạn, lập tức làm theo. Chỉ một lát sau chiếc mái chèo bị quẹt phải và trước khi gãy đôi nó dội ngược trở lại, đập vỡ óc một người nô lệ ngồi cùng băng ghế, làm tử thương những người còn lại, nhưng lướt qua ngay trên đầu Sir Oliver và Yusuf. Chỉ một khoảnh khắc sau thân hình của những người chèo thuyền ngay phía trước họ bị hất văng trở lại qua đầu hai người trong những tiếng kêu gào chửi rủa. Khi Sir Oliver đứng dậy chàng thấy trận đánh đã bắt đầu. Những người Tây Ban Nha đã phát hoả một loạt đạn từ súng hoả mai của họ, boong tàu mờ mịt khói thuốc súng ; nhưng từ sau làn khói xuất hiện bọn cướp biển, dẫn đầu bởi một người cao dong dỏng đã có tuổi với bộ râu trắng bay phất phơ và khuôn mặt diều hâu rám nắng. Một hình trăng lưỡi liềm bằng ngọc lục bảo sáng lấp lánh trên chiếc turban trắng của ông ta, từ trong chiếc turban nhô lên đỉnh của chiếc mũ sắt, còn cả người tay cướp biển được phủ mạng sắt. Ông ta cầm một thanh scimitar lớn, trước lưỡi gươm của ông những người Tây Ban Nha ngã gục như thân lúa mì dưới lưỡi hái. Người này giao chiến với sức mạnh của mười người, và để trợ chiến cho y ào ào kéo theo như thác lũ những chiến bình Hồi giáo không ngớt hô lớn « Din!Din! Allah, Y Allah! » Quân Tây Ban Nha lùi dần trước cuộc tấn công không gì cản nổi. Sir Oliver thấy Yusuf đang vật lộn một cách vô hiệu để thoát ra khỏi sợi xích của anh ta, và lao tới giúp một tay. Chàng cúi xuống, nắm sợi xích bằng cả hai tay, chân tỳ vào băng ghế, dồn hết sức mạnh và kéo bật được đinh móc ra khỏi ván gỗ. Yusuf đã tự do, tất nhiên nếu không kể tới đoạn xích lòng thòng vẫn còn đeo vào vòng xiềng ở khoeo chân anh ta. Đến lượt mình, anh này lại giúp Sir Oliver tự giải thoát, tuy không được nhanh như chàng đã làm, vì cho dù là người vạm vỡ, hoặc anh này không có được sức mạnh của chàng trai người Cornwall, hoặc vòng móc xích của chàng được đóng vào chỗ gỗ chắc hơn. Tuy vậy, cuối cùng nó cũng bung ra, và Sir Oliver cũng thoát khỏi xiềng xích. Sau đó chàng gác chân bị xích lên băng ghế, với chiếc móc vẫn còn gắn vào đầu sợi xích, chàng bẻ mở mắt xích gắn vào khoeo chân chàng. Xong việc, chàng bắt đầu chuyện báo thù. Hét lớn « Din! » như tất cả đám Hồi giáo vừa áp mạn, chàng nhảy bổ vào phía sau đám Tây Ban NHa, vung tít sợi xích trên tay. Trong tay chàng nó đã trở thành một thứ vũ khí khủng khiếp. Chàng vung nó quật hết sang phải rồi sang trái, hết nện toác đầu một gã này rồi phang vỡ mặt một kẻ khác, cho đến khi chàng đã mở được một con đường xuyên qua đám Tây Ban Nha, những người này bất ngờ truớc cú tập hậu đã gần như không làm gì để giáng trả lại tay nô lệ chèo thuyền đào tẩu. Sau lưng chàng đến lượt Yusuf, tay cầm đoạn cán mái chèo gãy dài gần chục bộ. Sau này Sir Oliver thú nhận chàng hầu như không biết những gì đã xảy ra lúc đó. Chàng trở lại làm chủ được bản thân để nhận ra trận chiến đã kết thúc, và một đám đông cướp biển đội turban đang đứng bao vây đám Tây Ban Nha còn sống sót, trong khi những kẻ khác mở khoang tàu và lôi những chiếc rương chất trong đó ra, một số khác mang theo búa và đục đi dọc theo các băng ghế để giải thoát các nô lệ còn sống sót, trong đó phần lớn là những đứa con của Hồi giáo. Sir Oliver nhận ra mình đang đứng đối mặt với người đàn ông râu bạc chỉ huy toán cướp biển, lúc này đang đứng chống tay lên cán cây scimitar của mình nhìn chàng với ánh mắt vừa thú vị vừa tò mò. Thân hình trần trụi của chàng quý tộc của chúng ta nhuộm đỏ máu suốt từ đầu đến chân, và bàn tay phải của chàng vẫn còn cầm đoạn xích sắt dài một sải tay chàng đã dùng để gây ra cả một cuộc tàn sát. Yusuf đang đứng cạnh viên thủ lĩnh cướp biển nói rất nhanh. « Có Allah chứng giám, đã có ai từng thấy một chiến sĩ mạnh mẽ như thế! » viên thủ lĩnh thốt lên. « sức mạnh của đấng Tiên tri đã nhập vào anh ta để tiêu diệt lũ lợn tà đạo. » Sir Oliver cau mặt một cách hung bạo. « Tôi đã trả lại chúng những vết roi quất – và còn có lãi nữa, » chàng nói. Và trong hoàn cảnh như vậy chàng đã làm quen với Asad ed Din lừng danh, Basha của Algiers, và đó là những lời đầu tiên hai người đã nói với nhau. Sau đó, khi đã ở trên chính chiếc galley của Asad đưa chàng tới Barbary, chàng được tắm rửa, mái tóc được cạo nhẵn trừ một chỏm để đấng Tiên tri nắm lấy nhấc chàng lên thiên đường khi định mệnh trần thế của chàng đã hoàn thành. Chàng chẳng hề phản đối. Bọn họ tắm rửa, cho chàng ăn uống nghỉ ngơi, và vì bọn họ đã cư xử với chàng như vậy, cứ để mặc họ muốn làm gì tuỳ thích. Cuối cùng, được mặc một bộ đồ thùng thình hoàn toàn lạ lẫm với mình, đầu đội một chiếc turban, chàng được dẫn đến boong lái, nơi Asad đang ngồi cùng Yusuf dưới một chiếc lọng, và chàng hiểu ra rằng nhờ có sự can thiệp của Yusuf mà chàng đã được đối xử như thể chàng đã là tín đồ Hồi giáo. Yusuf ben Moktar hoá ra là một nhân vật quan trọng, là cháu của Asad ed Din, cũng là một sủng thần của chính đấng thống lĩnh các tín đồ của Allah, và việc anh này bị người Thiên chúa giáo bắt đã bị coi là một tổn thất lớn lao. Cũng như thế, việc anh ta được thoát khỏi kiếp tù đày cũng được coi là một tin mừng lớn. Được giải thoát, anh ta nhớ tới người bạn chèo thuyền và chính Asad ed Din cũng bắt đầu tò mò chú ý đến, vì trên thế gian này không có gì làm tay cướp biển già ưa thích hơn một chiến binh can trường, và ông ta đã thừa nhận rằng suốt đời mình ông chưa hề thấy ai sánh được với gã nô lệ chèo thuyền lực lưỡng, cũng chưa hề nhìn thấy việc gì tương tự như gã đã làm với sợi xích chết người. Yusuf đã cho ông biết rằng người đàn ông này đã được đấng tiên tri lựa chọn, rằng an phước của Allah đã khai sáng người này, và về phần hồn đã có thể coi đây là một tín đồ Hồi giáo chân chính. Khi Sir Oliver, đã được tắm rửa, xức dầu thơm, bận một chiếc áo caftan và đội turban đều màu trắng khiến chàng có vẻ còn cao hơn thực tế, được đưa tới trình diện Asad ed Din, chàng được cho biết rằng nếu chàng chấp nhận đứng vào hàng ngũ những người trung thành với đấng tiên tri và cống hiến sức mạnh và sự can đảm mà Allah đấng duy nhất đã trao cho chàng để nêu cao chân giáo và diệt trừ kẻ thù của Hồi giáo, chàng sẽ có được chức tước, giàu sang và danh tiếng. Từ tất cả lời đề nghị này, được trình bày một cách màu mè và dài dòng văn tự theo đúng kiểu vòng vo của người phương Đông, chỉ có mỗi một câu đọng lại trong trí óc vẫn còn đang rối bời của chàng, đó là câu nói đến chuyện diêệttrừ kẻ thù của Hồi giáo. Kẻ thù của Hồi giáo, như chàng nhận thấy, cũng là kẻ thù của chính chàng, và chàng còn đi xa hơn khi tin rằng những kẻ này đúng là đáng bị diệt trừ càng sớm càng tốt, và góp một tay vào thực hiện nó có vẻ là một nghĩa vụ. Rồi chàng cân nhắc lời đề nghị được đưa ra dành cho chàng. Chàng cũng suy tính tới một khả năng thứ hai - nếu chàng từ chối chấp nhận cải đạo như được yêu cầu – là chàng sẽ phải quay trở lại làm bạn với mái chèo của một chiếc galley, lần này là một chiếc galley Hồi giáo. Tới lúc này thì đó là một thú vui mà chàng đã nếm quá đủ, và kể từ lúc chàng được tắm rửa và quay tở lại trạng thái thông thường của một người sạch sẽ, chàng nhận ra rằng cho dù chàng có can đảm đến đâu đi nữa cũng không đủ để khiến chàng chịu quay lại cầm mái chèo lần nữa. Chúng ta đã thấy chàng dễ dàng từ bỏ tôn giáo đã được nuôi dạy từ nhỏ ra sao để chấp nhận theo Công giáo Roma, và chàng sau đó đã thấy mình lỗ vốn lớn ra làm sao. Và cũng thoải mái y như vậy, lần này chàng lại chấp nhận chuyển sang đạo Hồi, và được hưởng lợi lớn hơn nhiều. Hơn nữa, chàng đã chấp nhận tín ngưỡng của Mohamet với một mức độ quả quyết kiên định không hề có ở lần cải đạo trước đó. Trong thời gian ở trên chiếc galley Tây Ban Nha, như chúng ta đã thấy, chàng đã đi tới kết luận rằng Thiên chúa giáo vào thời của chàng là một trò hề bỉ ổi tốt hơn cần loại bỏ khỏi thế giới này. Cũng không nên cho rằng niềm tin Thiên chúa giáo sai lầm dẫn chàng đi xa tới mức khiến chàng coi Hồi giáo là đúng, hay chuyện cải đạo của chàng sang Hồi giáo là cái gì đó hơn là vẻ bề ngoài. Nhưng trong hoàn cảnh bị ép phải lựa chọn giữa băng ghế chèo thuyền và chỗ ngồi trên boong lái, giữa mái chèo và thanh scimitar, chàng đã cả quyết chọn lấy con đường duy nhất dẫn tới sự sống và tự do trong hoàn cảnh của chàng. Vậy là chàng được đón nhận vào hàng ngũ những tín đồ sẽ được đón nhận lên thiên đường, với vườn cây không bao giờ hết trái ngọt, nằm giữa những dòng sông sữa, rượu vang và mật ong. Chàng trở thành Kâyi hay phó tướng cho Yusuf trên chiếc galley do gã cướp biển này chỉ huy, làm trợ thủ cho gã trong chừng chục cuộc hải chiến với năng lực và sự quả cảm khiến chàng nhanh chóng nổi danh trong hàng ngũ cướp biển Địa Trung Hải. Chừng saú tháng sau, trong một trận đánh ngoài khơi Sicily với một trong những chiếc galley của các hiệp sĩ Malta, Yusuf bị tử thương đúng vào giây phút chiến thắng. Gã chết một giờ sau trong tay Sir Oliver, cử chàng thay gã chỉ huy chiếc galley, và có quyền buộc tất cả phải phục tùng cho đến khi quay trở về Algiers và Basha có quyết định chính thức về thuyền trưởng mới. Quyết định của Basha cũng khẳng định lại sự chỉ định của người cháu, và Sir Oliver trở thành chỉ huy của một chiếc galley. Từ đó trở đi chàng trở thành Oliver Reis, nhưng chẳng bao lâu sau chiến công và lòng can đảm của chàng đã khiến chàng có biệt danh là Sakh el-Bahr, chim Ó biển. Tiếng tăm của chàng nổi lên nhanh chóng, lan theo mặt biển tới tận bên bờ Thiên chúa giáo. Rất nhanh chóng, chàng trở thành phó tướng của Asad, chỉ huy phó của tất cả galley tại Algiers, cũng có nghĩa trên thực tế chàng là tổng chỉ huy, vì Asad ngày càng già đi và ngày càng ít đi biển hơn. Sakh el-Bahr ra khơi dưới danh nghĩa của gã, và lòng can đảm, sự khôn ngoan và vận may đã khiến chàng không bao giờ ra khơi mà phải quay về tay trắng. Đối với mọi người thì rõ ràng chàng đã được Allah phù trợ, đã được Allah lựa chọn cho vinh quang của Hồi giáo. Asad, người luôn đánh giá cao chàng, dần dần trở nên quý mến chàng. Là một người cực kỳ sùng đạo, gã làm sao có thể làm ít hơn với người mà đấng bao dung đấng độ lượng đã sủng ái đến vậy? Và mọi người đều ngầm chấp nhận rằng khi số mệnh của Asad ed Din chấm dứt, Sakh el-Bahr se kế thừa chức Basha của Algiers, và như vậy Oliver Reis sẽ nối gót Barbarossa, Ochiali cũng những kẻ thiên chúa giáo cải đạo khác đã trở thành những ông hoàng cướp biển Hồi giáo. Bất chấp vài sự thù địch do sự thăng tiến nhanh chóng của chàng gây ra, mà về những sự thù địch này chúng ta sẽ sớm được nghe nói tới nhiều hơn, chỉ có một lần quyền lực của chàng rơi vào nguy cơ bị chững lại. Vào một buổi sáng, khoảng sáu tháng sau khi lên chức thuyền trưởng, khi chàng đi tới chợ nô lệ của Algiers, chàng tìm thấy ở đó chừng hai chục người đồng hương, và chàng ra lệnh tháo xiềng lập tức và trả lại tự do cho những người này. Bị Basha triệu tới chất vấn về việc này, chàng đã đánh bài liều vì không còn cách nào khác. Chàng thề trên chòm râu của đấng tiên tri rằng nếu chàng mang thanh gươm của Mohamet đi phụng sự Hồi giáo trên biển cả, chàng muốn được phụng sự theo cách của mình, và một trong những nguyên tắc chàng đề ra là những người đồng hương của chàng sẽ không bị thanh gươm đó động đến. Chàng thề là Hồi giáo sẽ không phải chịu thiệt thòi, vì với mỗi người Anh chàng trả lại tự do, chàng sẽ mang hai người Tây Ban Nha, Pháp, Hy Lạp hay Ý vào vòng xiềng xích. Chàng thắng cuộc, nhưng chỉ với một điều kiện: vì các nô lệ bắt được là tài sản của nhà nước, nếu chàng muốn lấy lại những người này, trước hết chàng cần mua những nô lệ này làm tài sản riêng. Sau đó, vì những người này là tài sản của chàng chàng muốn làm gì họ tuỳ ý. Như vậy Asad công minh và khéo léo đã phân xử xong rắc rối, và Oliver Reis cũng khôn ngoan không kém chấp nhận phán quyết này. Từ đó về sau, tất cả nô lệ người Anh bị mang tới Algiers chàng đều mua lại, chăm lo tử tế và tìm cách đưa họ về nhà. Đúng là việc này làm chàng tốn kém không ít hàng năm, nhưng chàng cũng nhanh chóng không kém thu được những gia tài khổng lồ cho phép chàng thoải mái chịu đựng phí tổn nói trên. Khi bạn đọc cuốn sách của Lord Henry Goade, rất có thể bạn đi tới kết luận rằng trong cảnh giàu sang phú quý của cuộc đời mới Sir Oliver đã lãng quên hoàn toàn những gì xảy ra tại quê hương Cornwall của chàng cũng như người con gái chàng đã yêu, người đã dễ dàng tin rằng chàng chính là thủ phạm giết hại anh nàng. Bạn có thể tin như thế cho đến khi bạn đọc đến đoạn kể lại làm thế nào vào một ngày nọ chàng nhận ra trong đám thuỷ thủ Anh bị bắt tới Algiers bởi Biskaine el Borak - người đã trở thành phó tướng của chàng - một cậu thanh niên cùng quê người ở Helston mang họ Pitt mà trước đây chàng có quen người cha. Chàng đưa cậu thanh niên về ngôi biệt thự nơi chàng đang sống gần Bab-el-Oueb, cư xử với cậu như với một người khách danh dự, và ngồi suốt một buổi tối mùa hè nói chuyện với chàng trai, hỏi han cậu ta đủ điều về người này người khác, và như vậy dần dần biết được qua cậu thanh niên những gì đã xảy ra tại quê nhà trong hai năm kể từ ngày chàng rời nó ra đi. Tới đây chúng ta có thể nhận ra nỗi buồn nhớ quê hương da diết đã xâm chiếm lấy kẻ cải đạo và cố gắng làm dịu bớt nó qua vô vàn câu hỏi của chàng. Cậu thanh niên đã bất thần mang chàng một cách đột ngột và đau đớn quay trở lại quá khứ mà chàng đã quay lưng đoạn tuyệt khi chàng trở thành một người Hồi giáo và một tên cướp biển. Chỉ có một cách diễn giải duy nhất là vào đêm mùa hè đó quá khứ đã bùng sống dậy trong chàng, cùng khao khát đến điên cuồng muốn trở về. Rosamund sẽ giúp chàng mở lại cánh cửa mà chàng đã đóng sập lại khi bị sự không may truy bức đến cùng đường. Chàng đoan chắc nàng sẽ làm vậy một khi nàng được biết sự thật. Đến lúc này thì chẳng còn lý do nào buộc chàng phải che dấu sự thật, buộc chàng phải tiếp tục che chở cho đứa em cùng cha khác mẹ đê tiện của chàng, kẻ mà giờ chàng căm hận cũng sâu đậm như trước đây chàng đã từng quý mến. Chàng bí mật viết một lá thư dài kể lại những gì đã xảy đến với chàng kể từ khi bị bắt cóc, tường thuật lại toàn bộ sự thật về vụ bắt cóc cũng như về tội ác đã dẫn đến nó. Người thuật lại chuyện đời chàng cho biết đó là một lá thư hẳn khiến cho đá cũng phải rơi nước mắt. Và hơn nữa, đó không chỉ là chuyện thanh minh kêu oan suông hay một lời buộc tội em trai chàng không bằng chứng. Bức thư còn cho nàng biết sự tồn tại của một bằng chứng sẽ xua tan mọi nghi ngờ. Đó là biên bản do thẩm phán Baine soạn thảo và được ông mục sư làm chứng, biên bản sẽ được trao cho nàng cùng với bức thư. Hơn nữa, trong thư chàng khuyên nàng, nếu nghi ngờ, hãy tìm thẩm phán Baine để xác nhận sự trung thực của biên bản đó. Sau đó, bức thư xin nàng hãy trình bày toàn bộ vụ việc trước nữ hoàng, bằng cách đó đảm bảo cho chàng được an toàn trở về nước Anh và không bị truy cứu về việc cải đạo mà hoàn cảnh không may đã ép buộc chàng. Chàng tặng cậu thanh niên không biết bao nhiêu quà cáp, đưa cho cậu lá thư để cậu đích thân trao cho người nhận, kèm theo những chỉ dẫn cho phép cậu tìm thấy biên bản mà cậu cần trao cùng lá thư. Biên bản quý giá đó đã được kẹp vào một cuốn sách cổ viết về nuôi chim ưng săn để trong thư viện của Penarrow, nơi rất có thể nó vẫn nằm yên chưa bị động đến vì em trai chàng không biết đến sự tồn tại của nó và bản thân cậu ta cũng không ưa gì sách vở. Pitt cần đến Penarow gặp Nicholas và nhờ ông lão giúp đỡ để tìm biên bản đó, nếu nó vẫn còn tồn tại. Sau đó Sakh el-Bahr thu xếp phương tiện đưa Pitt tới Genoa, rồi giúp cậu thanh niên lên một chiếc tàu Anh tại đây. Ba tháng sau chàng nhận được câu trả lời - một lá thư của Pitt, đến tay chàng qua đường Genoa – lúc này đang đình chiến với Algiers và trở thành cửa ngõ liên lạc với thế giới Thiên chúa giáo. Trong thư Pitt cho chàng biết cậu đã làm theo tất cả những gì Sir Oliver yêu cầu ; cậu đã tìm thấy biên bản nhờ sự giúp đỡ của Nicholas, và đích thân cậu đã đến xin gặp tiểu thư Rosamund Godolphin, người hiện đang sống với Sir John Killigrew tại Arwenack, trao cho nàng lá thư và biên bản ; thế nhưng khi biết được cậu được ai cử đên, cô gái đã ngay trước mặt cậu thanh niên vứt cả hai vào lửa mà không mở ra xem, rồi lập tức đuổi cậu ra khỏi cửa khi cậu chưa kịp mở miệng. Sakh el-Bahr thức trắng đêm ngoài trời trong khu vườn cây ăn quả đầy hương thơm của chàng, và đám nô lệ trong nhà đã kinh hãi kháo nhau rằng chúng nghe thấy tiếng nức nở khóc than. Nếu quả thực trái tim chàng đã khóc, thì đó là lần cuối cùng ; từ đó trở đi chàng trở nên lạnh lùng hơn, tàn bạo hơn, khinh mạn hơn người ta đã từng thấy trước đây, và cũng từ ngày đó chàng không bao giờ đoái hoài đến một nô lệ người Anh nào nữa. Trái tim chàng đã trở nên chai lạnh. Cứ như thế năm năm trôi qua kể từ buổi tối mùa xuân khi chàng bị Jasper Leigh bắt cóc, tiếng tăm chàng lan rộng, tên chàng trở thành nỗi kinh hoàng trên biển, và hàng hải đội ra khơi từ Malta, Naples, từ Venice để chấm dứt những cuộc cướp bóc của chàng. Nhưng Allah luôn dõi theo chàng, và Sakh el-Bahr không bao giờ xuất trận mà không đem về chiến thắng cho những thanh scimitar Hồi giáo. Rồi cũng vào mùa xuân của năm thứ năm này, chàng nhận được một lá thư nữa từ cậu thanh niên Pitt, một lá thư cho chàng thấy trên thế gian này lòng biết ơn chưa hẳn đã chết hoàn toàn như chàng vẫn nghĩ, vì cậu thanh niên đã viết thư cho chàng biết một số sự việc có liên quan đến chàng hoàn toàn do bị thúc đẩy bởi lòng biết ơn với người đã giúp cậu thoát kiếp nô lệ. Lá thư này lại làm hé miệng vết thương cũ ; không chỉ có thế, nó còn gây cho chàng thêm một vết thương mới. Chàng được biết rằng người viết thư đã bị Sir John Killigrew ép buộc phải làm chứng về việc Sir Oliver cải sang đạo Hồi để giúp toà án có thể tuyên bố Sir Oliver coi như đã chết trước pháp luật, và trao quyền thưad kế cho em trai chàng, quý ngài Lionel Tressilian. Pitt thừa nhận cậu rất phẫn nộ vì bị ép buộc phải làm hại Sir Oliver như vậy sau nhưng ân huệ nhận được từ chàng, cũng nói thêm rằng nếu cậu biết trước hậu quả với chàng do lời chứng của cậu gây ra, cậu thà để bị treo cổ còn hơn chịu làm chứng. Đến đây, Sir Oliver đọc bức thư một cách dửng dưng với cảm giác duy nhất là sự khinh bỉ lạnh lùng. Thế nhưng đó chưa phải là tất cả. Lá thư tiếp tục cho chàng biết tiểu thư Rosamund mới quay về Anh sau hai năm sống tại Pháp để đính hôn với em trai cùng cha khác mẹ Lionel của chàng, và hai người sẽ thành hôn vào tháng Sáu. Chàng còn được biết thêm cuộc hôn nhân đã được tác thành bởi Sir John Killigrew theo ý nguyện của quý ngài muốn được thấy cuộc sống của Rosamund được thu xếp ổn định dưới sự bảo trợ của một người chồng vì bản thân quý ngài cũng đang định ra khơi và đang chuẩn bị một con tàu để đi tới Tân Thế Giới. Người viết thư cũng thêm rằng cuộc hôn nhân rất được tán thưởng, được coi là tuyệt vời cho cả hai nhà, vì nó hợp nhất làm một hai lãnh địa láng giềng Penarrow và Godolphin Court. Oliver Reis phá lên cười khi chàng đọc tới đây. Xem ra cuộc hôn nhân được tán thưởng không phải vì chính nó, mà vì nó mà hai khoảnh đất được hợp làm một. Đây là đám cưới giữa hai tư viên, hai lãnh địa, hai khu rừng, và hai người liên quan đến nó có vẻ chỉ là một chi tiết phụ. Rồi sự mỉa mai của cuộc hôn nhân này ngấm dần vào tâm hồn chàng, làm nó ngập tràn đắng cay uất hận. Sau khi đã cấm cửa chàng vì cái chết của người anh trai mà chàng không hề liên quan đến, nàng lại chuẩn bị cưới chính tên thủ phạm. Còn hắn, còn tên đê tiện hèn hạ đó!- Từ âm ty địa ngục nào hắn đã có được sự can đảm trâng tráo để đi đến trò hề này? Chẳng lẽ hắn là một kẻ không tim, không lương tâm, không danh dự, không sợ Chúa? Chàng xé vụn lá thư thành từng mảnh và cố xoá nỗi ám ảnh ra khỏi đầu. Pitt có ý tốt, nhưng đã hành hạ chàng tàn nhẫn. Trong lúc tìm cách thoát khỏi những hình ảnh lờn vờn tra tấn trong đầu, chàng ra khơi cùng ba chiếc galley và đó là lý do vì sao chừng hai tuần sau chàng đứng đối diện với thuyền trưởng Jasper Leigh trên chiếc tàu buồm Tây Ban Nha chàng vừa chiếm dưới mũi Spartel.