Asad ed Din, Con Sư Tử của đức tin, Basha của Algiers, đang đi dạo buổi chiều trong khu vườn cây ăn quả của cung điện nằm trên đồi cao nhìn xuống thành phố, bên cạnh đức ông, rảo bước một cách kiêu kỳ duyên dáng, là Fenzileh, vợ ngài, người chủ hậu cung, người 18 năm trước ngài đã bắt mang đi trong vòng tay rắn chắc của mình từ một ngôi làng nhỏ với những ngôi nhà quét vôi trắng gần eo biển Messina mà đức ông cùng thủ hạ đã đổ lên cướp phá. Bà ta lúc đó còn là một cô thiếu nữ mười sáu tuổi tuyệt đẹp, con gái của một gia đình nông dân nghèo, và cô thiếu nữ đã chấp nhận bị mang đi trong vòng tay của gã cướp biển lực lưỡng mà không chút phàn nàn. Lúc này, đã bước vào tuổi ba mươi tư, bà ta vẫn xinh đẹp, thậm chí còn đẹp hơn khi bà ta lần đầu tiên làm bùng lên ngọn lửa đam mê của Asad-Reis- như người ta gọi ông ta lúc đó, một trong những tuỳ tướng của Ali Basha lừng danh. Mái tóc đen óng ả dài và nặng của bà ta long lanh ánh đỏ, làn da mềm mại trắng hồng, không chút tỳ vết như một viên ngọc trai hảo hạng, đến mức có thể tưởng như trong suốt, đôi mắt to màu vàng nâu long lanh như có lửa, đôi môi đầy đặn, quyến rũ. Người đàn bà này có vóc người cao ráo, với thân hình có thể được coi là hoàn hảo ở châu Âu, cũng có nghĩa là hơi quá mảnh mai với sở thích phương đông; bà rảo bước bên cạnh người chồng vương giả của mình với dáng đi kiêu kỳ duyên dáng, tay khẽ phe phẩy chiếc quạt lông đà điểu. Bà không che mạng; quả thực bà ta luôn có thói quen đi ra ngoài để lộ mặt một cách thiếu ý tứ như vậy khá thường xuyên, nhưng đó cũng chỉ là một trong vô số thói quen khó chấp nhận của những kẻ tà đạo mà bà ta vẫn giữ lại cho mình sau khi quy thuận đức tin Hồi giáo - một điều kiện bắt buộc trước khi Asad, một người mộ đạo đến độ cuồng tín, chấp nhận cưới bà làm vợ chính thức. Và đức ông đã tìm thấy ở người đàn bà này một người vợ mà chắc chắn không bao giờ ngài có thể kiếm được ở nhà; một người phụ nữ, không cam phận làm vật mua vui giải trí cho đức ông trong những lúc thư nhàn, đã xen vào việc chính sự của ngài, đòi hỏi và dần dần chiếm được lòng tin của ngài, và thao túng ảnh hưởng ngài chẳng khác gì phu nhân của một ông hoàng Âu châu với chồng mình. Trong những năm ông ta còn bị mê hoặc bởi sắc đẹp của cô vợ trẻ, đức ông đã chấp nhận tình thế này một cách khá dễ dãi; sau đó, khi ngài muốn gạt ảnh hưởng của bà vợ sang một bên thì đã quá muộn; bà ta đã siết chặt dây cương, và Asad cũng chẳng hơn gì vô số ông chồng người Âu - một tình thế thật bất bình thường và khó chấp nhận với một Basha thuộc đức tin của Đấng tiên tri. Tình thế này cũng nguy hiểm với cả chính Fenzileh; vì nếu gánh nặng do bà ta gây ra vào lúc nào đó trở nên quá sức chịu đựng của quý ông chồng, ông ta hoàn toàn có thể rũ bỏ bà vợ một cách dễ dàng. Cũng không nên cho rằng bà ta ngu ngốc đến mức không nhận ra mối nguy đó – bà ta luôn ý thức được đầy đủ nguy cơ đang đe doạ mình; nhưng tâm hồn Sicily của người phụ nữ này táo tợn đến mức liều lĩnh; chính bản lĩnh đã giúp bà ta khống chế được đấng phu quân ở mức độ chưa từng có với một bà vợ Hồi giáo nào khác đã thúc giục bà ta tiếp tục duy trì nó, bất chấp mọi nguy hiểm phải đối đầu. Ngay cả trong lúc này bà ta cũng đang đùa với lửa, trong khi rảo bước trong bầu không khí mát dịu của khu vườn, dưới những tán cây anh đào nở đầy hoa trắng và hồng, những cây lựu đang ra hoa đỏ thắm, và qua những hàng cây cam trĩu quả vàng ươm lấp ló dưới tán lá màu xanh sẫm. Bà ta đang bận rộn với công việc muôn thuở của mình nhằm đầu độc ý nghĩ của đức ông chồng chống lại Sakh el Bahr, trong sự ghen ghét xuất phát từ bản năng làm mẹ, bà ta đã bất chấp nguy hiểm có thể rơi xuống đầu khi dèm pha như vậy, vì bà biết quá rõ chàng hải tặc cải đạo đang vắng mặt có chỗ đứng quan trọng thế nào trong tim của Asad ed Din. Chính sự quý mến mà Basha dành cho viên phó tướng đã khiến bà căm thù Sakh el Bahr, vì tình cảm đó đã khiến Asad xa cách chính đứa con trai của mình và bản thân bà hơn, dẫn tới tin đồn rằng Sakh el Bahr đã được chỉ định làm người kế vị chức Basha sau Asad. “Thiếp cần phải cho chàng hay rằng hắn đang lợi dụng chàng, ôi nguồn sống của đời thiếp.” “Ta đang nghe bà đây,” Asad lạnh lùng trả lời. “ Và nếu bà không nặng tai đến thế, hẳn bà đã nghe ta trả lời rằng những lời nói của bà không là gì cả đối với ta bên cạnh những chiến công của anh ta. Lời nói có thể chỉ là một chiếc mặt nạ che dấu ý nghĩ của chúng ta; hành động là biểu hiện của những gì chúng ta nghĩ. Bà hãy nhớ kỹ điều này, Fenzileh.” “Chẳng lẽ thiếp lại không ghi nhớ từng lời của chàng sao, ôi ngọn nguồn của sự thông thái?” bà ta phản đối, và như thường lệ lại khiến ông chồng tự hỏi không biết cô vợ trẻ đang trách móc hay mỉa mai. “Và thiếp chỉ muốn nhắc đến những hành động của hắn ta, chứ không phải những lời nói khốn khổ của thiếp, những gì hắn nói thì lại càng không.’ “Vậy thì, nhân danh Allah, hãy để những hành động ấy tự nói về chúng, còn bà thì im đi.” Giọng nói trách cứ bực dọc và vẻ khinh bỉ trên khuôn mặt kiêu hãnh của ông chồng đã khiến bà ta im bặt trong khoảnh khắc. Đức ông quay đi. “Lại đây,” ông lên tiếng. “Sắp đến giờ cầu nguyện rồi.” Và ngài sải bước hướng tới những bức tường màu vàng của Kasbah vươn cao lên trên tấm thảm xanh của khu vườn thơm ngát. Ông ta là một người cao lớn, đôi vai đã hơi còng dưới gánh nặng của tuổi tác; nhưng khuôn mặt diều hâu của ông đầy vẻ quyền uy, và trong đôi mắt sẫm màu vẫn loé lên vài tia sáng mãnh liệt của thời trai trẻ còn lưu lại. Có vẻ trầm ngâm, ông đưa một bàn tay đeo đầy trang sức lên vuốt nhẹ chòm râu dài trắng; cánh tay còn lại của đức ông tựa vào cánh tay mềm mại tròn trịa của bà vợ, vì thói quen hơn là cần chỗ dựa, vì ông ta vẫn còn vạm vỡ. Từ trên bầu trời xanh ngắt một con chim chiền chiện vụt cất tiếng hót, và từ trong khu vườn vọng lên những tiếng rì rầm khe khẽ của lũ bồ câu như muốn tạ ơn thượng đế vì cái nóng ghê gớm đã dịu đi nhiều vào lúc này, khi mặt trời đang lặn nhanh xuống phía chân trời và bóng nắng trên mặt đất dài dần ra. Giọng nói của Fenzileh lại vang lên, du dương ngọt ngào hơn bao giờ hết, thế nhưng chứa đầy những lời xúc xiểm, một thứ thuốc độc được khéo léo bọc ngoài bằng mật ngọt. “Ôi chủ nhân yêu dấu của thiếp, chàng đang giận thiếp mất rồi. Khổ thân thiếp quá! Chẳng bao giờ thiếp khuyên nhủ chàng như trái tim thiếp mách bảo vì vinh quang của chính chàng, mà thiếp nhận được gì khác hơn sự lạnh nhạt của chàng.” “Đừng dèm pha người mà ta yêu quý,” Basha đáp ngắn gọn. “Ta đã nói với nàng bao lần rồi.” Người thiếu phụ nép sát hơn vào đức ông, giọng nói của bà trở nên nhỏ nhẹ hơn, gần hơn với những tiếng thì thầm tỏ tình của những con bồ câu. “Chẳng lẽ thiếp không yêu chàng sao, ôi chủ nhân của tâm hồn thiếp? Liệu trên thế gian này có trái tim nào trung thành với chàng hơn thiếp chăng? Chẳng phải cuộc sống của chàng chính là của thiếp sao? Chẳng phải mỗi ngày trong đời thiếp đều hiến dâng cho hạnh phúc của chàng được trọn vẹn sao? Và không lẽ chàng lại cau mày phật ý với thiếp chỉ vì thiếp sợ cho chàng mối đe doạ từ bàn tay của một kẻ mới hôm qua còn là người xa lạ?” “Sợ cho ta?” đức ông lặp lại, và cười mỉa mai. “Nàng có gì để sợ cho ta từ Sakh el Bahr?” “Những gì mà tất cả tín đồ chân giáo cần luôn cảnh giác từ một kẻ không phải là một ngýời Hồi giáo chân chính, từ một kẻ đã lôi chân giáo ra làm trò cười và bậc thang để tiến thân.” Basha dừng bước, giận dữ quay ngoắt sang phía người thiếu phụ. “Cầu cho lưỡi của mụ bị thối rữa đi, mẹ đẻ của sự dối trá!” “Thiếp có khác gì cát bụi dưới chân ngài, ôi chủ nhân yêu dấu của thiếp, nhưng thiếp không phải hạng người mà cơn giận vô cớ của ngài đã gọi.” “Vô cớ?” đức ông lặp lại. “Không phải vô cớ mà hoàn toàn xác đáng khi phải nghe một người mà Đấng Tiên tri bảo trợ, ngọn lao của Hồi giáo chĩa vào ngực quân tà đạo, người trút cơn giận dữ của Allah xuống đầu bọn người Âu vô đạo, bị mụ mạ lị như vậy! Không một lời nào nữa, ta nhắc lại! Ta cũng muốn nhắc mụ từ giờ nói năng cho cẩn thận, nếu không mụ sẽ phải trả giá như một kẻ dối trá.” “Và liệu thử thách đó có làm thiếp sợ?” người thiếu phụ đáp trả, không hề bị khuất phục. “ Thiếp xin nói với ngài, cha của Marzak, rằng thiếp sẽ vui lòng chấp nhận nó. Bây giờ hãy nghe thiếp nói. Ngài đòi hỏi chứng cớ chứ không phải lời nói suông. Vậy, hãy cho thiếp biết, liệu phung phí tiền bạc vì bọn nô lệ tà đạo, mua chúng để sau đó hắn có thể trả tự do cho chúng, có phải là hành động của một người chân giáo hay không?” Asad tiếp tục im lặng bước đi. Thói quen lạ lùng trước đây của Sakh el Bahr quả là khó biện hộ. Việc này đã gây ra cho đức ông những giây phút khó nghĩ, và đã hơn một lần ngài chất vấn viên phó tướng để rồi luôn nhận được duy nhất một câu trả lời, cũng chính là câu trả lời ngài dùng để đáp lại Fenzileh. “Cứ mỗi nô lệ hắn thả đi như vậy, hắn đã mang về một tá nô lệ khác để bù lại.” “Hắn buộc phải làm vậy thôi, nếu không thì ai để cho hắn yên. Đó chỉ là một tấm mạng để che mắt những người Hồi giáo chân chính mà thôi. Việc phóng thích nô lệ cho thấy hắn vẫn còn lưu luyến với quê hương tà giáo của hắn. Liệu có thể có chỗ cho một tình cảm như vậy trong trái tim của một thành viên của Ngôi nhà vĩnh hằng của đấng Tiên tri không? Đã từng có ai nghe thấy thiếp than vãn nhớ nhung bờ biển Sicily nơi chàng đã dùng sức mạnh mang thiếp đi, hay thiếp đã từng bao giờ cầu xin với chàng vì mạng sống của một gã Silicy tà đạo nào trong suốt những năm thiếp hầu hạ chàng không? Thiếp nói với chàng rằng, nỗi nhớ quê đó chứng tỏ hắn vẫn lén lút theo tà đạo cũ của hắn, và một tình cảm như vậy không có chỗ ở một người đã giũ sạch quá khứ tà đạo khỏi trái tim mình. Và bây giờ hãy nói đến chuyến đi ra biển lớn của hắn - mạo hiểm một con tàu hắn chiếm được từ những kẻ thù không đội trời chung của Hồi giáo, con tàu không phải thuộc về hắn để mạo hiểm mà thuộc về chàng, vì hắn chỉ hành động nhân danh chàng; thêm vào đó hắn lại đùa bỡn với tính mạng của hai trăm tín đồ chân giáo. Để làm gì? Để đưa hắn đến bên kia đại dương, để hắn có thể nhìn lại mảnh đất đáng nguyền rủa đã sinh ra hắn. Biskaine đã thông báo lại như vậy. Và chuyện gì xảy ra nếu hắn bỏ mạng dọc đường?” “Ít nhất thì bà cũng sẽ hài lòng, mẹ đẻ của sự hiểm độc,” Asad gầm lên. “Hãy gọi thiếp bằng những cái tên tàn nhẫn, ơi mặt trời sưởi ấm thiếp! Chẳng phải thiếp là của chàng để sử dụng và hành hạ như ý thích của chàng hay sao? Hãy rắc muối lên trái tim chàng đã làm thương tổn; vì đó là bàn tay chàng thiếp sẽ không bao giờ hé môi oán thán một lời. Nhưng hãy nghe thiếp - - hãy nghe lời thiếp; hay nếu lời nói không có ý nghĩa gì với chàng, vậy thì hãy nghe thiếp cho chàng hay những sự việc bấy lâu chàng không biết. Thiếp nói, xin chàng hãy lắng nghe, như tình yêu của thiếp thúc giục, cho dù chàng sẽ ra lệnh phạt đòn hay giết thiếp vì sự liều lĩnh này.” “Người đàn bà kia, lưỡi của mụ khua dẻo quẹo như một chiếc chuông được quỷ dữ kéo dây vậy. Mụ còn muốn bịa đặt gì nữa đây?” “Không gì nữa, vì chàng sẽ lại chỉ giễu cợt thiếp, và không còn cho kẻ nô tỳ này được hưởng tình yêu của chàng nữa.” “Thế thì cảm ơn Allah,” đức ông nói, “lại đây, đến giờ cầu nguyện rồi!” Thế nhưng quý ngài đã tạ ơn Allah quá sớm. Giống như phụ nữ vẫn làm, cho dù khẳng định là đã nói hết, nhưng kỳ thực người thiếu phụ mới chỉ bắt đầu. “Vẫn còn con trai của chàng, ôi cha của Marzak.” “Đúng vậy, mẹ của Marzak.” “Với một người đàn ông, con trai của ông ta phải là một phần linh hồn của người đó. Nhưng Marzak đã bị bỏ qua bởi gã lạ mặt gặp thời kia; và kẻ mới hôm qua còn xa lạ đã chiếm mất chỗ trong trái tim và bên cạnh chàng đáng lẽ thuộc về Marzak.” “Liệu Marzak có thể đảm đương được vị trí đó không?” Ông chồng hỏi lại. “Liệu một thằng bé râu còn chưa mọc có thể dẫn dắt thủ hạ như Sakh el Bahr đã dẫn dắt họ, hay giương cao thanh scimitar chống lại kẻ thù của Hồi giáo và khiến vinh quang của giới luật thiêng liêng của đấng Tiên tri trên thế gian này được nâng cao như Sakh el Bahr đã làm không?” “Nếu Sakh el Bahr làm được chúng, đó là nhờ ân huệ của chàng, ôi chủ nhân của thiếp. Và Marzak cũng sẽ làm được như vậy, cho dù còn trẻ tuổi. Sakh el Bahr chỉ là những gì chàng đã tạo ra từ hắn – không hơn, không kém.” “Đến đây thì bà nhầm lẫn rồi đấy, ôi mẹ đẻ của sự sai lầm. Sakh el Bahr là những gì mà Allah đã tạo ra. Cậu ta là gì mà Allah muốn. Và cậu ta sẽ trở thành người mà Allah tiên định. Bà vẫn chưa học được rằng chính Allah đã buộc số phận lên cổ mỗi người sao? » Lúc đó một ráng vàng lộng lẫy chợt xoá nhoà đi nền trời màu xanh ngọc báo hiệu lúc hoàng hôn xuống và cũng chấm dứt luôn cuộc đôi co do người thiếu phụ khởi xướng với sự táo bạo cũng độc nhất vô nhị như sự kiên nhẫn của người đối thoại đã chịu đựng nó. Đức ông rảo bước nhanh hơn về phía sân toà dinh thự. Ráng vàng nhạt đi cũng nhanh như lúc xuất hiện, và màn đêm buông xuống đột ngột như thể một tấm màn nhung vừa được hạ. Dưới màn đêm, nền đá trắng của khoảng sân nổi bật lên toả sáng mờ mờ như thứ ánh sáng phản chiếu từ những viên ngọc trai. Hình dáng tối sẫm của các nô lệ đi qua đi lại không ngớt trong lúc Asad đi từ vườn vào, theo sau là Fenzileh, khuôn mặt lúc này đã được che bằng một tấm mạng mỏng bằng lụa màu xanh. Người thiếu phụ lướt qua khoảng sân hình vuông và biến mất dưới một hàng mái vòm, ngay cả khi giọng của một Mueddin từ xa vọng lại phá vỡ màn đêm yên tĩnh, đọc lời kinh Shehad— « La illaha, illa Allah! Wa Muhammad er Rasool Allah! » Một nô lệ trải một tấm thảm ra sân, một nô lệ thứ hai bê một chiếc chậu bạc, một nô lệ thứ ba đổ nước vào đó. Basha, sau khi đã rửa tay và mặt, quay người về hướng Mecca, và bày tỏ niềm tin vào sự duy nhất của Allah, đấng Bao dung, đấng Độ lượng, Chủ nhân của ngày phán xử cuối cùng, giữa tiếng cầu kinh của viên Mueddin vang vọng khắp thành phố từ ngọn tháp này đến ngọn tháp khác. Khi đức ông đứng dậy sau khi đã cầu nguyện, có tiếng bước chân hối hả ở bên ngoài vọng lại, và tiếng hô ra lệnh gay gắt. Toán janissary Thổ cận vệ của Basha, gần như vô hình trong bộ y phục rộng thùng thình màu đen, lao tới đáp lại lời gọi và quát hỏi ai đang đến. Từ cổng vòm của lối vào sân hắt lại ánh sáng của một lồng đèn đựng một chiếc đèn bằng đất nung được thắp sáng bởi một sợi bấc nhúng vào mỡ cừu. Asad, đứng đợi xem ai tới, dừng lại ở chân bậc cấp màu trắng nhẵn bóng, trong khi từ các khung cửa và cửa sổ áp mái của cung điện, ánh sáng ngập tràn chiếu xuống sân làm những viên đá cẩm thạch lát sân sáng long lanh. Chừng một tá lính phóng lao người Nubia tiến lại, xếp thành hàng ở một bên, trong khi trong vầng ánh sáng xuất hiện thân hình phương phi, ăn mặc sang trọng của Tsamanni, thượng thư của Asad. Sau lão còn có một người nữa mặc áo giáp bằng mạng sắt, các mắt sắt hơi loé sáng theo mỗi cử động của người mặc. « Bình yên và ân phước của đấng tiên tri ở cùng người, ôi Asad hùng mạnh! » viên thượng thư cất tiếng chào. « Bình yên ở cùng nhà ngươi, Tsamanni, » Basha đáp. « Ngươi mang tin tới chăng? » « Tin về chiến thắng và vinh quang, ôi chủ nhân quyền uy! Sakh el Bahr đã trở về. » « Tạ ơn Người! » Basha kêu lên, hai tay giơ lên trời ; và giọng nói đầy xúc động của đức ông không cho phép ai hiểu nhầm. Có tiếng bước chân nhẹ nhàng vang lên sau lưng ngài và một bóng người nhô ra khỏi ngưỡng cửa. Đức ông quay lại. Một thân hình đội turban và mặc áo caftan dát đầy vàng cúi chào ngài từ trên đỉnh bậc cấp. Khi người này đi lại gần, ánh sáng của lồng đèn chiếu sáng toàn bộ khuôn mặt người mới tới, làm lộ ra một khuôn mặt trắng trẻo khôi ngô đến mức có thể coi là một khuôn mặt của phụ nữ, nếu tính đến những đường nét mềm mại tròn trịa và sự vắng mặt hoàn toàn của bộ râu. Asad thầm mỉm cười dưới bộ râu trắng của mình, đoán rằng cậu thiếu niên đã được bà mẹ lúc nào cũng cảnh giác đa nghi phái tới để xem ai tới và mang theo tin gì. « Con đã nghe chăng, Marzak? » ông nói. « Sakh el Bahr đã trở về. » « Chiến thắng, con hy vọng, » cậu bé lúng túng đáp. « Chiến thắng chưa từng có, » Tsamanni trả lời. « Chàng vừa vào cảng lúc mặt trời lặn, toàn bộ thủ hạ ở trên hai chiếc tàu hùng mạnh kiểu châu Âu, mà đó cũng chỉ là phần nhỏ nhất trong chiến lợi phẩm khổng lồ mà chàng mang về. » « Allah thật vĩ đại, » Basha cất tiếng chào mừng câu trả lời dành cho những lời tiên đoán của bà vợ người Sicily của ngài. « Nhưng sao cậu ta không tự tới đây thuật lại tin mừng cho ta? » « Trách nhiệm giữ chàng lại trên tàu, thưa chủ nhân, » viên thượng thư đáp. « Nhưng chàng đã gửi viên kayia Othmani tới đây để báo tin với người. » « Chào mừng ngươi, Othmani. » Đức ông vỗ tay, lập tức đám nô lệ mang đệm ngồi vào đặt xuống sàn. Ngài ngồi xuống, và ra hiệu cho Marzak đến ngồi bên cạnh. « Bây giờ hãy kể lại câu chuyện của ngươi! » Và Othmani bắt đầu thuật lại họ đã hành trình tới nước Anh xa xôi trên chiếc tàu Sakh el Bahr đã cướp được ra sao, qua những vùng biển chưa tay hải tặc nào biết tới, và làm thế nào trên đường về họ đã tấn công một chiếc tàu Hà Lan mạnh hơn cả về trang bị lẫn quân số ; và tuy vậy Sakh el Bahr vẫn dành được chiến thắng nhờ sự trợ giúp của Allah, người bảo trợ của chàng, và chuyện chàng đã bị một vết thương đáng lẽ đã giết chết bất cứ người nào khác, trừ một người được phép màu cứu vớt lại cho những vinh quang lớn hơn của Hồi giáo, cũng như về chiến lợi phẩm giàu có chưa từng thấy mà sáng hôm sau sẽ được đặt dưới chân Asad để đức ông phân phát.