Bên bờ sông Fal một chiếc tàu lộng lẫy, mà ng ười ta đã thuê những thợ cả giỏi nhất và không tiếc tiền của để đóng, kiêu hãnh buông neo ngay ngoài Smithick dưới ngọn đồi mà trên đỉnh vươn cao toà dinh thự kiểu cách của Arwenack. Chiếc tàu ðược đóng để chuẩn bị cho một chuyến viễn dương xa và từ nhiều ngày nay, lương thực và vũ khí đã được vận chuyển xuống tàu, khiến cho cái lò rèn nhỏ và dãy nhà của khu làng chài tấp nập hơn thường lệ rất nhiều, như thể để báo trước cho những hoạt động sôi động trong tương lai tại nơi này. Vì có vẻ cuối cùng Sir John Killigrew cũng đạt ðược ý nguyện về một bến cảng lớn mà ông vẫn mơ ước. Tình bạn giữa ông và quý ngài Lionel Tressilian đã đóng góp không ít vào việc này. Sự cản trở gây ra bởi Sir Oliver, cũng như sự ủng hộ, phần lớn cũng theo gợi ý của Sir Oliver, dành cho Truno và Helston, đã ðược Lionel rút lại hoàn toàn; hơn thế nữa, Lionel còn đi xa hơn theo hướng ngược lại đến mức ủng hộ Sir John trong bản tường trình của ông trước Nghị viện và nữ hoàng. Và hệ quả rất tự nhiên là nếu sự đối lập của Sir Oliver đã là ngọn nguồn của sự thù địch trước đây giữa Arwenack và Penarrow, thì lúc này sự ủng hộ của Lionel lại trở thành nền tảng cho một tình bạn keo sơn giữa quý ngài và Sir John. Nếu Lionel thiếu lý trí sáng suốt của người anh, quý ngài đã bù lại thiếu sót này bằng sự khôn ranh. Quý ngài nhận ra rằng cho dù rất có thể trong tương lại đến lúc nào đó Helston và Truno, cũng như lãnh địa Tressilian sẽ phải chịu thiệt thòi vì sự xuất hiện của một bến cảng ở vị trí thuận lợi hơn, thì điều đó chưa chắc đã đến trong đời quý ngài; và trước khi chuyện ấy xảy đến quý ngài sẽ nhận được sự ủng hộ của Sir John trong chuyện đeo đuổi cầu hôn Rosamund Godolphin và như thế lãnh địa Godolphin sẽ nhập vào tài sản của quý ngài. Với Lionel lợi ích tức thời này đáng đồng tiền bát gạo hơn nhiều so với khả năng thua thiệt trong một tương lại xa xăm nào đó. Tuy thế, bạn đọc cũng đừng nghĩ rằng chuyện cầu hôn của Lionel đã hoàn toàn thuận buồm xuôi gió. Cô chủ của Godolphin Court không hề thể hiện chút ân huệ nào với quý ngài và chủ yếu cũng vì muốn thoát khỏi sự đeo bám lẵng nhẵng của ngài mà cô gái đã xin phép và ðược Sir John Killigrew đồng ý cho đi theo em gái ông sang Pháp khi cô này theo chồng tới đó làm đại sứ Anh quốc tại Louvre. Sir John đã trở lại làm người bảo trợ cho cô thiếu nữ sau cái chết của anh trai cô. Anh chàng Lionel buồn phiền ngõ ngẩn trong khi cô vắng mặt, nhưng được động viên bởi lời cam đoan của Sir John rằng cuối cùng thế nào quý ngài cũng lọt được vào mắt xanh người đẹp, chàng thanh niên liền rời Cornwall lên ðường đi khám phá thế giới. Quý ngài trải qua một thời gian tại triều đình ở London, tuy nhiên ở đó có vẻ quý ngài cũng không ðược phát tài cho lắm, rồi sau đó chàng thanh niên vượt biển tới nýớc Pháp để tìm tới người đẹp ngài vẫn hằng mong nhớ. Sự kiên trì, nhẫn nại đến cam chịu của quý ngài trong cuộc tỏ tình, cũng như tình cảm rõ ràng là chân thành và sâu đậm của ngài cuối cùng cũng xua tan dần sự chống đối của cô thiếu nữ, như người ta vẫn nói “nước chảy đá mòn”. Thế nhưng cô vẫn không thể cho phép mình quên rằng anh chàng thanh niên này là em trai Sir Oliver – em trai của người ðàn ông nàng đã yêu, và cũng là em trai của kẻ đã hãm hại chính anh trai nàng. Vậy là giữa họ đã có hai bức tường ngăn cách; bóng ma ám ảnh của tình yêu cũ của cô gái và máu của Peter Godolphin. Nàng đã nhắc lại những điều này với Sir John khi quay trở về Cornwall sau chừng hai năm vắng mặt, viện chúng ra làm lý do vì sao một cuộc hôn nhân giữa nàng và Lionel là không thể. Sir John hoàn toàn không đồng ý với cô gái trẻ. “Cháu yêu quý,” ông nói, “cần phải nghĩ đến tương lai của cháu. Giờ cháu đã trưởng thành và làm chủ hành động của bản thân. Thế nhưng một phụ nữ quý tộc mà sống độc thân thì không hay chút nào. Chừng nào ta còn sống, hay chừng nào ta vẫn còn ở nước Anh, thì không có gì đáng nói. Cháu có thể sống tại đây ở Arwenack chừng nào cháu muốn, và ta nghĩ cháu đã làm đúng khi rời bỏ sự cô quạnh ở Godolphin Court. Thế nhưng hãy thử nghĩ xem khi ta không còn ở đây một lần nữa cháu sẽ lại rất cô đơn.” “Cháu thà chấp nhận sự cô đơn còn hơn người chồng ngài định chọn cho cháu,” nàng trả lời ông. “Cháu nói thế mà được sao?” ông phản đối. “ Chẳng lẽ đó là sự biết ơn cháu dành cho sự tôn thờ say mê, sự kiên nhẫn, sự chu đáo lịch thiệp của cậu ta sao?” “Cậu ta là em trai Sir Oliver Tressilian, » nàng đáp lại. « Về chuyện đó cậu ta đã chẳng phải chịu đựng quá đủ rồi hay sao? Chẳng lẽ cậu ta cứ mãi mãi phải trả giá cho tội ác của người anh? Bên cạnh đó, nói gì thì nói họ cũng không hoàn toàn là anh em. Mà chỉ là anh em cùng cha khác mẹ thôi. » « Nhưng vẫn là thân thích, » cô gái đáp. « Nếu ngài muốn cháu lấy chồng xin ngài chọn cho cháu một ông chồng khác. » Về vấn đề lựa chọn này quý ông liền trả lời rằng sau khi đã suy xét kỹ càng ông thấy không người chồng nào có thể tốt hơn người ông đã chọn cho cô. Ông nói đến chuyện lãnh địa hai nhà vốn là láng giềng với nhau, và sẽ thật tuyệt vời và tiện lợi ra sao nếu được hợp nhất làm một. Ông tỏ ra rất kiên trì, và còn cả quyết hơn nữa khi ông quyết định thực hiện một chuyến viễn dương. Lương tâm sẽ không cho phép ông nhổ neo cho đến khi đã thu xếp cho cô thiếu nữ được yên ổn chăm lo bằng một cuộc hôn nhân. Lionel cũng kiên trì không kém, bằng một thái độ rất ý tứ gần như chịu đựng, không bao giờ thử thách sự kiên nhẫn của cô gái, một cách theo đuổi do đó rất khó bị chối từ. Cuối cùng cô thiếu nữ ðành chịu thua sự nhẫn nại và ý chí của hai người ðàn ông, và và làm với thái độ dễ chịu nhất cô có thể có được, sau khi đã quyết định sẽ gỡ bỏ khỏi trái tim và khối óc mình vật cản thực sự duy nhất mà vì xấu hổ với chính bản thân cô đã không dám thú nhận với Sir John. Sự thật đó là bất chấp những chuyện đã xảy ra, tình yêu của cô dành cho Sir Oliver vẫn chưa bị xoá nhoà. Đúng là nó đã lắng dần xuống cho đến lúc chính bản thân cô gái cũng không biết thực ra tình cảm đó nên gọi là gì nữa. Nhưng nàng vẫn thường xuyên nghĩ đến chàng một cách buồn bã ; nàng thấy mình luôn so sánh chàng với em trai chàng ; và cho dù ngoài lời nàng đã xin Sir John hãy tìm cho nàng một người chồng khác ngoài Lionel, song nàng biết quá rõ rằng bất cứ ứng cử viên nào rồi cũng sẽ bị nàng so sánh một cách tương tự và bị trái tim nàng loại bỏ. Tất cả chuyện đó nàng tự trách mình như một tội lỗi. Một cách vô vọng nàng bắt tâm trí mình phải nhớ rằng Sir Oliver là kẻ sát hại Peter. Thế nhưng cùng với thời gian trôi qua, nàng thấy mình thực ra đã hoàn toàn tha thứ cho người ðàn ông nàng đã từng yêu ; nàng thừa nhận rằng chính Peter đã đẩy chàng đến hành động như vậy, rằng vì nàng Sir Oliver đã chịu đựng hết sự xúc phạm này đến sự xúc phạm khác từ Peter, cho đến khi, cũng chỉ là một con người, giới hạn chịu đựng của chàng đã bị vượt qua, và thế là quá đủ với việc nhẫn nại nín nhịn sự sỉ nhục, chàng đã vùng lên ra tay. Nàng muốn nguyền rủa chính mình vì những ý nghĩ như vậy, nhưng không làm sao xua đuổi chúng đi được. Trong hành động nàng có thể tỏ ra cứng cỏi – như chúng ta đã thấy nàng đã làm gì với lá thư Oliver gửi cho nàng từ Barbary qua tay Pitt – nhưng nàng không sao khống chế ðược ý nghĩ của bản thân, và ý nghĩ lại thường xuyên phản lại lý trí của chính nàng. Trong tim mình nàng không thể dập tắt ðược nỗi nhớ Oliver, thậm chí nàng có lúc còn nuôi hy vọng chàng sẽ một ngày kia quay trở về, cho dù nàng quá hiểu sẽ chẳng có gì để chờ đợi từ một cuộc trở về như thế. Khi Sir John cuối cùng ðã dập tắt những tia hy vọng về cuộc trở về đó, ông đã làm một việc khôn ngoan hơn là ông tưởng. Từ khi Oliver biến mất họ chưa bao giờ nghe ðược tin gì về chàng cho tới khi Pitt tìm đến Arwenack với lá thư và câu chuyện của cậu. Họ, cũng như cả bàn dân thiên hạ, đều đã nghe nói tới tên hải tặc Sakh el Bahr, thế nhưng chẳng bao giờ họ ngờ rằng y có liên quan đến Oliver Tressilian. Lúc này, khi thân thế thật của tên hải tặc đã ðược Pitt chứng thực, việc thuyết phục toà án coi chàng như đã chết và trao quyền thừa kế cho Lionel quả là dễ như trở bàn tay. Với Rosamund thì việc này chẳng có gì quan trọng. Nhưng quan trọng là ở chỗ Sir Oliver đã chết trước mắt pháp luật, và sẽ chết trên thực tế nếu chàng dám đặt chân lên đất Anh lần nữa. Thực tế này đã dập tắt niềm hy vọng vô vọng đến kỳ lạ và gần như vô thức của nàng rằng một ngày kia chàng sẽ quay về. Rất có thể nó cũng giúp nàng nhìn thẳng vào thực tế và chấp nhận tương lai mà Sir Oliver đã thu xếp cho nàng. Chuyện đính hôn của nàng ðược công bố rộng rãi, và nếu nàng không tỏ ra là một cô thiếu nữ đang yêu say đắm, thì ít nhất cũng là một vị hôn thê dịu dàng và tuân phục. Về phần mình, vị hôn phu hoàn toàn hài lòng. Lúc này không thể đòi hỏi nhiều hơn, và chàng thanh niên ðược nâng ðỡ bởi sự tự tin của tất cả những kẻ đang yêu rằng có được cơ hội và thời gian cậu ta sẽ tìm được cách đánh thức tình cảm của Rosamund. Cũng cần phải thừa nhận rằng chỉ trong thời gian đính hôn giữa hai người quý ngài đã có bằng chứng cho thấy sự tự tin của mình có cơ sở. Cô thiếu nữ đã luôn cô ðơn, Lionel đã xua tan sự cô ðơn của nàng bằng sự ân cần quên mình, sự chu đáo hiếm có, gần như quý ngài đã từ tốn rón rén thận trọng từng bước trên con đường mà những kẻ vụng về hẳn đã sốt ruột guồng chân chạy, và sự thận trọng của ngài đã giúp hai người xích lại gần nhau hơn, sự có mặt của ngài trở nên ngày càng dễ chịu hơn với cô gái. Từ bước khởi đầu đó tình cảm của cô thiếu nữ dần dần hình thành, và quan sát hai người trẻ tuổi bên nhau như những ngýời bạn tâm đầu ý hợp, Sir John tự chúc mừng sự sáng suốt của ngài rồi bắt tay vào việc chuẩn bị một con tàu tuyệt đẹp –chiếc Én Bạc – cho chuyến đi sắp tới. Lúc này chỉ còn cách ngày hôn lễ một tuần, Sir John đang nóng lòng hơn lúc nào hết. Tiếng chuông mừng đám cưới cũng sẽ là tín hiệu khởi hành của ngài ; khi chúng ngừng tiếng cũng là lúc chiếc Én Bạc giương buồm. Đó là buổi tối ngày mồng Một tháng Sáu, trời đã tối hẳn và gian phòng ăn lớn của Arwenack nõi bữa tối sắp diễn ra đang ðược thắp sáng. Đây là một bữa tiệc nhỏ. Chỉ có Sir John, Rosamund và Lionel, người đã ở lại làm khách hôm đó, và Lord Henry Goade- người thuật truyện của chúng ta – tư lệnh đồn binh của nữ hoàng ở Cornwall cùng phu nhân của ngài. Hai người đang ở chơi nhà Sir John và sẽ còn lưu lại đó một tuần để cùng dự đám cưới sắp diễn ra. Bên ngoài ngôi nhà công việc chuẩn bị cho việc ra đi của Sir John và cô gái ngài bảo trợ, một người tới những vùng biển xa lạ, người kia về nhà chồng, đang được hối hả tiến hành. Trong căn phòng ở trên tháp một tá thợ may đang chuẩn bị bộ đồ cô dâu dưới sự giám sát của Sally Pentreat, người trước đây cũng đã cẩn thận giám sát việc sửa soạn quần áo tã lót để đón Rosamund chào đời. Ðúng lúc Sir John mời mọi người vào bàn, Sir Oliver Tressilian ðặt chân lên bờ cách đó chưa đầy một dặm. Chàng tính rằng tốt nhất không nên vòng qua mỏm Pendennis. Vậy là chàng buông neo gần bãi biển nằm phía trên Swanpool nằm ở phía tây doi đất khi bóng ðêm sẫm dần. Chàng cho hạ thuỷ hai chiếc xuồng của con tàu, trên đó chàng cho đổ bộ chừng ba chục người trong đám thủ hạ. Những chiếc xuồng còn quay lại thêm hai lần nữa, cho đến khi một trăm gã cướp biển đã đứng dàn hàng trên bãi biển lạ. Số còn lại chàng để lại coi tàu. Chàng đem theo một số người đông đến vậy trong một chuyến đi mà chỉ một phần tư số đó là đủ để bảo đảm bằng số lượng áp đảo chàng sẽ tránh được bạo lực không cần thiết. Hoàn toàn không bị phát hiện, chàng dẫn chúng đi theo sườn dốc hướng tới Arwenack trong bóng ðêm tối mịt. Chàng gần như trào nước mắt khi một lần nữa lại đặt chân lên mảnh đất quê hương. Con đường mà chàng đang tự tin lần theo ngay cả trong bóng tối này mới quen thuộc làm sao ; chàng gần như nhận ra từng bụi cây tảng đá trong lúc bước đi, đám thủ hạ câm lặng theo sát sau lưng. Ai có thể tiên đoán được cho chàng một ngày trở về như thế này? Khi chàng dắt chó đi săn theo con đường này lúc còn là một cậu thiếu niên, làm sao chàng có thể ngờ rằng một ngày kia chàng sẽ lần đi trong ðêm giữa những đụn cát này, một tên cải đạo Hồi giáo dẫn theo một đám cướp biển tà giáo đến tấn công tư dinh của Sir John Killigrew, chủ nhân của Arwenack? Những ý nghĩ đó khiến chàng trở nên yếu đuối trong khoảnh khắc, nhưng chàng nhanh chóng bừng tỉnh khi nghĩ tới tất cả những bất công đã phải chịu đựng, khi chàng nhắc nhở mình rằng chàng tới đó để báo thù. Đầu tiên là tới Arwenack gặp Sir John và Rosamund để buộc hai người cuối cùng cũng phải nghe sự thật, và sau đó là Penarrow để tính sổ với Lionel. Những dự định đó đã làm người chàng nóng lên, xua đi cảm giác yếu đuối và thúc giục chàng rảo bước nhanh hơn lên phía đỉnh đồi và toà dinh thự cho tường luỹ bao quanh nằm trên đỉnh. Chàng thấy cánh cổng lớn đánh đai sắt khoá trái, một điều có thể thấy trước vào giờ này. Chàng gõ cửa, lập tức một cánh cửa ngách mở ra, một ngọn ðèn tiến lại gần. Ngay lập tức ngọn ðèn bị gạt sang bên và Sir Oliver lách mình vọt vào trong sân.Với một tay bịt miệng người gác cổng không cho hô hoán, chàng bàn giao anh chàng lại cho đám thủ hạ, bọn này nhanh chóng trói gô anh ta lại. Xong xuôi, cả đám cùng im lặng lách qua cánh cửa ngách vào khoảng sân rộng. Chàng dẫn đầu cả toán, gần như chạy, hướng về phía những khung cửa sổ tràn ngập ánh sáng vàng như chỉ ðường cho họ. Với những người hầu bắt gặp trong sảnh toán cướp biển cũng ra tay nhanh nhẹn và im lặng như với người gác cổng, chúng ra tay nhanh chóng và thận trọng đến mức Sir John và đám khách không hề nghờ vực gì về sự có mặt của đám người lạ cho đến khi cánh cửa phòng ăn mở tung ra trước mắt họ. Những gì trông thấy đã làm họ ngỡ ngàng choáng váng một hồi. Lord Henry đã thuật lại với chúng ta lúc đầu ngài đã cho rằng đây là một trò ðùa, một sự bất ngờ mà các tá điền của Sir John hay dân chúng của Smithick và Penycumwick chuẩn bị dành cho đôi bạn trẻ sắp thành hôn, và ngài còn nói thêm rằng niềm tin của ngài vào giả thuyết này càng ðược cổ vũ bởi lẽ trong tay đám người vừa ập vào không có bất cứ thứ khí giới nào. Cho dù đám cướp biển đổ bộ lên bờ ðược vũ trang đầy đủ để đề phòng mọi bất trắc, nhưng thủ lĩnh của chúng đã có lệnh không được rút vũ khí ra. Tất cả phải được tiến hành bằng tay không và không được gây đổ máu. Đó là lệnh của Sakh el Bahr, và Sakh el Bahr không ra lệnh để bị bất tuân. Bản thân chàng tiến lên đứng phía trước đám thủ hạ da ngăm ngăm bận quần áo mang đủ bảy sắc cầu vồng, trên đầu đội những chiếc turban đủ màu. Chàng lặng im gườm gườm nhìn đám người trong phòng ăn, và nhóm người đang bàng hoàng cũng thầm quan sát gã hộ pháp đội turban với khuôn mặt đầy quyền uy rám nắng, bộ râu rậm đen nhánh, và đôi mắt sáng khác thường với tia nhìn lạnh như thép nằm dưới đôi lông mày đen. Sự im lặng kéo dài trong khoảnh khắc, rồi Lionel bật kêu thảng thốt, loạng choạng ngồi phịch xuống chiếc ghế bành như sắp xỉu. Đôi mắt sắc sảo của kẻ lạ mặt nhìn thẳng vào quý ngài cười cợt, tàn nhẫn. « Ta thấy ít nhất mi cũng đã nhận ra ta, » Sakh el Bahr lên tiếng bằng giọng nói trầm trầm. « Ta luôn tin rằng có thể trông cậy vào cái nhìn của tình huynh đệ để gạt bỏ những thay đổi mà thời gian và khổ ải đã để dấu ấn trên con người ta. » Sir John đứng bật dậy, khuôn mặt xương xương của ông tái xám, quý ông thốt lên một câu rủa kinh ngạc. Rosamund đứng dậy cứng người như hoá đá vì kinh hoàng, nhìn chằm chằm vào Sir Oliver với đôi mắt lạc thần mở to, trong khi hai tay cô gái chới với bám vào thành bàn. Cả họ cũng đã nhận ra chàng, và đều hiểu rằng đây không phải là chuyện bông ðùa. Sir John không nghi ngờ chàng đang dự định một ý đồ tàn nhẫn nào đó. Nhưng ý định đó là gì thì ông chịu không đoán ra nổi. Đây là lần đầu tiên người ta nhìn thấy bọn cướp biển Barbary ở nước Anh. Cuộc tập kích nổi tiếng của chúng ở Baltimore trên đất Ireland phải hõn ba mươi năm sau mới xảy ra. « Sir Oliver Tressilian! » Killigrew kêu lên thảng thốt, và Lord Henry Goade lặp lại như một cái máy « Sir Oliver Tressilian! » trước khi thêm « Chúa ơi! » « Không phải Sir Oliver Tressilian”, câu trả lời tới lập tức, « mà là Sakh el Bahr, nỗi ám ảnh trên biển, nỗi kinh hoàng của Thiên chúa giáo, tên cướp biển tuyệt vọng liều lĩnh mà sự dối trá, tham lam, thất tín của các người đã tạo ra từ một kẻ vốn trước đây là một nhà quý tộc Cornwall. » Chàng chỉ vào họ với một cử chỉ như buộc tội. « Hãy coi đây, ta và những con ó biển của ta đến đây để đòi lại một món nợ đã quá lâu ngày. » Thuật lại những gì ngài đã mắt thấy tai nghe, Lord Henry cho chúng ta biết làm thế nào mà Sir John đã lén rút một món vũ khí treo trên tường xuống ; và Sakh el Bahr đã hét lên một từ Arab duy nhất, và chỉ với một từ ra lệnh ấy sáu tên thủ hạ của chàng đã nhảy bổ vào nhà hiệp sĩ như thế nào để vật ngài xuống sàn nhà. Phu nhân Henry kêu thét lên, chồng bà ta có vẻ đã không hành động gì, hoặc giả sự khiêm tốn đã khiến ngài bỏ qua phản ứng của bản thân lúc đó. Rosamund, trắng bệch đến tận môi, tiếp tục trân trối đứng nhìn, trong khi Lionel, tuyệt vọng, run rẩy ðưa hai tay lên bưng mặt. Tất cả họ đều chờ đợi một màn đổ máu man rợ chuẩn bị diến ra, sau khi nạn nhân xấu số đã bị quật gục xuống sàn một cách lạnh lùng tàn nhẫn. Nhưng không có giọt máu nào đổ ra. Đám cướp biển chỉ ðè sấp Sir John xuống sàn, trói giật hai tay ông ra sau lưng, và sau khi đã thực hiện xong bổn phận một cách mau lẹ, chúng lặng lẽ bỏ ông nằm đó và lui lại sau. Sakh el Bahr nhìn bọn thủ hạ ra tay với ánh mắt cười cợt đầy thù hận. Sau đó chàng ðưa tay chỉ vào Lionel, lúc này chợt đứng bật dậy vì kinh hãi với một tiếng kêu lạc giọng. Những cánh tay da nâu tóm chặt lấy anh chàng như một ðàn rắn. Bất lực, cậu ta bị nhấc bổng lên và khuân ra ngoài. Trong khoảnh khắc đứa em trai mặt đối mặt với người anh đội turban. Đôi mắt kẻ cải đạo nhìn sắc lạnh như hai lưỡi dao vào khuôn mặt méo mó vì kinh hãi của gã. Rồi một cách khinh bỉ theo phong cách của người Hồi giáo, chàng nhổ vào khuôn mặt đó. « Ðưa hắn đi! » chàng gầm lên, và một khoảng trống lập tức được mở ra qua đám thủ hạ đang xúm xít sau lưng chàng, Lionel lập tức bị điệu ra và biến mất khỏi tầm mắt của những người trong phòng. « Ngươi định mưu tính sát nhân chăng? » Sir John gầm lên phẫn nộ. Ông đã gượng dậy được và đứng sững hầm hầm căm tức trong vòng dây trói. “Ngài định ám hại em trai ngài như đã từng giết hại anh trai tôi chăng?” Rosamund hỏi, lên tiếng lần đầu tiên, vừa nói vừa đứng dậy, khuôn mặt tái nhợt của nàng hơi đỏ lên. Cô thiếu nữ thấy chàng cau mày; rồi vẻ căm thù pha lẫn giễu cợt mỉa mai phụt tắt trên khuôn mặt chàng, khiến nó trở nên vô cảm trong giây lát. Rồi khuôn mặt đó lại tối sầm đi với một quyết định mới. Những lời nói của nàng đã làm thay đổi toàn bộ ý định ban đầu của chàng. Chúng thổi bùng lên trong chàng một cơn căm hận sắt đá. Chúng làm im lặng hết những lời giải thích mà chàng đã định nói ra, sau những gì vừa được nghe chàng không định mất công giải thích ở đây nữa. “Tôi thấy là cô yêu cái... cái kẻ đã từng là em trai tôi đó,” chàng bĩu môi đáp. “Tôi chỉ tự hỏi liệu cô có còn tiếp tục yêu được hắn ta nữa hay không khi cô biết hắn ta rõ hơn? Tuy rằng quả thật không còn gì có thể làm tôi ngạc nhiên về một người ðàn bà và mối tình của cô ta. Dù thế tôi vẫn tò mò muốn thấy, rất tò mò.” Chàng phá lên cười. “Tôi sẽ không chia lìa hai vị đâu – chưa đâu.” Chàng tiến lại phía nàng. “Đi theo tôi, thưa quý tiểu thư,” chàng ra lệnh, và đưa tay ra. Đến lúc này đến lượt Lord Henry bị thúc đẩy đến một hành động vô ích. “Đến lúc đó,” ngài viết,”tôi lao vào giữa hai người để che chở cho cô gái.’ Đồ chó’, tôi quát,’mi sẽ phải chịu trừng phạt!’ ‘Trừng phạt’, gã lặp lại, rồi cười gằn chế giễu tôi,’Ta đã bị trừng phạt đủ rồi. Đó là lý do ta có mặt ở đây.’ ‘Và ngươi sẽ bị trừng phạt nữa, đồ cướp biển khốn kiếp!’ tôi cảnh cáo gã. ‘Thề có Chúa ngươi sẽ phải trả giá cho sự hỗn xược này!’ ‘Thật chăng?’ gã đáp lại, thái độ lạnh lùng đe doạ. ‘Bởi tay ai vậy thưa quý ông?’ ‘Bởi chính ta,’ tôi hét lớn, lúc đó tôi đang rất căm phẫn. ‘Ngươi ư?’ gã bĩu môi. ‘Ngươi đòi đi săn ó biển ư? Ngươi? Đồ gà trụi lông! Cuốn xéo! Đừng làm ta mất thì giờ!’ Và quý ngài kể thêm rằng Sir Oliver lại hô lên từ Arab nọ, và để tuân lệnh một tá đầu trâu mặt ngựa ập tới lôi ngài tư lệnh của nữ hoàng sang một bên và trói nghiến ngài vào một chiếc ghế. Lúc này Sir Oliver và Rosamund đứng mặt đối mặt với nhau - đối diện nhau sau năm năm trời đằng đẵng, và lúc này chàng chợt nhận ra trong mỗi khoảnh khắc của khoảng thời gian dài đó chàng luôn đoan chắc rằng sẽ có ngày một cuộc gặp gỡ như thế này sẽ tới. “Lại đây, tiểu thư,” chàng nghiêm nghị ra lệnh. Trong khoảnh khắc cô gái đứng nhìn chàng với sự căm hận và kinh tởm hiện rõ trên đôi mắt xanh trong sâu thẳm. Rồi nhanh như chớp, nàng quơ lấy một con dao trên bàn và đâm thẳng nó vào tim chàng. Nhưng bàn tay chàng cướp biển cũng nhanh nhẹn không kém chộp lấy cổ tay nàng, con dao rõi xuống sàn trước khi tới đích. Cô thiếu nữ rùng mình nấc lên nghẹn ngào, vừa kinh hoàng trước việc nàng định làm, vừa ghê sợ người đàn ông đang nắm lấy nàng. Nỗi kinh hoàng dâng lên cho đến khi khuất phục hoàn toàn cô gái, nàng ngất đi, người ngã đổ về phía chàng. Theo bản năng chàng đưa tay ra ôm lấy nàng, và trong chốc lát chàng ôm lấy nàng như vậy, nhớ lại lần cuối cùng nàng ngả đầu tựa vào ngực chàng một buổi tối hơn năm năm về trước dưới chân bức tường xám của Godolphin Court bên dòng sông. Nhà tiên tri nào có thể cho chàng biết vào lúc đó rằng lần tiếp theo chàng ôm nàng trong vòng tay lại trong hoàn cảnh như thế này? Tất cả thật khó tin và vô lư, nhý một giấc mõ cuồng loạn của một đầu óc không bình thường. Thế nhưng tất cả lại là sự thật, và một lần nữa nàng lại nằm trong vòng tay chàng. Chàng ðưa tay xuống ôm lấy eo nàng, đặt nàng lên bờ vai vạm vỡ của mình như thể nàng là một bao lúa mì và đi ra ngoài, những gì chàng muốn thực hiện ở Arwenack đã hoàn tất - quả thực một số điều còn hoàn tất trọn vẹn hõn ý định của chàng, và cũng có một số điều ít trọn vẹn hơn. “Đi thôi, đi thôi!” chàng ra lệnh cho đám thủ hạ, và đoàn cướp biển rút lui cũng lặng lẽ và nhanh chóng như khi xuất hiện, không có ai dám hô hoán ngăn trở. Đám cướp biển đi qua sảnh ngoài, băng qua sân rời khỏi khu dinh thự qua cánh cổng mở ngỏ, xuôi theo sườn đồi thoai thoải xuống phía bãi biển nơi những chiếc xuồng đang đợi sẵn. Sakh el Bahr lao đi nhanh nhẹn như thể người phụ nữ đang nhất xỉu chàng mang theo chỉ như một chiếc áo khoác vắt qua vai. Phía trước chàng là sáu tên thủ hạ đang vác gã em trai chàng, lúc này đã bị trói chặt và bịt mồm. Chỉ một lần duy nhất trong khi họ đi xuống quả đồi Arwenack Oliver chợt dừng bước. Chàng dừng lại đưa mắt nhìn qua dải nước tối sẫm đến khu rừng che khuất ngôi biệt thự của Penarrow khỏi tầm nhìn. Như chúng ta đã biết, một trong những dự định của chàng là đảo qua đó một chút. Nhưng lúc này thì không còn cần thiết nữa, và chàng chợt cảm thấy nhói đau thất vọng, chợt khao khát muốn nhìn lại nhà mình một lần nữa. Nhưng dòng suy nghĩ của chàng đã bị cắt ngang bởi sự xuất hiện của hai gã sĩ quan – Othmani và Ali, lúc này đang thì thầm trao đổi với nhau. Đến bên cạnh chàng, Othmani nắm lấy cánh tay chàng rồi chỉ về phía những đốm sáng của Smithick và Penycum wick. « Chủ nhân, » gã khẽ reo lên, « ở dưới kia không thiếu gì thanh niên và thiếu nữ có thể bán với giá hời tại sôk-el-Abeed. » « Không nghi ngờ gì, » Sakh el Bahr đáp, hầu như không để ý xem tên thủ hạ nói gì, lúc này tâm chí chàng chẳng còn để ý đến chuyện gì trên đời ngoài nỗi nhớ nhà. « Vậy thuộc hạ có thể lấy năm mươi tín đồ chân giáo để tấn công chúng không? Sẽ rất dễ dàng, vì bọn chúng không hề biết chúng ta đang ở đây. » Sakh el Bahr bừng tỉnh khỏi cơn suy tư. « Othmani, » chàng nói, « mi là một tên khùng, kẻ điên rồ nhất trong những tên khùng, nếu không hẳn mi phải biết rằng những người vốn là đồng bào với ta, những người cũng sinh ra từ mảnh đất đã sinh thành ra ta, đều thiêng liêng đối với ta. Tại đây chúng ta sẽ không bắt thêm nô lệ nào ngoài những kẻ chúng ta đã bắt. Thế nên, nhân danh Allah, tiếp tục rút lui! » Nhưng Othmani không dễ bị át giọng. « Chẳng lẽ cả chuyến đi đầy mạo hiểm qua những vùng biển lạ đến miền đất xa xôi này lại chỉ để đổi lấy có hai tù binh thôi sao? Liệu đây có phải là một chiến công tương xứng với Sakh el Bahr không? » « Hãy để Sakh el Bahr tự phán xét, » là câu trả lời lạnh lùng gã nhận được. « Nhưng hãy thử nghĩ xem, ôi chủ nhân: còn có một người nữa cũng sẽ phán xét. Liệu Basha của chúng ta, Asad ed Din vinh quang, sẽ đón tiếp người ra sao khi người trở về với thành quả nhỏ nhoi như vậy? Chúa công rồi sẽ hỏi chủ nhân những gì, và chủ nhân sẽ trả lời ngài ra sao về việc đã mạo hiểm tính mạng của từng ấy tín đồ chân giáo để đổi lấy lợi ích nhỏ nhoi như vậy? » « Chúa công sẽ hỏi ta những gì ngài muốn, và ta sẽ trả lời ngài theo ý ta, như Allah chỉ dẫn. Đi thôi, ta ra lệnh! » Và họ tiếp tục đi, Sakh el Bahr lúc này hầu như không cảm thấy gì khác ngoài hơi ấm từ thân hình đang nằm trên vai chàng, và với tâm trạng rối bời lúc đó, chàng không còn hiểu nổi nó đã làm bùng lên trong chàng tình yêu hay lòng thù hận. Họ xuống tới bãi biển, rồi ra tới chiếc tàu mà sự xuất hiện vẫn chưa ai biết. Gió thuận và bọn cướp biển lập tức khởi hành. Đến lúc bình minh không chúng đã biến mất không để lại chút vết tích nào. Cứ như thể chúng đã từ trên trời rơi xuống bờ biển Cornwall buổi tối hôm đó, và nếu không có những dấu chân chúng để lại trong cuộc tập kích chớp nhoáng lặng lẽ, cũng như sự biến mất của Rosamund và Lionel, câu chuyện này hẳn đã bị coi chỉ là một giấc mơ của một số ít người đã tận mắt chứng kiến. Trên boong chiếc thuyền buồm, Sakh el Bahr đưa Rosamund vào một căn buồng, cẩn thận khoá trái cửa dẫn ra hành lang. Còn Lionel chàng ra lệnh quẳng xuống một xó xỉnh tối tăm dưới hầm tàu, gã nằm xỉu ở đó, kiệt sức vì kinh hãi, cho đến khi ông anh trai quyết định số phận gã - về việc này chàng cải đạo vẫn còn phân vân. Còn bản thân chàng nằm dưới trời sao suốt đêm hôm đó nghĩ ngợi đủ chuyện. Một trong những ý nghĩ chợt đến với chàng, một thứ sẽ đóng một vai nhất định trong câu truyện này, cho dù nó chỉ loáng thoáng lướt qua tâm trí chàng, là những lời Othmani đã nói. Quả thực, Asad sẽ chào đón chàng ra sao nếu chàng quay về Algiers sau một chuyến đi dài đến vậy, mạo hiểm tính mạng của hai trăm tín đồ chân giáo, mà không có gì để trình diện trừ hai người tù, mà hơn nữa hai người này chàng hoàn toàn có ý định giữ lại cho riêng mình? Chẳng phải đó sẽ là cái cớ tuyệt vời để lợi dụng cho kẻ thù của chàng ở Algiers cũng như cô vợ người Sicily của Asad, người luôn căm ghét chàng với tất cả sự thâm thù của lòng căm hận bắt rễ từ ghen tức? Rất có thể những suy nghĩ này đã góp phần đẩy chàng vào một cuộc giao chiến rất mạo hiểm ngay rạng sáng ngày hôm sau, khi Định Mệnh dường như đã đưa tới cho chàng câu trả lời dưới dạng một chiếc tàu Hà Lan với những cột buồm cao đang trên đường quay về nhà. Chàng ra lệnh đuổi theo, bất chấp việc biết rõ mười mươi trận chiến chàng đang tìm kiếm là một hình thức hải chiến mà thủ hạ của chàng không hề có chút kinh nghiệm nào, và nếu không phải với chàng mà là với một đầu lĩnh khác, hẳn chúng sẽ ngần ngại phải tham gia. Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của Sakh el Bahr đã luôn chỉ tới chiến thắng, và niềm tin của bọn cướp vào chàng, mũi lao sắc bén của Allah, đã mạnh hơn nỗi e ngại mà trong hoàn cảnh khác hẳn chúng đã cảm thấy khi đối mặt với một kiểu tàu chưa từng gặp phải và trên mặt đại dương xa lạ đầu sóng gió. Trận đánh này đã được Lord Henry tả lại rất chi tiết từ những thông tin Jasper Leigh thuật lại cho ngài. Nhưng nói chung nó cũng chẳng khác gì các trận hải chiến khác thời ấy, và tôi không hề có ý định làm độc giả mất thì giờ về những chi tiết nhỏ nhặt rườm rà. Chỉ cần biết rằng cuộc giao tranh đã diễn ra ác liệt không khoan nhượng, và cả hai bên tham chiến đều tổn thất lớn về nhân mạng; một trận chiến trong đó đại bác không đóng vai trò quan trọng, vì biết rõ người của mình, Sakh el Bahr đã gấp rút cho áp mạn. Chàng đã đạt được mục đích của mình, cũng như mọi lần, nhờ vào sự quyết đoán và lòng can đảm của bản thân. Chàng là người đầu tiên lao sang boong chiếc tàu Hà Lan, mình mặc áo giáp bằng mạng sắt, tay vung cao thanh scimitar, và đám thủ hạ của chàng ùa theo thét vang tên chàng và tên của Allah. Trong các trận giao tranh, sự dũng mãnh của chàng đã luôn luôn lây sang thủ hạ và nguồn khích lệ lớn lao động viên chúng. Cả lần này cũng vậy, và những người Hà Lan khôn ngoan đã nhận ra chàng chính là trái tim và khối óc của đám người hỗn độn điên cuồng này. Họ liền tập trung số đông tấn công chàng, quyết tâm hạ chàng bằng mọi giá, linh cảm một cách chắc chắn rằng nếu chàng gục xuống, họ sẽ dễ dàng chiến thắng. Và cuối cùng họ cũng thành công. Một cây kích Hà Lan đã chặt đứt vài mắt xích trên áo giáp chàng cướp biển và khiến chàng bị thương nhẹ vào phần mềm, nhưng trong lúc đang hăng máu chàng không hề để ý đến; một thanh kiếm Hà Lan nhờ đó tìm thấy điểm yếu của chàng, đâm xuyên qua áo giáp khiến chàng gục xuống, máu tràn ra từ vết thương. Nhưng lập tức chàng đã gượng đứng dậy, hiểu rõ không kém đối phương rằng nếu chàng gục xuống thất bại sẽ là không tránh khỏi. Vớ lấy một chiếc rìu cán ngắn nằm ngay dưới tay chàng lúc chàng ngã xuống, Sakh el Bahr mở một con đường tới mạn tàu, đứng tựa vào ván gỗ của thành tàu, và bằng giọng khản đặc, khuôn mặt tái nhợt đi vì mất máu, chàng không ngớt thúc giục người của mình xông lên cho đến khi bọn cướp giành được phần thắng- và cũng may là khá nhanh chóng. Sau đó, như thể chàng chỉ được giữ đứng trên hai chân cho tới thời điểm này bằng sức mạnh của ý chí, chàng khuỵu xuống nằm vật ra giữa đám xác chết và những người bị thương, người tựa vao mạn tàu. Đám cướp biển rầu rĩ mang chủ tướng trở lại chiếc tàu buồm của chúng. Nếu chàng không qua khỏi, chiến thắng của chúng quả là vô nghĩa. Chúng đặt thủ lĩnh xuống chỗ nằm đã được thu xếp ở giữa boong chính của tàu, nơi chiếc tàu ít lắc lư nhất. Một bác sĩ phẫu thuật người Moore xem xét vết thương của chàng cướp biển, tuyên bố rằng vết thương tuy có nặng nhưng chưa đến mức hoàn toàn tuyệt vọng. Lời chẩn đoán này đã cho đám cướp tất cả sự bảo đảm chúng cần. Không có lý nào Người Làm Vườn lại sớm trảy đi một quả quý như vậy trong khu vườn của Allah. Đấng Nhân Từ hẳn sẽ cho Sakh el Bahr được sống vì vinh quang của Hồi giáo. Thế nhưng bọn cướp đã đến eo Gibralta trước khi cơn sốt của người bị thương hạ xuống và chàng tỉnh táo hoàn toàn trở lại, để được kể lại kết quả trận giao tranh mạo hiểm mà chàng đã dẫn những đứa con của Đấng Tiên Tri vào. Chiếc tàu Hà Lan, Othmani thông báo với chàng, đang theo sau họ, do Ali và một số người khác điều khiển, luôn bám sát chiếc tàu của họ lúc này vẫn do con chó tà đạo Jasper Leigh cầm lái. Khi Sakh el Bahr được biết giá trị của cải cướp được, khi chàng được thông báo rằng bên cạnh một trăm tù binh có thể bán được tại chợ nô lệ sôk- el –Abeed, còn có hàng hoá bao gồm vàng, bạc, ngọc trai, trầm hương, gia vị, và ngà voi, cùng những thứ ít giá trị hơn như hàng kiênj đồ tơ lụa sang trọng, nói tóm lại là đáng giá hơn bất cứ chiến quả nào trước đây trên biển, chàng cảm thấy đã không đổ máu vô ích. Giờ thì chàng có thể thanh thản quay về Algiers với hai chiếc tàu chiếm được nhân danh Allah và đấng tiên tri của người, một trong số đó mang đầy chiến lợi phẩm quý giá, một kho báu nổi thực sự, và chàng chẳng phải e ngại nhiều về những gì kẻ thù của chàng và người đàn bà Sicily nham hiểm đã dựng ra chống lại chàng trong lúc chàng vắng mặt. Sau đó chàng hỏi đến hai tù nhân người Anh, và được biết Othmani đã tiếp tục cư xử với hai người này như Sakh el Bahr đã làm khi họ được đưa lên tàu. Chàng hoàn toàn hài lòng, và chìm vào một giấc ngủ nhẹ nhàng của một người đang hồi phục, trong khi trên mặt boong, thủ hạ của chàng đang tạ ơn Allah đấng nhân từ đấng độ lượng, thượng đế của ngày phán xét cuối cùng, là đấng duy nhất toàn năng, toàn trí.